Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

16. Phẩm “Bất Thoái”

08/01/202107:33(Xem: 7936)
16. Phẩm “Bất Thoái”

 TỔNG LUẬN
 KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***

buddha-522

 

 XVI. PHẨM “BẤT THOÁI”

Phần giữa quyển 562, Hội thứ V, ĐBN.

 

Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Tịnh, Cư sĩ Quảng Thiện Duyên
Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Phước, Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le

 

  

Tóm lược: 

 

(Hành tướng trạng của Bồ Tát Bất thối)

 

Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Chúng con sẽ dùng hành tướng trạng nào để biết đó là đại Bồ Tát Bất thối chuyển?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Nếu các Bồ Tát có thể biết như thật địa vị phàm phu, Thanh văn, Độc giác, Bồ Tát và Như Lai thì mặc dù nói có sai khác nhưng ở trong tánh của các pháp như không thay đổi, không sai khác, hoàn toàn không hai, không hai phần. Các Bồ Tát này mặc dù chân thật ngộ nhập các pháp như, nhưng đối với như như không có sự phân biệt. Mặc dù nghe như như cùng tất cả pháp không hai, không sai khác, nhưng không ngăn ngại. Mặc dù nghe các pháp nhiều thứ tướng sai khác, nhưng đối với trong đó không chấp trước. Các Bồ Tát này không bao giờ phát ngôn bừa bãi, khinh xuất, nói ra lời gì đều đem lại lợi ích; hoàn toàn chẳng xem xét những điều tốt xấu, hay dở của người khác. Thương yêu bình đẳng và thuyết pháp cho họ. Nếu các Bồ Tát thành tựu các hành trạng tướng như thế thì nhất định chẳng còn thối lui quả vị Vô Thượng Bồ đề.

Lại nữa, Thiện Hiện! Các Bồ Tát này chẳng xem hành tướng lời nói ngoại đạo, Sa môn, Phạm chí. Nghĩa là các ngoại đạo đối pháp thật biết thật thấy, hoặc năng thi thiết pháp môn chánh kiến, thì không có lẽ ấy. Trọn chẳng lễ kính ngoại đạo, thiên thần, cũng chẳng cúng dường mà cầu thắng phước.

Lại nữa, Thiện Hiện! Các Bồ Tát này chẳng đọa nẻo ác, chẳng thọ thân nữ, cũng chẳng sanh trong dòng họ ti tiện, ngoại trừ vì muốn độ thoát loài hữu tình nên thị hiện sanh đồng loại để phương tiện giúp đỡ.

Lại nữa, Thiện Hiện! Các Bồ Tát này thường ưa thích thực hành mười thiện nghiệp đạo, cũng thường phương tiện khuyến khích người khác thực hành, cho đến trong mộng cũng không trái phạm.

Lại nữa, Thiện Hiện! Các Bồ Tát này, vì lợi lạc cho tất cả hữu tình thọ trì, tư duy, đọc tụng vô số Kinh điển làm cho thông suốt hoàn toàn và nghĩ: Ta đem các pháp này thuyết giảng chỉ dạy cho các hữu tình, sẽ nguyện khiến cho tất cả pháp được đầy đủ. Lại đem căn lành pháp thí như thế bình đẳng trao cho các hữu tình cùng có như nhau, hồi hướng sở cầu Nhất thiết trí trí.

Lại nữa, Thiện Hiện! Các Bồ Tát này đối với pháp môn sâu xa mà Phật đã thuyết, nhất định chẳng nghi ngờ, do dự, cũng chẳng mê mờ hoang mang, mà hoan hỷ tin nhận. Những lời nói ra đều vì lợi ích, biết chừng mực mà nói, lời nói nhỏ nhẹ êm ái, ít ngủ nghỉ, không hiện phiền não; ra vào qua lại tâm chẳng mê lầm, thường luôn an trụ chánh niệm chánh tri; đi đứng oai nghi cũng đều như thế. Dạo bước đi đến đâu cũng đều quán sát nơi ấy, an tường buộc niệm, nhìn thẳng mà đi. Nói năng, cử động thường không gấp gáp, vụt chạc. Các đồ dùng như ngọa cụ, y phục luôn sạch sẽ, thơm tho, không có các mùi hôi hám, cũng không cáu bẩn, hay có các loài trùng như rận, rệp v.v… Thường ưa thanh nhàn, luôn không tật bệnh, trong thân không có tám vạn loại trùng. Vì sao? Vì căn lành của Bồ Tát này càng tăng, vượt khỏi thế gian. Căn lành như thế dần dần tăng trưởng; như thế… như thế thân tâm thanh tịnh.

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Tâm Bồ Tát này vì sao được thanh tịnh?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Các Bồ Tát này căn lành như thế dần dần tăng trưởng, trong tâm vĩnh viễn không còn tất cả những việc nịnh hót, quanh co, kiêu căng, lừa dối… Do nhân duyên ấy, tất cả phiền não và bất thiện khác vĩnh viễn dứt hết, cũng vượt qua địa vị Thanh văn và Độc giác, mau thẳng đến quả vị Vô Thượng Bồ đề. Do vậy nên biết, tâm thường thanh tịnh.

