Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

11. Phẩm "Khen Tịnh"

05/10/202013:27(Xem: 8745)
11. Phẩm "Khen Tịnh"

 TỔNG LUẬN
 KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***

buddha-450


 

PHẨM "KHEN TỊNH"

Phần sau Q.506, cho đến phần đầu Q.507, Hội thứ III. ĐBN.

(Tương đương phẩm “Thanh Tịnh” phần đầu Q.436, và phẩm "Không Nêu Cờ",

phần sau Q.436 đến phần đầu Q.437, Hội thứ II, ĐBN)

 

Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Tịnh, Cư sĩ Quảng Thiện Duyên
Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Phước, Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le

 

 

Tóm lược:

1. Khen tịnh.

 

Bấy giờ, Xá Lợi Tử thưa Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Thanh tịnh như thế rất là thẳm sâu?

Phật nói:

- Như vậy, vì rốt ráo tịnh vậy.

Xá Lợi Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Những pháp nào rốt ráo tịnh nên nói thanh tịnh mà gọi rất là thẳm sâu?

Phật bảo:

- Xá Lợi Tử! Sắc rốt ráo tịnh nên nói thanh tịnh ấy rất thẳm sâu, thọ tưởng hành thức rốt ráo tịnh nên nói thanh tịnh ấy rất thẳm sâu. Như vậy, cho đến Nhất thiết trí rốt ráo tịnh nên nói thanh tịnh ấy rất thẳm sâu; Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí rốt ráo tịnh nên nói thanh tịnh ấy rất thẳm sâu. (Q.506, ĐBN)

Khi ấy, Xá Lợi Tử lại thưa Phật rằng:

- Thanh tịnh như thế rất là sáng suốt?

Phật nói:

- Như vậy, vì rốt ráo tịnh vậy.

Xá Lợi Tử thưa:

- Những pháp nào rốt ráo tịnh nên nói thanh tịnh ấy rất là sáng suốt?

Phật bảo:

- Xá Lợi Tử! Bát nhã Ba la mật rốt ráo tịnh nên nói thanh tịnh ấy rất là sáng suốt, cho đến bố thí Ba la mật rốt ráo tịnh nên nói thanh tịnh ấy rất là sáng suốt. Như vậy, cho đến Nhất thiết trí rốt ráo tịnh nên nói thanh tịnh ấy rất là sáng suốt; Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí rốt ráo tịnh nên nói thanh tịnh ấy rất là sáng suốt.

Xá Lợi Tử lại thưa Phật rằng:

- Thanh tịnh như thế chẳng động chuyển chẳng tiếp nối?

Phật nói:

- Như vậy, vì rốt ráo tịnh vậy.

Xá Lợi Tử thưa:

- Những pháp nào rốt ráo tịnh nên nói thanh tịnh ấy chẳng động chuyển chẳng tiếp nối?

Phật bảo:

- Xá Lợi Tử! Sắc chẳng động chuyển chẳng tiếp nối rốt ráo tịnh nên nói thanh tịnh ấy chẳng động chuyển chẳng nối tiếp. Như vậy, cho đến Nhất thiết tướng trí chẳng động chuyển chẳng tiếp nối rốt ráo tịnh, nên nói thanh tịnh ấy chẳng động chuyển chẳng nối tiếp.

Khi ấy, Xá Lợi Tử lại thưa Phật rằng:

- Thanh tịnh như thế vốn không tạp nhiễm?

Phật nói:

- Như vậy, vì rốt ráo tịnh vậy.

Xá Lợi Tử thưa:

- Những pháp nào rốt ráo tịnh nên nói thanh tịnh ấy vốn không tạp nhiễm?

Phật bảo:

- Xá Lợi Tử! Sắc rốt ráo tịnh nên nói thanh tịnh ấy vốn không tạp nhiễm. Như vậy, cho đến Nhất thiết tướng trí rốt ráo tịnh nên nói thanh tịnh ấy vốn không tạp nhiễm.

Xá Lợi Tử lại thưa Phật rằng:

- Thanh tịnh như thế bản tánh tinh khiết?

Phật nói:

- Như vậy, vì rốt ráo tịnh vậy.

Xá Lợi Tử thưa:

- Những pháp nào rốt ráo tịnh nên nói thanh tịnh ấy bản tánh tinh khiết?

Phật bảo:

- Xá Lợi Tử! Sắc rốt ráo tịnh nên nói thanh tịnh ấy bản tánh tinh khiết. Như vậy, cho đến Nhất thiết tướng trí rốt ráo tịnh nên nói thanh tịnh ấy bản tánh tinh khiết.

