(Tương đương với quyển thứ 13, phẩm “Thán Tịnh”, MHBNBLM)
Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Thiện Duyên Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le
Tóm lược:
Bấy giờ, cụ thọ Xá lợi Tử thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Thanh tịnh như thế rất là thẳm sâu? Phật nói: Như vậy, vì rốt ráo tịnh vậy.
Xá lợi Tử nói: Pháp nào rốt ráo tịnh, nên nói thanh tịnh đấy rất là thẳm sâu? Phật nói: Xá Lợi Tử! Sắc rốt ráo tịnh, nên nói thanh tịnh đấy rất là thẳm sâu; thọ tưởng hành thức rốt ráo tịnh, nên nói thanh tịnh đấy rất là thẳm sâu. Xá Lợi Tử! Mười hai xứ rốt ráo tịnh, nên nói thanh tịnh đấy rất là thẳm sâu. Xá Lợi Tử! Mười tám giới rốt ráo tịnh, nên nói thanh tịnh đấy rất là thẳm sâu.
Xá Lợi Tử! Địa giới rốt ráo tịnh, nên nói thanh tịnh đấy rất là thẳm sâu; thủy hỏa phong không thức giới (ngũ đại chủng) rốt ráo tịnh, nên nói thanh tịnh đấy rất là thẳm sâu. Xá Lợi Tử! Vô minh hành, thức, danh, sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử sầu thán khổ ưu não (thập nhị nhân duyên) rốt ráo tịnh, nên nói thanh tịnh đấy rất là thẳm sâu. Xá Lợi Tử! Bố thí Ba la mật, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mậtrốt ráo tịnh, nên nói thanh tịnh đấy rất là thẳm sâu. Xá Lợi Tử! Nội không, ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không (18 pháp không) rốt ráo tịnh, nên nói thanh tịnh đấy rất là thẳm sâu.
Xá Lợi Tử! Chơn như, pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, bất tư nghì giới (thập nhị chân như) rốt ráo tịnh, nên nói thanh tịnh đấy rất là thẳm sâu. Xá Lợi Tử! Khổ Thánh đế, tập diệt đạo Thánh đế (tứ đế) rốt ráo tịnh, nên nói thanh tịnh đấy rất là thẳm sâu. Xá Lợi Tử! Bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc định rốt ráo tịnh, nên nói thanh tịnh đấy rất là thẳm sâu. Xá Lợi Tử! Tám giải thoát, tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ rốt ráo tịnh, nên nói thanh tịnh đấy rất là thẳm sâu. Xá Lợi Tử! Bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, bảy đẳng giác chi, tám Thánh đạo chi (37 pháp trợ đạo) rốt ráo tịnh, nên nói thanh tịnh đấy rất là thẳm sâu. Xá Lợi Tử! Không giải thoát môn, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn (tam giải thoát môn) rốt ráo tịnh, nên nói thanh tịnh đấy rất là thẳm sâu. (Q.285, ĐBN)
Xá Lợi Tử! Bồ Tát thập địa rốt ráo tịnh, nên nói thanh tịnh đấy rất là thẳm sâu. Xá Lợi Tử! Năm nhãn, sáu thần thông rốt ráo tịnh, nên nói thanh tịnh đấy rất là thẳm sâu. Xá Lợi Tử! Phật mười lực, bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng rốt ráo tịnh, nên nói thanh tịnh đấy rất là thẳm sâu. Xá Lợi Tử! Pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả rốt ráo tịnh, nên nói thanh tịnh đấy rất là thẳm sâu. Xá Lợi Tử! Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí rốt ráo tịnh, nên nói thanh tịnh đấy rất là thẳm sâu. Xá Lợi Tử! Tất cả Đà la ni môn, tất cả Tam ma địa môn rốt ráo tịnh, nên nói thanh tịnh đấy rất là thẳm sâu.
Xá Lợi Tử! Quả Dự lưu, quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán rốt ráo tịnh, nên nói thanh tịnh đấy rất là thẳm sâu. Xá Lợi Tử! Độc giác Bồ đề, tất cả hạnh Bồ Tát, chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề rốt ráo tịnh, nên nói thanh tịnh đấy rất là thẳm sâu. (Nghĩa là tất cả pháp Phật rốt ráo tịnh,nên nói thanh tịnh đấy rất là thẳm sâu).
Xá Lợi Tử! Sự thanh tịnh như vậy rất trong sáng(1).Vì 5 uẩn, 12 xứ, 18 giới rốt ráo tịnh, nên nói thanh tịnh đấy rất trong sáng. Ngũ đại chủng, thập nhị nhân duyên, lục Ba la mật, 18 pháp không rốt ráo tịnh, nên nói thanh tịnh đấy rất trong sáng. Xá lợi Tử! Thập nhị chân như, Tứ đế, 37 pháp trợ đạo, Tam giải thoát môn rốt ráo tịnh, nên nói thanh tịnh đấy rất trong sáng. Xá Lợi Tử! Bồ Tát thập địa, Năm nhãn, sáu thần thông, Phật mười lực, bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, Pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả, Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí rốt ráo tịnh, nên nói thanh tịnh đấy rất trong sáng. Xá Lợi Tử! Quả Dự lưu, quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ Đề, tất cả hạnh Bồ Tát, chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề rốt ráo tịnh, nên nói thanh tịnh đấy rất trong sáng.
Xá Lợi Tử! Sự thanh tịnh như vậy không chuyển, không nối. Vì ngũ uẩn, 12 xứ, 18 giới rốt ráo tịnh, nên nói sự thanh tịnh ấy không chuyển, không nối. Ngũ đại chủng, thập nhị nhân duyên, lục Ba la mật, 18 pháp không rốt ráo tịnh, nên nói sự thanh tịnh ấy không chuyển, không nối. Xá Lợi Tử! Thập nhị chân như, tứ Thánh đế, 37 pháp trợ đạo, Tam giải thoát môn, năm nhãn, sáu thần thông, Phật mười lực, bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, Pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả, Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí rốt ráo tịnh, nên nói sự thanh tịnh ấy không chuyển, không nối. Xá Lợi Tử! Quả Dự lưu, quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ đề, tất cả hạnh Bồ Tát, chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề rốt ráo tịnh, nên nói sự thanh tịnh ấy không chuyển, không nối.
Xá Lợi Tử! Sự thanh tịnh như thế vốn không tạp nhiễm. Vì ngũ uẩn, 12 xứ, 18 giới, ngũ đại, thập nhị nhân duyên, lục Ba la mật, 18 pháp không,Thập nhị chân như, tứ Thánh đế, 37 pháp trợ đạo,bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng cho đến Nhất thiết chủng trí rốt ráo tịnh nên nói sự thanh tịnh ấy vốn không tạp nhiễm.Xá Lợi Tử! Quả Dự lưu, quả Nhất lai... cho đến chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề rốt ráo tịnh, nên nói sự thanh tịnh ấy vốn không tạp nhiễm.
Xá Lợi Tử! Sự thanh tịnh như thế bản tánh thanh khiết. Vì ngũ uẩn, 12 xứ, 18 giới, ngũ đại, thập nhị nhân duyên, lục Ba la mật, 18 pháp không,Thập nhị chân như, tứ Thánh đế, 37 pháp trợ đạo,bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng cho đến Nhất thiết chủng trí rốt ráo tịnh, nên nói sự thanh tịnh ấy bản tánh thanh khiết. Xá Lợi Tử! Quả Dự lưu, quả Nhất lai... cho đến chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề rốt ráo tịnh, nên nói sự thanh tịnh ấy bản tánh thanh khiết.
Xá Lợi Tử! Sự thanh tịnh như thế vô đắc, vô quán. Sự thanh tịnh như vậy không sanh khởi, không hiển hiện. Sự thanh tịnh như thế không sanh cõi Dục, cõi Sắc, hay vô Sắc vì tự tánh các cõi kia không thể nắm bắt được.
Xá Lợi Tử! Sự thanh tịnh như thế bản tánh vô tri,vì tất cả pháp bản tánh trì độn, nên sự thanh tịnh như thế bản tánh vô tri.
Tánh của sắc vô tri tức là thanh tịnh. Tánh của thọ, tưởng, hành, thức, tứ thiền, tứ vô lượng, tứ định vô sắc… tất cả các thiện pháp vô tri tức là thanh tịnh. Vì tự tướng là khôngnên tánh của chúng vô tri tức là thanh tịnh.
Xá Lợi Tử! Bát nhã Ba la mật đối với Nhất thiết trí không ích, không tổn. Như vậy là rốt ráo tịnh. Vì pháp giới thường trú nên Bát nhã Ba la mật đối với Nhất thiết trí không ích, không tổn.
Xá Lợi Tử! Vô nhị thanh tịnh nên vô đắc, vô quán. Vì không nhiễm không tịnh (tức không phải nhị pháp) nên rốt ráo tịnh.
Xá Lợi Tử! Vì ngã thanh tịnh nên sắc thanh tịnh. Vì sắc thanh tịnh nên thọ, tưởng, hành, thức thanh tịnh. Vì ngã vô sở hữu nên sắc, thọ, tưởng, hành, thức vô sở hữu là rốt ráo tịnh. Mười hai xứ, mười tám giới, tứ thiền, tứ định, tứ đế, thập nhị nhân duyên, Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết trí trí… cho đến quả vị Giác ngộ tối cao cũng vô sở hữu nên rốt ráo tịnh.
Ngã thanh tịnh nên Nhất thiết trí thanh tịnh. Vì ngã vô tướng, vô đắc, vô niệm, vô tri nên Nhất thiết trí vô tướng, vô đắc, vô niệm, vô tri là rốt ráo tịnh.
Ngã không biên giới nên sắc thọ, tưởng, hành, thức không biên giới. Mười hai xứ, mười tám giới… tất cả các thiện pháp không biên giới. Vì rốt ráo là không, không biên giới cũng không nên rốt ráo tịnh.
Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ Tát có khả năng hiểu biết như vậy thì đó là đại Bồ Tát Bát nhã Ba la mật. Vì rốt ráo là không, không biên giới là không, tức thành đạo tướng trí.
Bồ Tát tu hành Bát Nhã mà không trụ bờ này, không trụ bờ kia, không trụ giữa dòng thì đó là đại Bồ Tát Bát nhã Ba la mật.Vì pháp tánh ba đời, bình đẳng, tức là thành đạo tướng trí.
Phẩm “Khó Tin Hiểu” vừa tụng trên, dài 103 quyển hơn 1.075 trang sách đánh máy cở lớn đã nói quá nhiều về thanh tịnh này rồi. Ở đây chỉ giải thích thêm thế nào là thanh tịnh và phẩm kế tiếp nữa là “Thuyết Tướng Bát Nhã” lại thuyết về thanh tịnh. Vì vậy, chúng tôi nói không những pháp môn thanh tịnh là pháp môn quan trọng trong việc tu tập Bát Nhã mà còn là pháp môn quan trọng trong việc tu Phật đối với tất cả các tông phái. Không có thanh tịnh không có đạo Phật. Vì vậy, thanh tịnh mới được xem là thân ấn, ngữ ấn, tâm ấn, trí ấn của chư Như Lai. Nên nhiều chỗ chúng tôinói đạo Phật là Thanh-Tịnh-Đạo. Tất cả pháp tu rốt ráo cũng đưa đến chỗ này. Nếu hiểu biết như vậy mà tu hành thì có thể tháo gỡ tất cả mọi hệ lụy thế gian, không phải chạy đầu kia tìm kiếm nữa!
Thích nghĩa:
(1). HT Thích Trí Nghiêm dịch là minh liễu.
Lược giải:
1. Khen tịnh:
Sự thanh tịnh rất sâu xa, rất trong sáng, không chuyển không nối, vốn không tạp nhiễm, bản tánh thanh khiết. Sự thanh tịnh như thế vô đắc, vô quán. Sự thanh tịnh như vậy không sanh khởi, không hiển hiện. Sự thanh tịnh như thế bản tánh vô tri. Vì sao? Vì tất cả pháp vô tri, trì độn, nên chúng trơ lì ra đó. Các pháp không tự biết nó, các pháp cũng không biết các pháp khác, tự tướng rỗng không, nếu có thấy biết như vậy thì tâm được thanh tịnh.
Biết hay không là ở con người. Để phân biệt pháp này với pháp nọ, nên đặt tên cho nó. Từ khi có tên, có danh sắc, thì nó không còn là nó nữa. Bây giờ, nó trở thành lớn nhỏ, vuông tròn, đẹp xấu... Đó là lỗi của con người người, không phải ở pháp. Hãy trả lại cái bản nguyên của thuở ban đầu cho chính nó thì đâu đâu cũng toàn một màu xanh thanh tịnh như nhau.
2. Thế nào gọi là rốt ráo tịnh?
Ta có thể lấy cuộc đối thoại giữa Phật và Tu Bồ Đề ở phẩm “Thuyết Tướng Bát Nhã” quyển 293, Hội thứ I, ĐBN. Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật rằng:
“Bạch Thế Tôn! Di Lặc Bồ Tát khi được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề chứng những pháp nào? Và nói những pháp nào?
Phật nói: “Thiện Hiện! Di Lặc Bồ Tát khi được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề chứng pháp sắc rốt ráo tịnh, nói pháp sắc rốt ráo tịnh. Chứng pháp thọ tưởng hành thức rốt ráo tịnh, nói pháp thọ tưởng hành thức rốt ráo tịnh. Chứng pháp thập nhị xứ rốt ráo tịnh, nói pháp thập nhị xứ rốt ráo tịnh. Chứng pháp thập bát giới rốt ráo tịnh, nói pháp thập bát giới rốt ráo tịnh. Chứng tất cả pháp Phật rốt ráo tịnh, nói tất cả pháp Phật rốt ráo tịnh”.
Rốt ráo tịnh có nghĩa là đối với uẩn xứ giới và tất cả pháp “tâm như như bất động”. Tâm như như bất động là đối với trần cảnh không có sở đắc, không cảm thọ, không trụ, không chấp. Có trụ, có chấp... là có dính mắc, có trói buộc là có phiền não. Khi tâm không còn phân biệt, vô sở đắc, vô sở trụ... đó là tâm không hay còn gọi là vô tri, vô thức, vô niệm, vô tâm. Bát nhã Ba la mật còn gọi là Tánh Không, chủ trương tâm không tức dùng diệu quán “vô sở đắc”, diệu huệ “vô sở trụ” làm phương tiện để sanh tâm thanh tịnh. Mục đích là quét sạch tất cả những dây mơ rễ má, những thói quen, tập tục còn vướng bận trong tâm thức để con người được rỗng rang tự tại.
Khi đạt đến trình độ nầy thì tâm thể hoàn toàn vắng lặng. Lúc đó không có nghĩa là người tu biến thành gỗ đá. Thiền sư Khuê Phong tức tôn giả Tông Mật nói: “Tâm có lặng thì linh chi mới mở”. Khi tâm thể tuyệt đối vắng lặng, người ta tin tưởng là huệ (trí Bát Nhã trong sạch, nhiệm mầu) xuất hiện, một thứ ánh sáng vi diệu phát chiếu sau cái “trống không” đó.
Vì vậy, Ngũ đạo pháp môn của Kinh Đại thừa Bắc Thiền nói rằng:
1- Phật giác ngộ và giác ngộ là không móng tâm.
2- Khi tâm bất động, các giác quan yên lặng và trong trạng thái tĩnh lặng đó cánh cửa trí tuệ vô thượng sẽ hé mở.
3- Trí tuệ vô thượng khai mở dẫn đến khai phóng một cách vi diệu thân và tâm. Tuy nhiên đây không phải là Niết bàn tịch tĩnh của Tiểu thừa, bởi vì trí tuệ vô thượng do chư Bồ Tát chứng đắc đòi hỏi các cảm thức tuy có hoạt động nhưng không dính mắc.
4- Tính hoạt động không dính mắc nầy nghĩa là không kẹt vào nhị nguyên đối đãi giữa thân và tâm, nơi đó hội được thật tướng các pháp.
5- Rốt cuộc đây là con đường của Nhất tính, dẫn đến giới sự của Như thị không ngăn ngại, không sai biệt. Đó là giác ngộ.(1)
Nên, kinh nói: “Ngã không biên giới nên sắc thọ, tưởng, hành, thức không biên giới. 12 xứ, 18 giới… tất cả các thiện pháp không biên giới. Vì rốt ráo là không, không biên giới cũng không nên rốt ráo tịnh.
(...) Nếu đại Bồ Tát có khả năng hiểu biết như vậy thì gọi đó là đại Bồ Tát Bát nhã Ba la mật. Vì rốt ráo là không, không biên giới là không, tức thành đạo tướng trí”.
Nhưng đó chỉ là những diễn tảcó tính cách khuôn sáo. Nói một cách đơn giản và ngắn gọn hơn như Huyền Sa “Bản nhiên thanh tịnh tức là cái tịch lặng an nhiên trong hiện tại”. Vậy, thanh tịnh ngoài sắc trần không nhiễm ô, không sanh diệt, không trụ chấp, không trói buộc, không dính mắc… còn có một ý nghĩa tuyệt đối là chân, một siêu thức được coi là trí tuệ vô thượng phát chiếu.
Tới đây không còn phân biệt, chấp trước nữa. Mọi hiện hữu bây giờ được phơi bày “như thị”, tất cả tánh tướng thể dụng đều bình đẳng, và cái bình đẳng đó chính là cái tịch lặng an nhiên trong cuộc sống hiên tại. Bình đẳng đó Bát Nhã gọi là thanh tịnh và người đạt được thanh tịnh cũng chính là Như Lai. Vì Như Lai là giải thoát, Như Lai là Niết bàn. Giải thoát và Niết bàn cũng gọi tịch tĩnh, cái tịch lặng an nhiên. Tất cả các từ đó đều ẩn dụ về cái thanh tịnh này!
Kết luận:
Tu hành là gì nếu không phải là luyện tâm, luyện trí? Luyện tâm là kỹ thuật hành trì để đưa tâm thể đạt đến chỗ an nhiên tịch lặng: Giới là hàng rào ngăn chận tội lỗi từ ngoài vào, nếu giữ được giới thì tâm được thanh tịnh; Định là ngăn chận những dao động bên trong tức gạt bỏ vọng niệm, tâm sẽ như như bất động. Tới đó thì linh chi sẽ mở, linh chi tức là Huệ, một khi Huệ khai mở thì chứng đạo, được giải thoát hay đạt Niết bàn! Tam vô lậu học đó chính là kỹ thuật luyện tâm luyện trí tối cao của Phật đạo từ khi nó mới khai sáng, ngoài kỹ thuật đó không còn kỹ thuật nào khác!
Thích nghĩa cho phần lược giải phẩm “Khen Ngợi Thanh Tịnh”:
(1). Trích trong tác phẩm “Vô Niệm” của Thiền sư D.T. Suzuki do Thuần Bạch dịch./.
CHÁNH PHÁP Số 106, tháng 09.2020
NỘI DUNG SỐ NÀY:
THƯ TÕA SOẠN, trang 2
TIN TỨC PHẬT GIÁO THẾ GIỚI (Diệu Âm lược dịch), trang 3
THÔNG BẠCH VU LAN PL. 2564 (Hội Đồng Giáo Phẩm GHPGVNT-NHK), trang 8
BIỆN TRUNG BIÊN LUẬN TỤNG THÍCH, t.t. (HT. Thích Thắng Hoan), trang 9
CẢM NIỆM VU LAN (thơ Tâm Tấn), trang 11
Thiền là một lối sống, một dòng suối thuần khiết trong trần thế đa tạp và là thứ ánh sáng kỳ diệu nơi thế tục. Hãy trải nghiệm cuộc đời bằng tâm Thiền, tìm ra những điều tốt đẹp chân chính trong cuộc sống với lòng Bồ Đề, trái tim Bát nhã và tâm Thiền của chúng ta.
“Cuộc sống chính là Thiền”, chúng ta phải hiểu ra đạo Thiền trong cuộc sống. Xa rời thế tục để cầu Thiền bái Phật chẳng khác nào “bắt cá bằng cọc đa”, không thể nào chứng ngộ. Giống như tổ thứ 6 thiền sư Huệ Năng nói: “Bồ đề bổn vô thụ, Minh kính dịch phi đài. Bổn lai vô nhất vật, Hà xứ nhạ trần ai.” Bồ đề là tâm, trần ai bắt nguồn từ cuộc sống, dùng trí tuệ của Thiền để quét sạch, vậy trời đất sẽ tự nhiên bình yên, thanh tịnh.
Ở đời có những cuộc từ giã hùng tráng gây ấn tượng như tạo nguồn cảm hứng sâu đậm trong lòng người qua lịch sử đương thời và mai sau. Điều đó đủ chứng minh tiền nhân có lý do xác đáng để khước từ quá khứ tù hãm, nhắm hướng tương lai không chỉ cho riêng mình mà còn nghĩ tới đồng loại và chúng sanh. Những cuộc từ giã hay nói chính xác hơn là những cuộc vượt thoát can trường mới diễn tả đúng ngữ nghĩa và ngữ cảnh của mỗi sự kiện mà tôi cho rằng ở trong ba thời kỳ: cổ đại, trung hưng và hiện đại.
Nghĩ cho cùng cuộc đời dài của con người chính là những bước đi - không hơn không kém. Đó là những bước khập khiễng từ khi lọt lòng mẹ cho đến các bước run rẩy trước khi bước vào quan tài. Điều quan trọng nhất là kẻ lữ hành phải luôn sáng suốt và lạc quan để nhận biết “mùa xuân phía trước”. Dầu sao đi nữa, dù muốn hay không mình vẫn phải bước đi.
Hôm nay là ngày 4 tháng 6 năm 2002 nhằm ngày 24 tháng 4 năm Nhâm Ngọ, tôi bắt đầu viết tác phẩm thứ 34 của mình với nhan đề là: “Cảm Tạ Xứ Đức”. Trong mùa an cư kiết hạ này tôi cố gắng hoàn thành tác phẩm để sau đó còn cho dịch ra tiếng Đức, nhằm cho người Đức cũng có thể xem và hiểu nhiều hơn về một dân tộc ở rất xa hơn nửa vòng trái đất, nhưng tại quê hương này đã cưu mang họ hơn 25 năm nay trong bàn tay từ ái đón nhận những người tỵ nạn Cộng Sản Việt Nam đến tạm dung, sinh sống tại xứ Đức này.
Đức Phật xuất hiện trên thế gian này vì một mục đích duy nhất làm cho tất cả chúng sanh được giác ngộ, thoát khỏi khổ đau được an lạc giải thoát. Vì thế, trong kinh nói: “Như Lai thị hiện nơi cuộc đời này, là để xua tan bóng tối vô minh và chỉ cho nhân loại con đường đi đến sự đoạn tận của khổ đau”.
Trước hết cám ơn sanh thành và nuôi dưỡng của bố mẹ, cho tôi một đời đáng sống này. Kế đến cám ơn người bạn đường, chịu nhiều khổ cực ròng rã trong suốt 10 năm qua giúp tôi hoàn thành thiên Tổng luận Đại Bát Nhã Ba La Mật này. Sau nữa chân thành cám ơn những nhân vật sau đây đã đem lại nhiều ảnh hưởng sâu đậm trong cuộc sống tâm linh của chúng tôi:
1. Đức ngài Minh Đăng Quang, Tổ của Tông khất thực Việt Nam, và cũng là người đặt pháp danh cho tôi là Thiện Bửu lúc tôi mới 13 tuổi đời khi tôi thọ giáo qui y với ngài;
2. Chân thành cám ơn đức thầy Thích Thiện Hoa, người hóa đạo cho tôi
3. Sau nữa cám ơn Thiền sư D.T. Suzuki, người được xem như là Bồ tát trong thời đại mới, đã có công xiển dương đạo Phật tại các quốc gia Tây Âu và cũng là người đã mỡ con mắt đạo cho tôi về Tánh không Bát nhã.
Sau cùng, cám ơn những ai đã từng khổ nhọc hy sinh công của góp phần xây dựng lâu đài Phật đạo Việt nam nói riêng và thế giới nói chung, nhờ đó chúng tôi có đầy đủ chất liệu để học, để
Đây là cuốn sách viết bằng song ngữ Anh-Việt của cư sĩ Nguyên Giác. Sách dày 319 trang vừa được Ananda Viet Foundation (Nam California) xuất bản. Cư sĩ Nguyên Giác tu học với một số thiền sư tiền bối nổi tiếng trước 1975 như Thích Tịch Chiếu, Thích Thường Chiếu, Thích Thiền Tâm và Thích Tài Quang.
Cư sĩ Nguyên Giác say mê Thiền, nghiên cứu về Thiền, viết về Thiền và sống chết với Thiền. Ông đã xuất bản tám cuốn sách về Thiền. Nay ở tuổi 68, ông viết cuốn này vì sợ rồi đây sức khỏe suy yếu, không còn khả năng viết nữa. Tuy nhiên ước mơ lớn vẫn là để cho các nhà nghiên cứu ngoại quốc muốn tìm hiểu về Phật Giáo Việt Nam, nhất là Thiền, có tài liệu tham khảo vì hiện nay Anh Ngữ là ngôn ngữ phổ biến khắp thế giới.
Báo chí Phật giáo Việt Nam thực sự khai sinh và phát triển từ khi có phong trào chấn hưng Phật giáo vào thập niên 1930. Từ lúc ra đời, báo chí Phật giáo đã trở thành một phương tiện quan trọng làm lan tỏa tư tưởng chấn hưng Phật giáo, thực hiện nhiệm vụ hoằng pháp, xây dựng nền văn học Phật giáo và giữ gìn di sản văn hóa cổ Việt Nam. Tuy giữ vai trò quan trọng trong lịch sử Phật giáo và mang lại nguồn sử liệu quan trọng giúp thế hệ sau tìm hiểu, nghiên cứu nhưng do nhiều yếu tố khách quan lẫn chủ quan, đến nay, báo chí Phật Giáo Việt Nam vẫn chưa có một trung tâm lưu trữ đầy đủ. Công việc bảo tồn và phát huy giá trị về tư liệu mà báo chí mang lại đến nay vẫn là một nỗi trăn trở cho những người yêu mến tư liệu báo chí Phật giáo Việt Nam nói riêng và về tư liệu Phật giáo Việt Nam nói chung.
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường, nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.
May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland, Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below, may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma, the Land of Ultimate Bliss.
Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600 Website: http://www.quangduc.com
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.