Lại nữa, Thiện Hiện! Các Bồ Tát này không trọng lợi dưỡng, không màng tiếng khen, tâm xa lìa keo kiệt, ghen ghét; thân không lỗi lầm, nghe pháp sâu xa tâm không hề nhầm lẫn, trí tuệ càng bền vững, cung kính tin nhận. Các sự nghe biết đều có thể hội nhập vào Bát Nhã sâu xa. Các việc tạo tác sự nghiệp ở thế gian cũng nương phương tiện thiện xảo của Bát nhã Ba la mật mà hội nhập pháp tánh, không thấy có một việc nào ra khỏi pháp tánh. Giả sử có thì không tương ưng với pháp tánh, cũng thường phương tiện hội nhập lý thú sâu xa Bát nhã Ba la mật. Do vậy không thấy ra khỏi pháp tánh.

 

(Ác ma không thể khuynh đảo Bồ Tát)

 

Lại nữa, Thiện Hiện! Các Bồ Tát này giả sử có ác ma hiện trước mặt, hóa làm tám địa ngục lớn, trong mỗi địa ngục hóa làm vô lượng trăm ngàn Bồ Tát, đều bị lửa dữ xen nhau đốt cháy, bảo Bồ Tát: “Các Bồ Tát này đều do được thọ ký đắc Bất thối chuyển nên đọa trong địa ngục lớn, thường chịu khổ lớn dữ dội như thế. Các bạn đã được thọ ký Bất thối chuyển, sẽ như hạng này, chịu khổ lớn như thế. Thế nên các bạn hãy mong chóng rời bỏ tâm đại Bồ đề mới có thể thoát khỏi khổ này, sẽ được sanh lên trời hoặc sanh trong loài người, giàu sang phú quý, tự do thọ lãnh các thú vui”.

Khi ấy, các Bồ Tát thấy nghe việc này, tâm Bồ Tát chẳng lay động, cũng chẳng kinh sợ, chỉ nghĩ: Nếu các Bồ Tát đã được thọ ký Bất thối chuyển Bồ đề mà lại đọa nẻo ác, chịu các khổ não như phàm phu ngu si thì chắc chắn không có lẽ đó. Việc thấy nghe này nhất định là do ác ma tạo ra, nói ra, đều chẳng phải có thật.

Lại nữa, Thiện Hiện! Các Bồ Tát này giả sử có ác ma giả làm Sa môn, đi đến chỗ người đó nói thế này: “Bạn trước đây đã nghe và thọ trì, đọc tụng Kinh điển tương ưng với Bát Nhã sâu xa, đều là tà thuyết. Nên mau xả bỏ, chớ cho là chơn thật. Các bạn nếu có thể mau xả bỏ thì ta sẽ dạy các bạn Phật pháp chơn tịnh, làm cho các bạn mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Những gì bạn đã nghe trước đây chẳng phải thật là lời của Phật dạy. Những văn tụng như thế ghi chép luống dối. Những điều ta nói mới đúng là lời Phật dạy”.

Thiện Hiện nên biết! Nếu các Bồ Tát nghe lời như thế, tâm dao động, kinh sợ, nghi ngờ, thì nên biết chưa được thọ ký Bất thối chuyển. Nếu các Bồ Tát nghe lời như vậy, tâm chẳng sợ hãi, nghi ngờ, chỉ theo pháp tánh vô tác, vô tướng, vô sanh mà an trú, thì nên biết đã được thọ ký Bất thối chuyển. Các Bồ Tát này có làm việc gì, chẳng tin lời người khác, chẳng theo sự chỉ dạy của người khác mà bị chuyển theo; như A la hán làm việc gì chẳng tin lời người khác, luôn chứng pháp tánh, không nghi, không lầm, tất cả ác ma chẳng thể lay động. Bồ Tát Bất thối cũng thế, tất cả Thanh văn, Độc giác, ngoại đạo, các ác ma v.v... chẳng thể phá hoại làm cho thối lui Bồ đề.

Lại nữa, Thiện Hiện! Các Bồ Tát này giả sử có ác ma đi đến chỗ họ, dối hiện làm bạn thân, nói thế này: “Việc các bạn thực hành là pháp sanh tử, chẳng phải là hạnh Bồ đề. Nay các bạn

nên tu đạo tận khổ, mau dứt các khổ, được Bát Niết bàn, thân khổ hiện tại còn nên nhàm chán, xả bỏ, huống lại ưa thích chịu thân khổ đương lai? Nên suy xét kỹ, bỏ sự tin tưởng trước đây”. Các Bồ Tát này khi nghe lời ấy, tâm chẳng kinh sợ, nghi ngờ, chỉ nghĩ: Nói như thế, nhất định là do ác ma nói.

Ác ma lại bảo Bồ Tát: “Muốn nghe hạnh vô ích của Bồ Tát chăng? Nghĩa là các Bồ Tát trải qua số đại kiếp như cát sông Hằng, đem vô lượng các thứ đồ thượng diệu cúng dường chư Phật đầy đủ. Lại ở chỗ chư Phật nhiều như cát sông Hằng, tu vô lượng các phạm hạnh khó hành, gần gũi phụng thờ chư Phật Thế Tôn nhiều như cát sông Hằng. Thưa hỏi vô lượng, vô biên Bồ Tát việc nên tu học, nên an trú thế nào, nên hành thế nào, nên học thế nào về Bồ Tát đạo? Chư Phật Thế Tôn nhiều như cát sông Hằng, như điều thưa hỏi, thứ tự giải đáp. Các Bồ Tát kia như lời dạy mà an trú, như lời dạy mà thực hành, như lời dạy mà học tập, trải qua vô lượng kiếp còn chẳng thể chứng sở cầu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, huống nay các bạn có thể chứng đắc?”

Bấy giờ Bồ Tát nghe nói như thế, nhưng tâm chẳng dao động, cũng chẳng nghi ngờ. Khi ấy ác ma ở ngay chỗ ấy lại hóa làm vô lượng hình tướng Bí sô, bảo Bồ Tát: “Các Bí sô này ở quá khứ trải qua vô số kiếp, tu vô lượng hạnh khó hành, nhưng không thể đắc Vô thượng Bồ đề, nay đều thối lui, trụ quả A la hán, thì làm sao các bạn có thể chứng Bồ đề?”

Các Bồ Tát này thấy, nghe việc như vậy xong, liền nghĩ: Nhất định đây là ác ma vì quấy rối ta nên nói những việc như thế. Nhất định không có Bồ Tát tu hạnh Bát nhã Ba la mật đạt đến địa vị viên mãn mà chẳng chứng quả vị Vô Thượng Bồ đề, lui trụ địa vị Thanh văn, Độc giác v.v...

Lại nghĩ: Nếu các Bồ Tát như lời Phật đã dạy, tu hạnh Bồ đề mà chẳng chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thì chắc chắn không có lẽ đó. Nên biết, những điều thấy, nghe của ngày hôm nay nhất định là của ác ma nói ra.

Lại nữa, Thiện Hiện! Các Bồ Tát này giả sử có ác ma hóa hiện hình tướng Bí sô đi đến chỗ vị ấy nói thế này: “Nhất thiết trí trí cùng hư không đồng nhau, lấy không tánh làm tánh, tự tướng vốn không. Các pháp cũng như thế, hoàn toàn vô sở hữu, trong đây không có pháp nào có thể gọi là năng chứng, cũng không có pháp nào có thể gọi là sở chứng, nơi chứng, thời chứng và do đây chứng, đều bất khả đắc. Tất cả pháp cùng hư không đã đồng nhau, lấy không tánh làm tánh, tự tướng vốn không, thì các bạn vì lẽ gì cam chịu khổ nhọc cầu chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề một cách luống uổng? Trước đây bạn đã nghe các chúng Bồ Tát, cầu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, đều là ma nói, chẳng phải thật là lời của Phật dạy. Các bạn nên bỏ tâm đại Bồ đề, chớ vì người theo lời dối gạt mà luống chịu khổ nhọc”.

Khi nghe người kia nói, các đại Bồ Tát này có thể biết như thật đó là việc của ác ma muốn làm thối thất tâm đại Bồ đề của ta. Ta phải nên bền tâm vững chí, chẳng nên tin lời ác ma nói.

Lại nữa, Thiện Hiện! Các Bồ Tát này nếu muốn điều tâm, nhập bốn tịnh lự, tùy ý có thể nhập, an trú tự tại; vì độ hữu tình nên sanh trở lại cõi Dục, tuy sanh lại cõi Dục nhưng chẳng nhiễm dục, cũng chẳng thối mất sự tu tịnh lự.

Lại nữa, Thiện Hiện! Các Bồ Tát này chẳng quý danh tiếng, chẳng thích khen ngợi, đối với các loài hữu tình không có tâm sân hận, thường muốn làm cho hữu tình được lợi ích an vui thù thắng, qua lại vào ra tâm không tán loạn, đi đứng tới lui oai nghi thường trụ chánh niệm, vì hữu tình nên tuy trụ tại gia nhưng chẳng tham đắm, mặc dù hiện thọ dục lạc nhưng thường chán sợ, như đi qua đường nguy hiểm tâm luôn kinh sợ, dù có sự ăn uống nhưng lo sợ chẳng yên, chỉ nghĩ: Khi nào mới ra khỏi chỗ hiểm nạn này! Tuy hiện thọ dụng các thứ của báu nhưng chẳng tham ái, chẳng dùng tà mạng phi pháp để nuôi sống. Thà tự vẫn mà chết, không tổn hại người. Vì sao? Vì các Bồ Tát này hành Bát Nhã sâu xa, là tôn quý trong loài người, là thiện sĩ trong loài người, là long tượng trong loài người, là hoa sen trong loài người, là Điều ngự trong loài người, là dõng kiện trong loài người; vốn vì lợi ích an vui cho tất cả hữu tình, hiện ở tại nhà phương tiện làm lợi ích, đâu vì việc tự nuôi sống mà làm tổn hại người. Vì sao? Vì các Bồ Tát này được năng lực phương tiện thiện xảo của Bát Nhã sâu xa hộ trì vậy.

Lại nữa, Thiện Hiện! Các Bồ Tát này có thần Dược xoa cầm chùy Kim cang thường theo hai bên âm thầm bảo vệ, không để tất cả oai lực tà mị của nhơn phi nhơn v.v... làm tổn hại thân tâm. Do nhân duyên này, các Bồ Tát này mới đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, thân ý thư thái, thường không cuồng loạn, đủ tướng trượng phu, các căn viên mãn, tâm thực hành đều thiện, thường tu tịnh mạng, chẳng hành huyễn thuật, xem tướng tốt xấu, chú cấm quỷ thần, hòa hiệp thuốc thang, dụ gạt tôi tớ, kết thân với người giàu sang, khinh lờn Thánh hiền, gần gũi nam nữ, chẳng vì danh lợi mà khen mình chê người, chẳng đem tâm nhiễm nhìn ngắm, cười giỡn, giới kiến thanh tịnh, chí tánh thuần nhất.

Lại nữa, Thiện Hiện! Các Bồ Tát này đối với văn chương, kỹ nghệ của thế gian tuy giỏi giang, khéo léo, nhưng chẳng ưa đắm, vì thấu đạt tất cả pháp chẳng thể đắc vậy; đều xa lìa sự thu nhiếp của lời tạp uế, tà mạng. Đối với các sách luận của thế tục ngoại đạo, tuy cũng biết tất cả nhưng chẳng ưa đắm, vì thông đạt tất cả pháp bản tánh là Không. Lại các sách luận của thế tục ngoại đạo lý sự thuyết ra đầy dãy thêm bớt, chẳng phù hợp đạo Bồ đề vậy.

Lại nữa, Thiện Hiện! Các Bồ Tát này có các hành tướng trạng vi tế khác, Ta sẽ phân biệt, chỉ dạy cho ngươi. Đó là: Bồ Tát kia hành Bát Nhã, đạt các pháp đều Không, nên chẳng ưa quan sát, luận nói các việc như việc vua, việc giặc, việc quân, việc chiến tranh, thành ấp, xóm làng, voi ngựa, xe cộ, y phục, ăn uống, giường nệm, hương hoa, nam nữ tốt xấu, vườn rừng, ao, hào, núi, biển... Chẳng ưa quan sát, luận nói các việc của quỷ thần, Dược xoa, La sát v.v... Chẳng ưa quan sát, luận nói các việc ở ngã tư đường, chợ búa, hàng quán, lầu gác, cửa hàng buôn bán... Chẳng ưa quan sát, luận nói các việc ca múa, hát xướng, đùa giỡn... Chẳng ưa quan sát, luận nói các việc đảo lớn, đảo nhỏ, thuyền bè, cầu cống, châu báu... Chẳng ưa quán sát, luận nói các việc ngày giờ, sao hạn, gió mưa, lạnh nóng, tốt xấu... Chẳng ưa quán sát, luận nói vô số các việc nghĩa pháp, văn tụng trái nhau... Chẳng ưa quán sát, luận nói các việc tương ưng với phàm phu, Độc giác, Thanh văn. Chỉ ưa quán sát, luận nói các việc tương ưng với Bát nhã Ba la mật. Các Bồ Tát này thường chẳng xa lìa tác ý tương ưng với Bát Nhã, thường chẳng xa lìa tâm Nhất thiết trí, chẳng ưa trái chống, ưa giảng hòa việc tranh tụng, thường mong cầu chánh pháp, chẳng ưa phi pháp, thường hâm mộ bạn tốt, chẳng ưa bạn xấu, ưa nói pháp, xa lìa nói phi pháp, vui được thấy Như Lai, mừng được gặp chúng xuất gia. Cõi nước trong mười phương có Phật Thế Tôn tuyên thuyết pháp yếu, nguyện được sanh đến đó, gần gũi cúng dường, lắng nghe chánh pháp. Các Bồ Tát này phần nhiều từ cõi trời Dục giới, Sắc giới sanh đến cõi người trong nước châu Thiệm bộ, giỏi về kỹ nghệ, chú thuật, Kinh thơ, địa lý, thiên văn và nghĩa lý các pháp; hoặc sanh ở biên giới của thành lớn, nước lớn, làm lợi ích lớn cho các hữu tình.

Lại nữa, Thiện Hiện! Các Bồ Tát này hoàn toàn chẳng tự nghi: Ta thối chuyển hay là bất thối chuyển. Đối với pháp ở địa vị của mình cũng chẳng sanh nghi ngờ là có hay là không có. Đối với các việc ma, có thể hiểu rõ hoàn toàn. Như Dự lưu, đối với pháp ở địa vị của mình hoàn toàn chẳng nghi ngờ. Giả sử có ác ma dùng đủ cách mê loạn cũng chẳng thể làm lay động. Như có tạo tác nghiệp vô gián thì tâm vô gián kia thường theo đuổi luôn cho đến chết, chẳng thể rời bỏ. Giả sử khởi lên tâm khác cũng chẳng thể ngăn chận được. Các Bồ Tát này cũng như thế, tâm chẳng thối chuyển, thường theo đuổi, luôn an trụ địa vị của Bồ Tát Bất thối chuyển. Trời, người, A tu la v.v... trong thế gian chẳng thể lay động, phá hoại pháp của mình đã đắc. Đối với các nghiệp ma, có thể biết rõ hoàn toàn, trong sự chứng pháp thường chẳng nghi ngờ.

Tuy sanh đời khác, cũng chẳng phát sanh tâm tương ưng với Thanh văn, Độc giác. Cũng chẳng tự nghi: Ta ở tương lai có thể chứng Vô thượng Phật Bồ đề. Chẳng an trụ ở địa vị của mình, chẳng theo duyên khác. Đối với pháp ở địa vị của mình chẳng thể phá hoại. Vì sao? Vì các Bồ Tát này thành tựu trí không động, không thối chuyển, nên tất cả duyên xấu chẳng thể lay động. Tâm người đó bền vững giống như Kim cang.

Giả sử có ác ma giả hình tướng Phật, đi đến chỗ người đó bảo: “Bạn nên cầu quả A la hán, dứt sạch các lậu, nhập Niết bàn, bạn chưa thể nhận thọ ký đại Bồ đề, cũng chưa chứng đắc Vô sanh pháp nhẫn, bạn chưa có các hành tướng trạng của địa vị Bất thối chuyển. Như Lai chẳng thọ ký cho bạn Vô thượng Bồ đề”. Khi các Bồ Tát này nghe lời ấy, tâm không biến động, cũng chẳng thối thất, không kinh, không sợ, chỉ nghĩ: Đây nhất định là ma hoặc quyến thuộc của ma hóa làm hình tướng Phật đi đến chỗ ta nói như thế. Nếu thật là lời Phật nói thì không có lẽ đó.

Nếu khi các Bồ Tát nghe lời kia, nên quán sát, nhớ nghĩ như vầy: Đây nhất định là ác ma hóa làm hình tướng Phật, làm cho ta xa lìa Bát Nhã sâu xa, làm cho ta rời bỏ Vô thượng Bồ đề. Vì thế, ta không nên nghe theo lời nói kia. Khi ấy, ác ma kinh sợ, liền biến mất, thì các Bồ Tát này nhất định đã an trụ địa vị Bất thối chuyển. Chư Phật quá khứ từ lâu đã thọ ký cho người kia đại Bồ đề. Vì sao? Vì các Bồ Tát này đầy đủ các hành tướng trạng của địa vị Bất thối chuyển, nên có thể biết rõ việc làm của ác ma, làm cho ma biến mất.

Lại nữa, Thiện Hiện! Các Bồ Tát này hộ trì chánh pháp không tiếc thân mạng, huống là của báu, bạn bè, quyến thuộc khác. Vì hộ trì chánh pháp nên tinh tấn, dõng mãnh, thường nghĩ: Chánh pháp này chính là pháp thân thanh tịnh của chư Phật, tất cả Như Lai cung kính, cúng dường. Ta hộ trì chánh pháp này chính là hộ trì pháp thân chư Phật.

Lại nghĩ: Chánh pháp như vậy thuộc về chư Phật Thế Tôn ba đời. Ta cũng dự vào số Phật ở đời vị lai. Phật đã thọ ký cho ta đại Bồ đề. Chánh pháp của chư Phật chính ta đã có. Chính nay ta hộ trì chánh pháp của mình. Trong tương lai, khi được thành Phật, ta cũng tuyên thuyết pháp này cho hữu tình. Các Bồ Tát này thấy lợi ích như thế, hộ trì chánh pháp Như Lai đã thuyết, không tiếc thân mạng, quyến thuộc, của báu, tài vật cho đến đạt được Bồ đề thường không mỏi mệt.

Lại nữa, Thiện Hiện! Các Bồ Tát này nghe thuyết pháp Phật không nghi, không ngờ. Nghe xong, luôn luôn thọ trì không quên.

Khi ấy, Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các Bồ Tát này chỉ nghe lời Phật dạy không nghi, không ngờ, luôn không quên  hay là nghe chánh pháp của Bồ Tát và Thanh văn cũng có thể như thế?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Các Bồ Tát này nghe ngôn ngữ, âm thanh, văn tự, nghĩa lý của khắp tất cả hữu tình đều có thể thông đạt, không nghi, không ngờ, luôn không quên mất. Vì sao? Vì các Bồ Tát này ở trong các pháp Vô sanh nhẫn, đã thông suốt hoàn toàn thật tánh các pháp, nghe đều thuận tai và không nghi ngờ. Lại đắc văn trì Đà la ni, thường hay nhớ nghĩ hoàn toàn không quên mất.

Thiện Hiện nên biết! Đây là các hành tướng trạng của đại Bồ Tát ở địa vị Bất thối chuyển.

 

Sơ giải:

 

Đây là vài nét về hình tướng trạng của Bồ Tát Bất thối:

- “Các Bồ Tát này không bao giờ phát ngôn một cách bừa bãi, khinh xuất, nói ra lời gì đều đem lại lợi ích; hoàn toàn chẳng xem xét những điều tốt xấu, hay dở của người khác. Thương yêu bình đẳng và thuyết pháp cho họ. Nếu các Bồ Tát thành tựu các hành trạng tướng như thế thì nhất định chẳng còn thối lui quả vị Vô Thượng Bồ đề”.

- “Các Bồ Tát này chẳng đọa nẻo ác, chẳng thọ thân nữ, cũng chẳng sanh trong dòng họ ti tiện, ngoại trừ vì muốn độ thoát loài hữu tình nên thị hiện sanh đồng loại để phương tiện giúp đỡ”.

- “Các Bồ Tát này thường ưa thích thực hành mười thiện nghiệp đạo, cũng thường phương tiện khuyến khích người khác thực hành, cho đến trong mộng cũng không trái phạm”.

- “Các Bồ Tát này, vì lợi lạc cho tất cả hữu tình thọ trì, tư duy, đọc tụng vô số Kinh điển thông suốt hoàn toàn và nghĩ: Ta đem các pháp này thuyết giảng chỉ dạy cho các hữu tình, nguyện khiến cho tất cả pháp được đầy đủ. Lại đem căn lành pháp thí như thế bình đẳng trao cho các hữu tình cùng có như nhau, hồi hướng sở cầu Nhất thiết trí trí”.

- “Những lời nói ra đều vì lợi ích, biết chừng mực mà nói, lời nói nhỏ nhẹ êm ái, ít ngủ nghỉ, không hiện phiền não; ra vào qua lại tâm chẳng mê lầm, thường luôn an trụ chánh niệm chánh tri; đi đứng oai nghi cũng đều như thế. Dạo bước đi đến đâu cũng đều quán sát nơi ấy, an tường buộc niệm, nhìn thẳng mà đi. Nói năng, cử động thường không gấp gáp, vụt chạc. Các đồ dùng như ngọa cụ, y phục luôn sạch sẽ, thơm tho, không có các mùi hôi hám, cũng không cáu bẩn, hay có các loài trùng như rận, rệp v.v…”.

- “Các Bồ Tát này không trọng lợi dưỡng, không màng tiếng khen, tâm xa lìa keo kiệt, ghen ghét; thân không lỗi lầm, nghe pháp sâu xa tâm không hề nhầm lẫn, trí tuệ càng bền vững, cung kính tin nhận. Các sự nghe biết đều có thể hội nhập vào Bát Nhã sâu xa v.v…

- Các ác ma, các loại ngũ dục, lục trần, bát phong không thể làm suy thoái, khuynh đảo được Bồ Tát này.

Đó là vài nét đại cương về hành tướng trạng của Bồ Tát Bất thối. Đọc qua ai cũng có thể hiểu. Kinh lại thuyết ngắn gọn nên chẳng có gì khó khăn trở ngại trong việc đọc tụng, thọ trì.

So với các phẩm tương đương của bốn Hội trước, thì phẩm này thuyết rõ nhất. Chúng ta không bị lẫn lộn các từ “thối chuyển” và “bất thối chuyển” như trước. Kinh lại viết đơn giản. Thế là quá đủ, không cần thêm thắt nữa. Không phải viết cầu kỳ mà cho là vi diệu, viết ngắn gọn đơn giản rõ ràng mới là lối viết khó khăn nhất./.

 

---o0o---

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/06/2021(Xem: 22144)
LUẬN VỀ CON ĐƯỜNG GIẢI THOÁT - Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn. Thứ tự Kinh văn số 1648. Hán văn từ trang 399 đến trang 461 gồm có 12 quyển. - Ngài A La Hán Ưu Ba Đề Sa (Uptissa) còn gọi là Đại Quang tạo luận nầy và vào đời nhà Lương được Ngài Tam Tạng Tăng Già Bà La (Samghaphala) nước Phù Nam dịch từ chữ Phạn sang chữ Hán. - Sa Môn Thích Như Điển, Phương Trượng chùa Viên Giác, Hannover, Đức Quốc, dịch từ chữ Hán sang tiếng Việt tại Tu Viện Đa Bảo, Úc Đại Lợi nhân lần nhập thất thứ ba tại đây. Bắt đầu dịch luận nầy vào ngày 10 tháng 12 năm 2005.
07/06/2021(Xem: 14028)
Trong mùa an cư kiết hạ năm nay (1984), sau khi đã viết xong quyển "Lễ Nhạc Phật Giáo“, tôi định dịch quyển luận "Đại Thừa Khởi Tín" từ Đại Tạng Kinh, cùng với quý Thầy khác, nhưng không thực hiện được ý định đó. Vì quý Thầy bận nhiều Phật sự phải đi xa. Do đó, tôi đình chỉ việc dịch trên. Sở dĩ như thế, vì tôi nghĩ, tài mình còn non, sức còn kém; đem ý thô sơ, tâm vụng dịch lời kinh Phật chỉ một mình làm sao tránh được những lỗi lầm, thiếu sót. Nếu có nhiều Thầy dịch cùng một lúc, văn ý trong sáng mà lại bổ khuyết cho nhau chỗ thừa, nơi thiếu thì hay hơn; thôi đành phải chờ dịp khác vậy.
07/06/2021(Xem: 14512)
LỜI NÓI ĐẦU Hôm nay là ngày 1 tháng 8 năm 2020, nhằm ngày 12 tháng 6 âm lịch năm Canh Tý, Phật lịch 2564, Phật Đản lần thứ 2644, tại thư phòng Tổ Đình Viên Giác, Hannover, Đức Quốc, tôi bắt đầu viết tác phẩm thứ 68. Hôm nay cũng là ngày có nhiệt độ cao nhất, 32 độ C, trong mùa dịch Covid-19 đang lan truyền khắp nơi trên thế giới. Sau hơn 5 tháng ròng rã, tôi đã đọc qua 8 tập kinh Việt dịch trong Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh, từ tập 195 đến tập 202, thuộc Bộ Sự Vị, được dịch từ 2 tập 53 và 54 của Đại Chánh Tạng.1 Nguyên văn chữ Hán 2 tập này gồm 2.260 trang.2 Bản dịch sang tiếng Việt của 2 tập này là 15.781 trang, chia thành 8 tập như đã nói trên. Như vậy, trung bình cứ mỗi trang chữ Hán dịch ra tiếng Việt khoảng 7 trang.
25/05/2021(Xem: 9217)
Đã nhiều năm rồi, Phật Tử Việt Nam cử hành đại lễ trong niềm hân hoan tự hào về một ngày lễ Vesak trọng đại được xưng danh một cách trang trọng là "Đại Lễ Phật Đản Liên Hiệp Quốc." Phật giáo là một trong bốn tôn giáo lớn của nhân loại. Con số Phật Tử dù vậy cũng chỉ khoảng 400-600 triệu. Với con số khiêm nhường đó, tiếng nói của Phật giáo không có ảnh hưởng gì đáng kể trong các quyết định của Liên Hiệp Quốc về vận mạng của các dân tộc trên thế giới. Phật Tử Việt Nam chính thức đón nhận "Đại Lễ Phật Đản Liên Hiệp Quốc" từ năm 2008. Từ đó đến nay, những phát biểu bởi các đại biểu từ nhiều nước tán dương Đức Phật quả là quá nhiều, nhưng chưa có bất cứ đóng góp thiết thực đáng kể nào cho khát vọng hòa bình của nhiều dân tộc bị áp bức, bóc lột bởi chính quyền của nước mình; bị đe dọa bởi tham vọng bá quyền của nước lớn.
20/05/2021(Xem: 12736)
Kinh Đại Bát Nhã có tất cả 600 quyển, gồm 5 triệu chữ trong 25 ngàn câu, là bộ kinh khổng lồ trong tàng kinh cát của Phật Giáo Đại Thừa, do Đức Thế Tôn thuyết giảng trong 22 năm. Pháp Sư Huyền Trang dịch từ tiếng Phạn sang Hán và Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm (1911-2003) dịch từ Hán sang Việt. Lão Cư Sĩ Thiện Bửu đã dành 10 năm lao nhọc, vừa học Kinh vừa viết luận bản này để xiển dương tư tưởng Bát Nhã theo tinh thần truyền bá và lưu thông. Ông đã khiêm tốn tự nhủ rằng, không biết những gì mình viết có phù hợp với tinh thần của bộ Đại Bát Nhã Ba La Mật hay không, nhưng chúng tôi cho rằng việc làm của Lão Cư Sĩ là việc cần làm và thiết thực hữu ích, ông đã giúp tóm tắt ý nghĩa và chiết giải những chỗ chính yếu của Kinh. Có thể nói đây là bản sớ giải đồ sộ thứ hai (trọn bộ 8 tập) về Kinh Đại Bát Nhã, theo sau Đại Trí Độ Luận (5 tập) ở Việt Nam. Xin tán thán công đức của Lão Cư Sĩ đã đặt viên đá đầu tiên, để khuyến khích cho những hành giả khác, cùng phát tâm xây dựng nền mó
07/05/2021(Xem: 21725)
Phật Điển Thông Dụng - Lối Vào Tuệ Giác Phật, BAN BIÊN TẬP BẢN TIẾNG ANH Tổng biên tập: Hòa thượng BRAHMAPUNDIT Biên tập viên: PETER HARVEY BAN PHIÊN DỊCH BẢN TIẾNG VIỆT Chủ biên và hiệu đính: THÍCH NHẬT TỪ Dịch giả tiếng Việt: Thích Viên Minh (chương 11, 12) Thích Đồng Đắc (chương 1, 2) Thích Thanh Lương (chương 8) Thích Ngộ Trí Đức (chương 7) Thích Nữ Diệu Nga (chương 3, 4) Thích Nữ Diệu Như (chương 9) Đặng Thị Hường (giới thiệu tổng quan, chương 6, 10) Lại Viết Thắng (phụ lục) Võ Thị Thúy Vy (chương 5) MỤC LỤC Bảng viết tắt Bối cảnh quyển sách và những người đóng góp Lời giới thiệu của HT Tổng biên tập Lời nói đầu của Chủ biên bản dịch tiếng Việt GIỚI THIỆU TỔNG QUAN Giới thiệu dẫn nhập Giới thiệu về cuộc đời đức Phật lịch sử Giới thiệu về Tăng đoàn: Cộng đồng tâm linh Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Thượng tọa bộ Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Đại thừa Giới thiệu về các đoạn kinhcủa Phật giáo Kim cương thừa PHẦN I: CUỘC ĐỜI ĐỨC
20/04/2021(Xem: 19097)
Kính bạch chư Tôn Đức, Thưa chư Pháp hữu, nhân mùa Phật Đản PL 2565, Viên Giác Tùng Thư Đức Quốc có ấn hành Đặc San Văn Hóa Phật Giáo chủ đề Chuyển hóa Khổ đau để chào mừng ngày Đản Sanh của Đức Từ Phụ Thích Ca Mâu Ni lần thứ 2645. Đặc San năm nay (lần thứ ba) được sự góp mặt của 50 văn thi sĩ và 3 họa sĩ trong và ngoài nước. Chúng tôi kính gởi đến quý Trang Nhà để nhờ phổ biến rộng rãi đến mọi độc giả gần xa. Độc giả muốn mua sách in có thể đặt trực tiếp trên mạng toàn cầu Amazon: https://www.amazon.de/gp/product/1716272939/ref=dbs_a_def_rwt_bibl_vppi_i7 Nam Mô Thích Ca Mâu Ni Phật Kính Mail Nhóm Chủ Biên Phù Vân - Nguyên Đạo - Nguyên Minh
19/04/2021(Xem: 11423)
Phật Điển Phổ Thông DẪN VÀO TUỆ GIÁC PHẬT Common Buddhist Text: Guidance and Insight from theBuddha. Copyright by Mahachulalongkorn-rajavidyalaya (MCU). Chủ biên bản Việt ngữ: LÊ MẠNH THÁT - TUỆ SỸ Ban biên dịch: Thích Hạnh Viên, Thích Nữ Khánh Năng, Thích Thanh Hòa, Pháp Hiền Cư sỹ, Nguyễn Quốc Bình. Dịch Việt và Ấn hành với Hợp đồng chuyển nhượng bản quyền của Viện Đại Học Mahachulalongkorn-rajavidyalaya (MCU), Thái-lan, 2018. Nhà xuất bản Hồng Đức, 2019. Hương Tích ấn hành.
31/03/2021(Xem: 14301)
Sách này sẽ được ghi theo hình thức biên niên sử, về các sự kiện từ ngày 8/5/1963 cho tới vài ngày sau cuộc chính biến 1/11/1963, nhìn từ phía chính phủ Hoa Kỳ. Phần lược sử viết theo nhiều tài liệu, trong đó phần chính là dựa vào tài liệu Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ “Foreign Relations of the United States 1961-1963”, một số tài liệu CIA lưu giữ ở Bộ Ngoại Giao, và một phần trong sách “The Pentagon Papers” của Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ, ấn bản Gravel Edition (Boston: Beacon Press, 1971). Vì giờ tại Việt Nam và Hoa Kỳ cách biệt nhau, cho nên đôi khi ghi ngày sai biệt nhau một ngày.
24/03/2021(Xem: 9302)
Kính Pháp Sư Hiền Đức, tôi là một tu sĩ đạo hiệu Thích Thắng Hoan có vài lời tâm niệm gởi đến Pháp Sư, một hôm tôi đến chùa Trung Hoa, tại Mỹ Quốc, tìm xin một số sách Phật đem về đọc để giải trí trong lúc tuổi già (đã 94 tuổi), hai người trong chùa mang ra cho tôi một thùng giấy cho tôi chọn lựa, họ nói đây là những sách cho không ông cứ tự nhiên, trong khi tìm kiếm, bổng nhiên tôi gặp một quyển sách nhan đề là “Phật Giáo Dữ Nhân Sanh, liền mở ra đọc tổng quát tại chỗ về mục lục và lướt qua tiểu sử của tác giả liền tò mò xin về đọc.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]