Khi ấy, Xá Lợi Tử lại thưa Phật rằng:

- Thanh tịnh như thế không đắc không hiện quán?

Phật nói:

- Như vậy, vì rốt ráo tịnh vậy.

Xá Lợi Tử thưa:

- Những pháp nào rốt ráo tịnh nên nói thanh tịnh ấy không đắc không hiện quán?

Phật bảo:

- Xá Lợi Tử! Sắc bản tánh không, rốt ráo tịnh nên nói thanh tịnh ấy không đắc không hiện quán. Như vậy, cho đến Nhất thiết tướng trí bản tánh không, rốt ráo tịnh nên nói thanh tịnh ấy không đắc không hiện quán.

Khi ấy, Xá Lợi Tử lại thưa Phật rằng:

- Thanh tịnh như thế không sanh không xuất?

Phật nói:

- Như vậy, vì rốt ráo tịnh vậy.

Xá Lợi Tử thưa:

- Những pháp nào rốt ráo tịnh nên nói thanh tịnh ấy không sanh không xuất?

Phật bảo:

- Xá Lợi Tử! Sắc vô sanh vô hiển rốt ráo tịnh nên nói thanh tịnh ấy không sanh không xuất. Như vậy, cho đến Nhất thiết tướng trí vô sanh vô hiển rốt ráo tịnh, nên nói thanh tịnh ấy không sanh không xuất. (Q.506, ĐBN)

Khi ấy, Xá Lợi Tử lại thưa Phật rằng:

- Thanh tịnh như thế chẳng sanh cõi Dục, chẳng sanh cõi Sắc, chẳng sanh cõi Vô sắc?

Phật nói:

- Như vậy, vì rốt ráo tịnh vậy.

Xá Lợi Tử thưa:

- Vì sao thanh tịnh như thế chẳng sanh cõi Dục, chẳng sanh cõi Sắc, chẳng sanh cõi Vô sắc?

Phật bảo:

- Xá Lợi Tử! Tự tánh ba cõi bất khả đắc, nên nói thanh tịnh ấy chẳng sanh cõi Dục, chẳng sanh cõi Sắc, chẳng sanh cõi Vô sắc.

Khi ấy, Xá Lợi Tử lại thưa Phật rằng:

- Thanh tịnh như thế bản tánh vô tri?

Phật nói:

- Như vậy, vì rốt ráo tịnh vậy.

Xá Lợi Tử thưa:

- Vì sao thanh tịnh như thế bản tánh vô tri?

Phật bảo:

- Xá Lợi Tử! Vì tất cả pháp bản tánh trì độn nên thanh tịnh như thế bản tánh vô tri.

Xá Lợi Tử thưa:

- Những pháp nào bản tánh vô tri nên nói thanh tịnh ấy bản tánh vô tri?

Phật bảo:

- Xá Lợi Tử! Sắc bản tánh vô tri, vì tự tướng không vậy, nên nói thanh tịnh ấy bản tánh vô tri. Như vậy, cho đến Nhất thiết tướng trí bản tánh vô tri, vì tự tướng không vậy nên nói thanh tịnh ấy bản tánh vô tri.

Khi ấy, Xá Lợi Tử lại thưa Phật rằng:

- Vì tất cả pháp bản tánh tịnh nên nói là thanh tịnh?

Phật nói:

- Như vậy, vì tất cả pháp rốt ráo tịnh vậy.

Xá Lợi Tử thưa:

- Vì sao tất cả pháp bản tánh tịnh vậy, nên nói là thanh tịnh?

Phật bảo:

- Xá Lợi Tử! Vì tất cả pháp bất khả đắc, nên bản tánh thanh tịnh nói là thanh tịnh.

Khi ấy, Xá Lợi Tử lại thưa Phật rằng:

- Như vậy, Bát nhã Ba la mật đối Nhất thiết trí trí không ích không tổn?

Phật nói:

- Như vậy, vì rốt ráo tịnh vậy.

Xá Lợi Tử thưa:

- Vì sao Bát nhã Ba la mật đối Nhất thiết trí trí không ích không tổn?

Phật bảo:

- Xá Lợi Tử! Pháp giới thường trụ nên Bát nhã Ba la mật như thế đối Nhất thiết trí trí không ích không tổn.

Khi ấy, Xá Lợi Tử lại thưa Phật rằng:

- Như vậy, Bát nhã Ba la mật bản tánh thanh tịnh đối tất cả pháp không sở nhiếp thọ?

Phật nói:

- Như vậy, vì tất cả pháp rốt ráo tịnh vậy.

Xá Lợi Tử thưa:

- Vì sao Bát nhã Ba la mật bản tánh thanh tịnh đối tất cả pháp không sở nhiếp thọ?

Phật bảo:

- Xá Lợi Tử! Pháp giới vắng lặng không lay động vậy, nên Bát nhã Ba la mật như thế bản tánh thanh tịnh, đối tất cả pháp không sở nhiếp thọ.

Cụ thọ Thiện Hiện cũng thưa Phật rằng:

- Ngã thanh tịnh nên sắc thọ tưởng hành thức cho đến pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả thanh tịnh?

Phật nói:

- Như vậy, vì rốt ráo tịnh vậy.

Bạch Thế Tôn!

- Duyên nào mà nói ngã thanh tịnh nên sắc thọ tưởng hành thức cho đến pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả thanh tịnh là rốt ráo tịnh?

Phật nói:

- Thiện Hiện! Ngã vô sở hữu nên sắc thọ tưởng hành thức cho đến pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả cũng vô sở hữu là rốt ráo tịnh.

Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:

- Ngã thanh tịnh nên quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ đề, tất cả Bồ Tát hạnh, chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thanh tịnh?

Phật nói:

- Như vậy, vì rốt ráo tịnh vậy.

Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Duyên nào mà nói ngã thanh tịnh nên quả Dự lưu cho đến chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thanh tịnh là rốt ráo tịnh?

Phật nói:

- Thiện Hiện! Ngã tự tướng không, nên quả Dự lưu cho đến chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề cũng tự tướng không là rốt ráo tịnh. (Q.506, ĐBN)

Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:

- Ngã thanh tịnh nên Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí thanh tịnh?

Phật nói:

- Như vậy, vì rốt ráo tịnh vậy.

- Bạch Thế Tôn! Duyên nào mà nói ngã thanh tịnh nên Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí thanh tịnh là rốt ráo tịnh?

- Thiện Hiện! Ngã vô tướng vô đắc, vô niệm vô tri nên Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí cũng vô tướng vô đắc, vô niệm vô tri là rốt ráo tịnh.

Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:

- Hai thanh tịnh nên không đắc không hiện quán?

Phật nói:

- Như vậy, vì rốt ráo tịnh vậy.

- Bạch Thế Tôn! Duyên nào mà nói hai thanh tịnh nên không đắc không hiện quán là rốt ráo tịnh?

- Thiện Hiện! Điên đảo sở khởi nhiễm tịnh không có, nên không đắc không hiện quán là rốt ráo tịnh.

Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:

- Ngã vô biên nên sắc thọ tưởng hành thức cho đến Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí cũng vô biên là rốt ráo tịnh?

- Thiện Hiện! Vì rốt ráo không, vô tế không vậy là rốt ráo tịnh.

Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:

- Nếu đại Bồ Tát có thể giác như thế, đấy là Bát nhã Ba la mật?

Phật nói:

- Như vậy, vì rốt ráo tịnh vậy.

- Bạch Thế Tôn! Duyên nào mà nói nếu đại Bồ Tát có thể giác như thế đấy là Bát nhã Ba la mật, tức rốt ráo tịnh vậy?

- Thiện Hiện! Do đây năng thành đạo tướng trí vậy.

Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:

- Nếu đại Bồ Tát khi hành sâu Bát Nhã chẳng đắc bờ kia, chẳng đắc bờ đây, chẳng đắc giữa dòng, đấy là đại Bồ Tát Bát Nhã thẳm sâu?

Phật nói:

- Như vậy, vì rốt ráo tịnh vậy.

- Bạch Thế Tôn! Duyên nào mà nói nếu đại Bồ Tát khi hành sâu Bát Nhã chẳng đắc bờ kia, chẳng đắc bờ đây, chẳng đắc giữa dòng, đấy là đại Bồ Tát Bát Nhã sâu thẳm, tức rốt ráo tịnh vậy?

- Thiện Hiện! Vì pháp tánh bình đẳng ba đời vậy. (Q.506, ĐBN)

 

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Các thiện nam, thiện nữ an trụ Đại thừa, nếu không phương tiện khéo léo, đối Bát Nhã sâu thẳm khởi tưởng Bát nhã Ba la mật, các thiện nam, thiện nữ này vì đem hữu sở đắc làm phương tiện, nên nới bỏ xa lìa Bát Nhã thẳm sâu?

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Hay thay! Như vậy, như ngươi đã nói! Các thiện nam thiện nữ kia trước danh trước tướng, vậy nên đối Bát Nhã thẳm sâu đây nới bỏ xa lìa.

Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Vì sao các thiện nam, thiện nữ kia trước danh trước tướng?

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Các thiện nam, thiện nữ kia đối Bát Nhã sâu thẳm lấy danh lấy tướng. Lấy danh lấy tướng rồi, say đắm Bát nhã Ba la mật mà sanh kiêu mạn, chẳng có thể chứng được thật tướng Bát Nhã. Vậy nên các người kia đối Bát Nhã sâu thẳm nới bỏ xa lìa. (Q.507, ĐBN)

Lại nữa, Thiện Hiện! Các thiện nam, thiện nữ an trụ Đại thừa, nếu có phương tiện khéo léo đối Bát Nhã sâu thẳm chẳng khởi tưởng Bát nhã Ba la mật, đem vô sở đắc làm phương tiện, nên đối Bát Nhã thẳm sâu chẳng lấy danh tướng, chẳng khởi say đắm, chẳng sanh kiêu mạn, bèn năng chứng được thật tướng Bát Nhã. Phải biết, các vị này đối Bát Nhã thẳm sâu được chẳng nới bỏ, cũng chẳng xa lìa.

 

Cụ thọ Thiện Hiện vội thưa Phật rằng:

- Thế Tôn! Rất lạ, khéo vì chúng đại Bồ Tát đối Bát nhã Ba la mật khai chỉ phân biệt tướng trước chẳng trước.

Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện rằng:

- Vì sao đại Bồ Tát đối Bát Nhã sâu thẳm khởi tưởng chấp trước, chẳng chấp trước?

Thiện Hiện đáp rằng:

- Các thiện nam, thiện nữ an trụ Đại thừa, nếu không phương tiện khéo léo, khi hành sâu Bát Nhã, đối sắc bảo không, khởi tưởng trước không; đối thọ tưởng hành thức bảo không, khởi tưởng trước không. Như vậy, cho đến đối Nhất thiết trí bảo không, khởi tưởng trước không; đối Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí bảo không, khởi tưởng trước không. (Q.507, ĐBN)

Lại nữa, Xá Lợi Tử! Các thiện nam, thiện nữ an trụ Đại thừa, nếu không phương tiện khéo léo, khi hành sâu Bát Nhã, đối sắc bảo sắc, khởi tưởng trước sắc. Nói rộng, cho đến đối Nhất thiết tướng trí bảo Nhất thiết tướng trí, khởi tưởng trước Nhất thiết tướng trí. Đối pháp quá khứ bảo pháp quá khứ, khởi tưởng trước pháp quá khứ. Đối pháp vị lai bảo pháp vị lai, khởi tưởng trước pháp vị lai. Đối pháp hiện tại bảo pháp hiện tại, khởi tưởng trước pháp hiện tại.

Lại nữa, Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ Tát đem hữu sở đắc mà làm phương tiện, từ sơ phát tâm đối bố thí Ba la mật cho đến Nhất thiết tướng trí khởi tưởng trước hành. Xá Lợi Tử! Các đại Bồ Tát khi hành sâu Bát Nhã, nếu không phương tiện khéo léo, đem hữu sở đắc mà làm phương tiện khởi các thứ tưởng trước như thế v.v…, gọi là trước tướng.

Lại nữa, Xá Lợi Tử! Trước đã hỏi rằng vì sao đại Bồ Tát đối Bát Nhã sâu thẳm chẳng trước tướng ấy. Nếu đại Bồ Tát khi hành sâu Bát Nhã có phương tiện khéo léo, nên đối sắc chẳng khởi tưởng không chẳng không; đối thọ tưởng hành thức chẳng khởi tưởng không chẳng không. Nói rộng, cho đến đối Nhất thiết trí chẳng khởi tưởng không chẳng không; đối Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí chẳng khởi tưởng không chẳng không. Đối pháp quá khứ chẳng khởi tưởng không chẳng không. Đối pháp vị lai hiện tại chẳng khởi tưởng không chẳng không.

Lại nữa, Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ Tát khi hành sâu Bát Nhã có phương tiện khéo léo, nên chẳng khởi nghĩ này: Ta năng hành thí, đây sở hành thí, như vậy hành thí. Ta năng trì giới, đây sở trì giới, như vậy trì giới. Ta năng tu nhẫn, đây sở tu nhẫn, như vậy tu nhẫn. Ta năng tinh tấn, đây sở tinh tấn, như vậy tinh tấn. Ta năng tu định, đây sở tu định, như vậy tu định. Ta năng tu huệ, đây sở tu huệ, như vậy tu huệ. Ta năng trồng phước, đây sở trồng phước, như vậy trồng phước. Ta năng vào Bồ Tát Chánh tánh ly sanh. Ta năng nghiêm tịnh cõi Phật. Ta năng thành thục hữu tình. Ta năng chứng được Nhất thiết trí trí.

Xá Lợi Tử! Đại Bồ Tát này khi hành sâu Bát Nhã vì có phương tiện khéo léo, nên không phân biệt tất cả như thế v.v… Do vì thông suốt nội không cho đến vô tánh tự tánh không vậy. Xá Lợi Tử! Đấy gọi đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã trước chẳng chấp trước tướng.

Khi ấy, Thiên Đế Thích hỏi Thiện Thệ rằng:

- Các thiện nam, thiện nữ an trụ Đại thừa khi hành sâu Bát Nhã, làm sao biết khởi tưởng chấp trước?

Thiện Hiện đáp rằng:

- Các thiện nam, thiện nữ an trụ Đại thừa, khi hành sâu Bát Nhã nếu không phương tiện khéo léo, lấy hữu sở đắc làm phương tiện, khởi tưởng tự tâm, khởi tưởng bố thí, nói rộng cho đến khởi tưởng Nhất thiết trí trí, khởi tưởng chư Phật, khởi tưởng ở chỗ Phật trồng căn lành, khởi những tưởng đã trồng căn lành nhóm hợp cân lường, cùng các hữu tình bình đẳng chung có hồi hướng Vô thượng Chánh Đẳng Giác như thế v.v… Kiều Thi Ca! Do đây, mới biết các thiện nam, thiện nữ an trụ Đại thừa, khi hành sâu Bát Nhã đã khởi tưởng chấp trước.

Kiều Thi Ca! Các thiện nam thiện nữ này bởi trước tướng nên chẳng thể tu hành vô trước Bát nhã Ba la mật, hồi hướng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vì sao? Kiều Thi Ca! Chẳng phải bản tánh sắc có thể hồi hướng, nói rộng cho đến chẳng phải bản tánh Nhất thiết tướng trí có thể hồi hướng vậy.

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ Tát muốn đối với quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề mà thị hiện khuyên bảo, hướng dẫn khen ngợi, hoan hỷ cho các hữu tình khác, thì nên quán sát thật tướng bình đẳng của các pháp. Tùy theo đây mà tác ý, thị hiện, khuyên bảo, hướng dẫn, khen ngợi, hoan hỉ các hữu tình khác. Nghĩa là nói như vầy: Các thiện nam tử! Khi hành bố thí, không nên phân biệt ta có thể hành bố thí. Cho đến khi hành Nhất thiết tướng trí, không nên phân biệt ta có thể hành Nhất thiết tướng trí. Khi tu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật, không nên phân biệt ta có thể tu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật.

Kiều Thi Ca! Các đại Bồ Tát đối với quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề mà thị hiện, khuyên bảo, hướng dẫn, khen ngợi, hoan hỉ các hữu tình khác nên thị hiện, khuyên bảo, hướng dẫn, khen ngợi, hoan hỉ các hữu tình khác như thế. Nếu làm được như vậy, thì đối với mình không bị tổn giảm, với người cũng không bị tổn giảm. Cũng như chư Như Lai đã thị hiện, khuyên bảo, hướng dẫn, khen ngợi, hoan hỉ các hữu tình.

Bấy giờ, Thế Tôn khen Thiện Hiện rằng:

- Hay thay, hay thay! Ngươi nay khéo hay vì các Bồ Tát thuyết tướng chấp trước. Lại còn có những chấp trước vi tế (nhỏ nhiệm) khác, Ta sẽ vì ngươi thuyết, ngươi nên lóng nghe, khéo suy nghĩ.

Thiện Hiện thưa:

- Dạ xin thuyết cho, chúng con muốn nghe.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Các thiện nam tử v.v… an trụ Đại thừa muốn tới Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, nếu đối Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác nhớ nghĩ lấy tướng đều là chấp trước. Hoặc đối chư Phật Thế Tôn ba đời, từ sơ phát tâm cho đến pháp trụ, có bao căn lành nhớ nghĩ lấy tướng tùy hỷ hồi hướng Vô thượng Bồ đề, đều là chấp trước. Hoặc đối sở tu pháp lành của các đệ tử Như Lai nhớ nghĩ lấy tướng tùy hỷ hồi hướng Vô thượng Bồ đề, đều là chấp trước. Vì sao? Vì công đức căn lành các Như Lai và các đệ tử chẳng nên nhớ nghĩ lấy tướng phân biệt, vì tất cả các tướng đều là hư dối. (Q.507, ĐBN)

Bấy giờ, Thiện Hiện bèn thưa Phật rằng:

- Bát nhã Ba la mật như thế rất là thẳm sâu?

Phật nói:

- Như vậy, vì tất cả pháp bản tánh xa lìa vậy.

Thiện Hiện, lại thưa:

- Bát nhã Ba la mật như thế đều nên lễ kính?

Phật nói:

- Như vậy, Bát nhã Ba la mật đây tuy được nhiều công đức nhưng không tạo không tác, không kẻ năng chứng.

Thiện Hiện lại thưa:

- Tất cả pháp tánh chẳng thể chứng giác?

Phật nói:

- Như vậy, vì tất cả pháp nhất tánh chẳng hai.

Thiện Hiện phải biết: Các pháp nhất tánh tức là vô tánh. Các pháp vô tánh tức là nhất tánh. Các pháp nhất tánh vô tánh như thế vốn là thật tánh. Vốn thật tánh đây vô tạo vô tác. Nếu đại Bồ Tát có thể như thật biết được nhất tánh, vô tánh, vô tạo vô tác, tức có thể xa lìa được tất cả chấp trước. (Q.507, ĐBN)

Thiện Hiện lại thưa:

- Bát nhã Ba la mật như thế khó có thể giác biết?

Phật nói:

- Như vậy, vì Bát Nhã thẳm sâu không kẻ thấy nghe hiểu biết vậy.

Thiện Hiện lại thưa:

- Bát nhã Ba la mật như thế chẳng thể nghĩ bàn?

Phật nói:

- Đúng vậy! Vì Bát Nhã sâu thẳm không thể dùng tâm chấp, hay xa lìa tướng tâm; không thể dùng sắc chấp, hay xa lìa tướng sắc. Cho đến không thể dùng Nhất thiết tướng trí chấp, hay xa lìa tướng Nhất thiết tướng trí. Không thể dùng tất cả pháp chấp, hay xa lìa tướng tất cả pháp.

Thiện Hiện lại thưa:

- Bát nhã Ba la mật như thế không tạo, không tác cũng không chứng?

Phật nói:

- Như vậy, vì các tác giả bất khả đắc vậy. Thiện Hiện phải biết: Sắc bất khả đắc nên tác giả bất khả đắc, thọ tưởng hành thức bất khả đắc nên tác giả bất khả đắc. Nói rộng, cho đến Nhất thiết tướng trí bất khả đắc nên tác giả bất khả đắc, tất cả pháp bất khả đắc nên tác giả bất khả đắc. Bởi các tác giả và pháp sắc v.v… bất khả đắc nên Bát Nhã sâu thẳm không tạo không tác.

 

2. Không nêu cờ:

(Đoạn Kinh sau đây tương đương với phẩm “Không Nêu Cờ”,

phần sau Q.436 đến phần đầu Q.437, Hội thứ II, ĐBN)

 

(Chẳng hành sắc thường hoặc vô thường v.v... là hành Bát Nhã)

 

Bấy giờ, Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:

- Đại Bồ Tát làm sao hành Bát nhã Ba la mật?

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát chẳng hành nơi sắc là hành Bát nhã Ba la mật, chẳng hành thọ tưởng hành thức là hành Bát nhã Ba la mật. Nói rộng, cho đến chẳng hành Nhất thiết trí là hành Bát nhã Ba la mật; chẳng hành Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí là hành Bát nhã Ba la mật. (Q.507, ĐBN)

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát chẳng hành sắc hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng là hành Bát nhã Ba la mật. Nói rộng, cho đến chẳng hành Nhất thiết tướng trí hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng là hành Bát nhã Ba la mật. Vì sao? Vì sắc cho đến Nhất thiết tướng trí vô sở hữu, huống có thường vô thường cho đến vắng lặng chẳng vắng lặng.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát chẳng hành sắc viên mãn là hành Bát nhã Ba la mật. Chẳng hành sắc chẳng viên mãn là hành Bát nhã Ba la mật. Nói rộng, cho đến chẳng hành Nhất thiết tướng trí viên mãn là hành Bát nhã Ba la mật. Chẳng hành Nhất thiết tướng trí chẳng viên mãn là hành Bát nhã Ba la mật. Vì sao? Hoặc vì sắc viên mãn hoặc chẳng viên mãn đều chẳng gọi sắc, cũng chẳng hành như thế là hành Bát nhã Ba la mật. Nói rộng, cho đến hoặc Nhất thiết tướng trí viên mãn hoặc chẳng viên mãn đều chẳng gọi Nhất thiết tướng trí, cũng chẳng hành như thế là hành Bát nhã Ba la mật. (Q.507, ĐBN)

 

(Trước chẳng trước)

 

Cụ thọ Thiện Hiện bèn thưa Phật rằng:

- Rất lạ, Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác khéo vì Bồ Tát tuyên nói nhiều các tướng trước chẳng trước.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Như vậy, như vậy. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác khéo vì Bồ Tát tuyên nói các tướng trước chẳng trước, khiến học Bát nhã Ba la mật mau đến rốt ráo.

Lại nữa, Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát khi hành sâu Bát Nhã, nếu chẳng hành tướng sắc trước chẳng trước là hành Bát nhã Ba la mật, chẳng hành tướng thọ tưởng hành thức trước chẳng trước là hành Bát nhã Ba la mật. Nói rộng, cho đến nếu chẳng hành tướng tất cả Bồ Tát hạnh trước chẳng trước là hành Bát nhã Ba la mật. Chẳng hành tướng chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề trước chẳng trước là hành Bát nhã Ba la mật.

 

Bấy giờ, Thiện Hiện liền thưa Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Rất lạ! Pháp tánh sâu thẳm cực hiếm có, hoặc nói chẳng nói đều không thêm bớt?

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Như vậy, như vậy. Pháp tánh thẳm sâu cực hiếm có, hoặc nói chẳng nói đều không thêm bớt. Ví như hư không, giả sử chư Phật hết một đời hoặc khen hoặc chê, mà hư không kia không thêm không bớt. Pháp tánh thẳm sâu cũng lại như vậy, hoặc nói chẳng nói đều không thêm bớt. Lại như huyễn sĩ, khi khen chê không vui không buồn, chẳng thêm chẳng bớt. Pháp tánh sâu thẳm cũng lại như vậy, hoặc nói chẳng nói vẫn không khác.

Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:

- Các đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã là việc rất khó. Nghĩa là Bát Nhã thẳm sâu hoặc tu chẳng tu không thêm không bớt, không vui không buồn, không phải không trái, mà siêng tu học Bát Nhã thẳm sâu cho đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thường không quay lui. Vì sao? Vì các đại Bồ Tát tu hành Bát Nhã như tu hư không, trọn vô sở hữu. Như trong hư không, không sắc khá rõ, cũng không thọ tưởng hành thức khá rõ. Nói rộng, cho đến không tất cả Bồ Tát hạnh khá rõ, cũng không chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề khá rõ. Sở tu Bát nhã Ba la mật cũng lại như vậy. Nghĩa là trong pháp thẳm sâu Bát nhã Ba la mật đây không sắc khá đắc. Nói rộng, cho đến không chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề khá đắc. Trong đây tuy không các pháp khá đắc, mà các đại Bồ Tát thường siêng tinh tấn tu học Bát Nhã cho đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thường không quay lui. Vậy nên, con nói các đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã là việc rất khó. (Q.507, ĐBN)

 

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ Tát mặc áo giáp đại công đức như thế, hữu tình chúng con đều nên kính lễ. Bạch Thế Tôn! Nếu đại Bồ Tát vì các hữu tình thành thục giải thoát nên tinh tấn mặc áo giáp công đức. Cũng như vì hư không thành thục giải thoát nên tinh tấn mặc áo giáp công đức. Nếu đại Bồ Tát vì tất cả pháp, siêng năng tinh tấn mặc áo giáp công đức. Cũng như vì hư không phát tâm siêng năng tinh tấn mặc áo giáp công đức. Nếu đại Bồ Tát vì cứu vớt hữu tình ra khỏi biển khổ sanh tử, nên siêng năng tinh tấn mặc áo giáp công đức, như vì muốn đem hư không để chỗ cao hơn, nên siêng năng tinh tấn mặc áo giáp công đức.

Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ Tát được đại tinh tấn Ba la mật, vì các loài hữu tình như hư không được lợi ích an lạc lớn, nên phát tâm đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ Tát được thần lực vô đẳng bất tư nghì, vì biển pháp tánh như hư không nên mặc áo giáp công đức, phát tâm đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ Tát rất là dõng mãnh, vì quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật như hư không, nên siêng năng tinh tấn mặc áo giáp công đức.

Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ Tát vì các loại hữu tình như hư không siêng tu khổ hạnh, muốn chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề rất là hiếm có. Vì sao? Giã sử trong Tam thiên đại thiên thế giới đầy Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác như rừng mè lau tre mía v.v… trụ một kiếp hoặc một kiếp hơn, vì các hữu tình thường thuyết chánh pháp, đều độ vô lượng vô số hữu tình khiến vào Niết bàn an vui rốt ráo, mà cõi hữu tình chẳng thêm chẳng bớt. Vì sao? Vì các hữu tình đều vô sở hữu, tánh xa lìa vậy.

Bấy giờ, trong chúng có một Bí sô khởi nghĩ rằng: “Ta nên kính lễ Bát Nhã thẳm sâu. Trong đây mặc dù không các pháp sanh diệt, mà có nhóm giới, nhóm định, nhóm huệ, nhóm giải thoát, nhóm giải thoát tri kiến khá thi thiết được. Cũng có quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ đề, tất cả Bồ Tát hạnh, chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề khá thi thiết được. Cũng có Phật bảo, Pháp bảo, Tăng bảo, quay xe diệu pháp độ chúng hữu tình khá thi thiết được”.

Phật biết ý nghĩ của Bí sô bèn bảo rằng: “Như vậy, như ngươi đã nghĩ! Bát Nhã sâu thẳm mầu nhiệm khó lường, trong ấy mặc dù không có các pháp khá được, nhưng chẳng phải không có gì”. (Q.507, ĐBN)

Khi ấy, Thiên Đế Thích hỏi Thiện Hiện rằng:

- Nếu đại Bồ Tát muốn học Bát nhã Ba la mật phải làm sao mà học?

Thiện Hiện đáp rằng:

- Phải như hư không tinh siêng tu học.

Khi ấy, Thiên Đế Thích lại thưa Phật rằng:

- Nếu các thiện nam, thiện nữ đối Bát Nhã thẳm sâu chăm lòng lóng nghe, thọ trì đọc tụng, tinh siêng tu học, suy nghĩ đúng lý, thơ tả giải nói khiến rộng lưu khắp, con phải thủ hộ như thế nào?

Cụ thọ Thiện Hiện bảo Đế Thích rằng:

- Ngươi thấy có pháp khá thủ hộ chăng?

Thiên Đế Thích nói:

- Thưa Đại đức! Chẳng có! Tôi chẳng thấy pháp nào là khá thủ hộ.

Thiện Hiện bảo rằng:

- Nếu các thiện nam, thiện nữ như Phật đã dạy trụ Bát Nhã thẳm sâu tức là thủ hộ. Nếu các thiện nam, thiện nữ trụ Bát Nhã thẳm sâu thường chẳng xa lìa. Phải biết tất cả người phi người v.v… rình tìm chỗ dở muốn làm tổn hại, quyết chẳng thể được. (Q.507, ĐBN)

Kiều Thi Ca! Nếu muốn thủ hộ các Bồ Tát trụ Bát Nhã sâu thẳm ấy, chẳng khác như có người siêng năng tinh tấn thủ hộ hư không. Nếu muốn thủ hộ các Bồ Tát hành sâu Bát Nhã luống uổng nhọc nhằn trọn không ích gì.

Kiều Thi Ca! Ý ông nghĩ sao? Có ai thường thủ hộ huyễn, mộng,  tiếng vang, ảnh tượng, bóng sáng, ánh nắng và thành tầm hương, việc biến hóa chăng?

Thiên Đế Thích nói:

- Thưa Đại đức! Chẳng có!

Thiện Hiện nói:

- Kiều Thi Ca! Nếu muốn thủ hộ các Bồ Tát hành sâu Bát Nhã ấy cũng lại như thế, luống uổng nhọc nhằn trọn không ích gì.

Kiều Thi Ca! Ý ông nghĩ sao? Có ai thường thủ hộ Như Lai và việc do Phật hóa ra chăng?

Thiên Đế Thích nói:

- Thưa Đại đức! Chẳng có!

Thiện Hiện nói:

- Kiều Thi Ca! Nếu muốn thủ hộ các Bồ Tát hành sâu Bát Nhã ấy cũng lại như thế, luống uổng nhọc nhằn trọn không ích gì.

Kiều Thi Ca! Ý ông nghĩ sao? Có ai thường thủ hộ chơn như, pháp giới, nói rộng cho đến hư không giới, bất tư nghì giới chăng?

Thiên Đế Thích nói:

- Thưa Đại đức! Chẳng có!

Thiện Hiện nói:

- Kiều Thi Ca! