(Tương đương với Đoạn bốn, phẩm "So Lường Công Đức",
phần cuối của Q. 105 đến Q. 106, Hội thứ I, ĐBN)
Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu Diễn đọc: Quảng Thiện Duyên Lồng nhạc: Quảng Thiện Hùng Jordan Le
Gợi ý:
Phẩm “Ngoại Đạo”của Hội thứ II, ĐBN cũng giống như phẩm có tên là “Phạm Chí” của Kinh MHBNBLMĐ, nói về uy lực của Bát nhã Ba la mật. Phẩm này không nói về giáo lý chỉ nói về sự kiện, ngắn gọn, dễ hiểu, nên ai cũng có thể thọ trì.
Tóm lược:
Khi ấy, có rất nhiều ngoại đạo Phạm chí, muốn tìm lỗi Phật, đi đến chỗ Phật. Khi ấy Thiên Đế Thích thấy liền nghĩ: Bọn ngoại đạo Phạm chí này đến pháp hội rình tìm chỗ dở Phật, đâu phải chuyện lành? Ta nên tụng niệm Bát nhã Ba la mật thậm thâm đã nhiếp thọ, để khiến bọn tà kia lui về bản xứ. Nghĩ rồi liền tụng Bát nhã Ba la mật. Ngoại đạo Phạm chí từ xa tỏ tướng cung kính, đi quanh hữu Thế Tôn, từ cửa đến trở lại đường cũ mà quay về.
Khi ấy Xá Lợi Tử thấy việc này rồi nghĩ rằng: Bọn ngoại đạo kia vì nhân duyên gì mà vừa mới đến, lại trở về?
Bấy giờ, Phật bảo Xá Lợi Tử rằng:
- Các ngoại đạo kia đến tìm lỗi Ta, do Thiên Đế Thích tụng niệm Bát nhã Ba la mật khiến chúng lui về. Xá Lợi Tử! Ta chẳng thấy ngoại đạo Phạm chí kia có chút bạch pháp, chỉ ôm ác tâm đến tìm lỗi Ta. Xá Lợi Tử! Ta chẳng thấy có loại hữu tình thiên ma phạm, hoặc các Sa môn, Bà la môn nào trong thế gian… khi nghe thuyết Bát Nhã mà ôm ác tâm đến tìm được lỗi. Vì sao? Vì Tam thiên đại thiên thế giới đây, có bao nhiêu trời Bốn đại vương chúng, cho đến trời Sắc cứu cánh; hoặc các Thanh văn, Độc giác, Bồ Tát, Phật và tất cả long thần, dược xoa người phi người… đủ đại uy lực đều cùng chung thủ hộ Bát nhã Ba la mật, chẳng để bọn ác làm lưu nạn được. Vì sao? Xá Lợi Tử! Các chư thiên này đều nương uy lực Bát nhã Ba la mật mà xuất sanh vậy.
Lại nữa, Xá Lợi Tử! Mười phương thế giới như cát sông Hằng, tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, Thanh văn, Độc giác, Bồ Tát, chư thiên, long thần, dược xoa, người phi người… đều chung thủ hộ Bát nhã Ba la mật, chẳng để bọn ác làm lưu nạn được. Vì sao? Xá Lợi Tử! Chư Phật, Bồ Tát… kia đều nương uy lực Bát nhã Ba la mật mà xuất sanh vậy.
Bấy giờ ác ma lén khởi nghĩ này: Ngày nay Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác được bốn chúng vây quanh và các trời người… cõi Dục, cõi Sắc đều đồng đến nhóm hội, tuyên nói Bát nhã Ba la mật. Nhân dịp này nhất định có đại Bồ Tát sẽ được thọ ký Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, ta phải đến phá hoại trí lực kia. Khởi nghĩ như vậy rồi, hóa làm bốn loại quân chủng oai hùng xông đến chỗ Phật.
Khi đó, Thiên Đế Thích thấy vậy liền nghĩ rằng: Chỉ có bọn ác ma hóa hiện làm việc này không ai khác hơn, muốn đến não (hại) Phật và làm lưu nạn Bát nhã Ba la mật. Vì sao? Bốn quân chủng như thế trang bị đẹp lạ; thắng quân của Ảnh Kiện, của dòng vua Thích Ca, dòng Tiên Lật Niêm Tỳ, dòng Lực sĩ… đều chẳng bì kịp. Do đó ắt biết bọn ma hóa hiện.. Ác ma thường rình tìm chỗ dở của Phật, phá các hữu tình sở tu thắng sự, ta phải tụng niệm Bát nhã Ba la mật, khiến ác ma kia trở lui. Nghĩ rồi liền tụng Bát nhã Ba la mật. Tức thì bọn ác ma liền quay lại đường cũ mà lui về, vì bị áp lực của Bát nhã Ba la mật vậy.
Lúc đó, trong chúng hội các trời Bốn đại vương chúng cho đến trời Sắc cứu cánh, mỗi mỗi hóa làm nhiều thứ hoa trời, hương thơm, tràng hoa cùng các đồ cúng vi diệu, vui mừng thân vọt lên hư không rải trên Phật, chấp tay cung kính đồng thưa Phật rằng:
- Bạch đức Thế Tôn! Nguyện cho Bát nhã Ba la mật đây trụ mãi trong cõi châu Thiệm bộ. Vì sao? Vì Bát nhã Ba la mật thậm thâm như thế lưu bố trong châu Thiệm bộ, phải biết nơi đây Phật bảo, Pháp bảo, Tăng bảo trụ lâu chẳng diệt. Tam thiên đại thiên thế giới đây cho đến mười phương vô lượng vô số vô biên thế giới cũng lại như vậy. Do đây, chúng đại Bồ Tát và hạnh thù thắng cũng có thể rõ biết.
Bạch Thế Tôn! Tùy các phương cõi, có các thiện nam thiện nữ đem lòng tịnh tín thọ trì Bát nhã Ba la mật thậm thâm như thế, cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen, phải biết chỗ ấy có diệu quang minh trừ diệt tối tăm, sanh các thắng lợi.
Bấy giờ, Phật bảo Thiên Đế Thích cùng các thiên chúng rằng:
- Như vậy, như các ngươi đã nói!
Lúc đó, chúng chư thiên lần nữa hóa làm các thứ hoa trời, hương thơm, tràng hoa… mà rải lên Phật, thưa lại Phật rằng:
- Nếu các thiện nam thiện nữ đối Kinh điển Bát nhã Ba la mật thậm thâm đây chăm lòng lóng nghe thọ trì đọc tụng, tinh siêng tu học, suy nghĩ đúng lý, thơ tả giải nói, rộng khiến lưu bố. Các thiện nam thiện nữ này, ma và ma quân chẳng làm gì được. Thiên chúng chúng con thường theo dõi ân cần bảo hộ khiến không tổn não. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì các thiện nam thiện nữ này chư thiên chúng con kính thờ như Phật, hoặc tương tự Phật.
Khi ấy, Thiên Đế Thích lại thưa Phật rằng:
- Các thiện nam thiện nữ này chẳng phải trồng ít cội lành mà được việc này, tất đời trước ở vô lượng chỗ Phật chứa nhóm căn lành, phát nhiều chính nguyện, cúng dường nhiều Phật, thờ nhiều bạn lành, mới được Bát nhã Ba la mật đây, chăm lòng lóng nghe, thọ trì đọc tụng, tinh siêng tu học, suy nghĩ đúng lý, thơ tả giải nói, rộng khiến lưu bố.
Bạch Thế Tôn! Nếu các thiện nam, thiện nữ muốn được Nhất thiết trí trí phải cầu Bát Nhã. Muốn được Bát Nhã phải cầu Nhất thiết trí trí. Vì sao? Chư Phật sở đắc Nhất thiết trí trí đều từ Bát Nhã xuất sanh vậy. Tất cả Bát nhã Ba la mật đều từ Nhất thiết trí trí mà xuất sanh vậy. Vì sao? Vì Nhất thiết trí trí chẳng khác Bát nhã Ba la mật. Bát nhã Ba la mật chẳng khác Nhất thiết trí trí. Nhất thiết trí trí cùng Bát nhã Ba la mật đây, phải biết không hai cũng không hai phần.
Bấy giờ, Phật bảo Thiên Đế Thích rằng:
- Như vậy! Đúng như ngươi đã nói. Vì vậy, nên công đức oai thần Bát nhã Ba la mật rất tôn, rất thắng!
Sơ giải:
Phẩm này nói về oai lực của Bát nhã Ba la mật, không ai có thể tìm chỗ dỡ để phá hoại sự tín thọ Kinh này. Thí dụ trong Kinh có kể câu chuyện là bọn Phạm chí nhiều tà kiến, lại ác tâm và kiêu mạn. Họ muốn vạch ra các lỗi lầm của Bát Nhã Ba La Mật nhằm gây phiền nhiễu, nên điđến chỗ Phật thuyết pháp định phá hoại. Do Đế Thích và chư Thiên biết tâm niệm này, nhất tâm tụng Bát nhã Ba la mật. Bọn Phạm chí từ xa nghe oai thần Bát Nhã nên tự động rút lui.
Đại Trí Độ Luận, phẩm thứ 35, có tên là “Phạm Chí”, tập 3, quyển 58, thấy việc ấy Xá lợi Phất thầm nghĩ:
“Bát nhã Ba la mật có oai đức cứu độ chúng sanh. Như vậy, vì sao chúng Phạm Chí nghe Bát nhã Ba la mật mà lại chẳng được độ?
Phật biết rõ tâm niệm của ngài Xá Lợi Phất, nên dạy rằng: Các Phạm Chí ấy đến đây chẳng phải do thiện niệm, lại đắm chấp tà kiến và ái kiến, nên chẳng được độ vậy. Ví như người mà thọ mạng đã sắp hết, thì dù gặp được thầy hay, thuốc tốt, hoặc dù có thần lực, cũng chẳng có thể được thoát chết vậy.
Ngài Xá Lợi Phất bạch Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Như vậy, chẳng những các Phạm Chí ấy, mà cho đến hết thảy chúng sanh nào mống ác tâm muốn phá hoại Bát nhã Ba la mật cũng chẳng tìm được chỗ tiện để gây tác hại. Vì sao? Vì chư Phật, chư Bồ Tát, chư Thánh Hiền, chư Thiên đều xuất sanh từ Bát nhã Ba la mật. Bởi vậy nên các ác ma, các ngoại đạo muốn đến vấn nạn để phá hoại Bát nhã Ba la mật, chẳng sao thực hiện được ý đồ của họ”.
Nội dung của phẩm này nói đến uy lực của Bát nhã Ba la mật chỉ có thế. Phần kết luận của phẩm này đáng lưu ý với đoạn kinh như sau:
“Chư Phật sở đắc Nhất thiết trí trí đều từ Bát Nhã xuất sanh vậy. Tất cả Bát nhã Ba la mật đều từ Nhất thiết trí trí mà xuất sanh vậy. Vì sao? Vì Nhất thiết trí trí chẳng khác Bát nhã Ba la mật. Bát nhã Ba la mật chẳng khác Nhất thiết trí trí. Nhất thiết trí trí cùng Bát nhã Ba la mật đây, phải biết không hai cũng không hai phần.
Bấy giờ, Phật bảo Thiên Đế Thích rằng:
- Như vậy! Đúng như ngươi đã nói. Vì vậy, nên công đức oai thần Bát nhã Ba la mật rất tôn, rất thắng!
Để bình luận đoạn kinh này Đại Trí Độ Luận nói rằng:
“Vì Bồ Tát có hành đầy đủ Bát nhã Ba la mật mới có thể thành Phật, mới được đầy đủ Nhất thiết chủng trí. Bởi vậy nên nói “phải ở nơi Bát nhã Ba la mật, mà cầu Nhất thiết chủng trí”.
Mặc khác, chư Phật và chư đại Bồ Tát được Nhất thiết chủng trí rồi, thường thuyết Bát nhã Ba la mật, thường dùng các lực phương tiện Bát nhã Ba la mật để hóa độ chúng sanh, nên cũng nói “phải ở nơi Nhất thiết chủng trí mà cầu Bát nhã Ba la mật”.
Bát nhã Ba la mật biến thành Nhất thiết chủng trí. Bát nhã Ba la mật là nhân sanh ra Nhất thiết chủng trí. Bát nhã Ba la mật là nhân, và Nhất thiết chủng trí là quả; nhân quả chẳng rời nhau, nên nói Bát nhã Ba la mật và Nhất thiết chủng trí là chẳng phải hai, chẳng phải khác”.
Tu Bát nhã Ba la mật giác ngộ thì được Nhất thiết trí trí. Không phải do Bát nhã Ba la mật hay giác ngộ mà được Nhất thiết trí trí, cũng không riêng giác ngộ hay Nhất thiết trí trí mà được Bát nhã Ba la mật. Cả ba hỗ tương sanh khởi, không do cái này mà có cái kia. Nên nói Bát nhã Ba la mật, Vô Thượng giác ngộ, Nhất thiết trí trí tuy ba mà chỉ là một!
CHÁNH PHÁP Số 106, tháng 09.2020
NỘI DUNG SỐ NÀY:
THƯ TÕA SOẠN, trang 2
TIN TỨC PHẬT GIÁO THẾ GIỚI (Diệu Âm lược dịch), trang 3
THÔNG BẠCH VU LAN PL. 2564 (Hội Đồng Giáo Phẩm GHPGVNT-NHK), trang 8
BIỆN TRUNG BIÊN LUẬN TỤNG THÍCH, t.t. (HT. Thích Thắng Hoan), trang 9
CẢM NIỆM VU LAN (thơ Tâm Tấn), trang 11
Thiền là một lối sống, một dòng suối thuần khiết trong trần thế đa tạp và là thứ ánh sáng kỳ diệu nơi thế tục. Hãy trải nghiệm cuộc đời bằng tâm Thiền, tìm ra những điều tốt đẹp chân chính trong cuộc sống với lòng Bồ Đề, trái tim Bát nhã và tâm Thiền của chúng ta.
“Cuộc sống chính là Thiền”, chúng ta phải hiểu ra đạo Thiền trong cuộc sống. Xa rời thế tục để cầu Thiền bái Phật chẳng khác nào “bắt cá bằng cọc đa”, không thể nào chứng ngộ. Giống như tổ thứ 6 thiền sư Huệ Năng nói: “Bồ đề bổn vô thụ, Minh kính dịch phi đài. Bổn lai vô nhất vật, Hà xứ nhạ trần ai.” Bồ đề là tâm, trần ai bắt nguồn từ cuộc sống, dùng trí tuệ của Thiền để quét sạch, vậy trời đất sẽ tự nhiên bình yên, thanh tịnh.
Ở đời có những cuộc từ giã hùng tráng gây ấn tượng như tạo nguồn cảm hứng sâu đậm trong lòng người qua lịch sử đương thời và mai sau. Điều đó đủ chứng minh tiền nhân có lý do xác đáng để khước từ quá khứ tù hãm, nhắm hướng tương lai không chỉ cho riêng mình mà còn nghĩ tới đồng loại và chúng sanh. Những cuộc từ giã hay nói chính xác hơn là những cuộc vượt thoát can trường mới diễn tả đúng ngữ nghĩa và ngữ cảnh của mỗi sự kiện mà tôi cho rằng ở trong ba thời kỳ: cổ đại, trung hưng và hiện đại.
Nghĩ cho cùng cuộc đời dài của con người chính là những bước đi - không hơn không kém. Đó là những bước khập khiễng từ khi lọt lòng mẹ cho đến các bước run rẩy trước khi bước vào quan tài. Điều quan trọng nhất là kẻ lữ hành phải luôn sáng suốt và lạc quan để nhận biết “mùa xuân phía trước”. Dầu sao đi nữa, dù muốn hay không mình vẫn phải bước đi.
Hôm nay là ngày 4 tháng 6 năm 2002 nhằm ngày 24 tháng 4 năm Nhâm Ngọ, tôi bắt đầu viết tác phẩm thứ 34 của mình với nhan đề là: “Cảm Tạ Xứ Đức”. Trong mùa an cư kiết hạ này tôi cố gắng hoàn thành tác phẩm để sau đó còn cho dịch ra tiếng Đức, nhằm cho người Đức cũng có thể xem và hiểu nhiều hơn về một dân tộc ở rất xa hơn nửa vòng trái đất, nhưng tại quê hương này đã cưu mang họ hơn 25 năm nay trong bàn tay từ ái đón nhận những người tỵ nạn Cộng Sản Việt Nam đến tạm dung, sinh sống tại xứ Đức này.
Đức Phật xuất hiện trên thế gian này vì một mục đích duy nhất làm cho tất cả chúng sanh được giác ngộ, thoát khỏi khổ đau được an lạc giải thoát. Vì thế, trong kinh nói: “Như Lai thị hiện nơi cuộc đời này, là để xua tan bóng tối vô minh và chỉ cho nhân loại con đường đi đến sự đoạn tận của khổ đau”.
Trước hết cám ơn sanh thành và nuôi dưỡng của bố mẹ, cho tôi một đời đáng sống này. Kế đến cám ơn người bạn đường, chịu nhiều khổ cực ròng rã trong suốt 10 năm qua giúp tôi hoàn thành thiên Tổng luận Đại Bát Nhã Ba La Mật này. Sau nữa chân thành cám ơn những nhân vật sau đây đã đem lại nhiều ảnh hưởng sâu đậm trong cuộc sống tâm linh của chúng tôi:
1. Đức ngài Minh Đăng Quang, Tổ của Tông khất thực Việt Nam, và cũng là người đặt pháp danh cho tôi là Thiện Bửu lúc tôi mới 13 tuổi đời khi tôi thọ giáo qui y với ngài;
2. Chân thành cám ơn đức thầy Thích Thiện Hoa, người hóa đạo cho tôi
3. Sau nữa cám ơn Thiền sư D.T. Suzuki, người được xem như là Bồ tát trong thời đại mới, đã có công xiển dương đạo Phật tại các quốc gia Tây Âu và cũng là người đã mỡ con mắt đạo cho tôi về Tánh không Bát nhã.
Sau cùng, cám ơn những ai đã từng khổ nhọc hy sinh công của góp phần xây dựng lâu đài Phật đạo Việt nam nói riêng và thế giới nói chung, nhờ đó chúng tôi có đầy đủ chất liệu để học, để
Đây là cuốn sách viết bằng song ngữ Anh-Việt của cư sĩ Nguyên Giác. Sách dày 319 trang vừa được Ananda Viet Foundation (Nam California) xuất bản. Cư sĩ Nguyên Giác tu học với một số thiền sư tiền bối nổi tiếng trước 1975 như Thích Tịch Chiếu, Thích Thường Chiếu, Thích Thiền Tâm và Thích Tài Quang.
Cư sĩ Nguyên Giác say mê Thiền, nghiên cứu về Thiền, viết về Thiền và sống chết với Thiền. Ông đã xuất bản tám cuốn sách về Thiền. Nay ở tuổi 68, ông viết cuốn này vì sợ rồi đây sức khỏe suy yếu, không còn khả năng viết nữa. Tuy nhiên ước mơ lớn vẫn là để cho các nhà nghiên cứu ngoại quốc muốn tìm hiểu về Phật Giáo Việt Nam, nhất là Thiền, có tài liệu tham khảo vì hiện nay Anh Ngữ là ngôn ngữ phổ biến khắp thế giới.
Báo chí Phật giáo Việt Nam thực sự khai sinh và phát triển từ khi có phong trào chấn hưng Phật giáo vào thập niên 1930. Từ lúc ra đời, báo chí Phật giáo đã trở thành một phương tiện quan trọng làm lan tỏa tư tưởng chấn hưng Phật giáo, thực hiện nhiệm vụ hoằng pháp, xây dựng nền văn học Phật giáo và giữ gìn di sản văn hóa cổ Việt Nam. Tuy giữ vai trò quan trọng trong lịch sử Phật giáo và mang lại nguồn sử liệu quan trọng giúp thế hệ sau tìm hiểu, nghiên cứu nhưng do nhiều yếu tố khách quan lẫn chủ quan, đến nay, báo chí Phật Giáo Việt Nam vẫn chưa có một trung tâm lưu trữ đầy đủ. Công việc bảo tồn và phát huy giá trị về tư liệu mà báo chí mang lại đến nay vẫn là một nỗi trăn trở cho những người yêu mến tư liệu báo chí Phật giáo Việt Nam nói riêng và về tư liệu Phật giáo Việt Nam nói chung.
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường, nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.
May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland, Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below, may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma, the Land of Ultimate Bliss.
Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600 Website: http://www.quangduc.com
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.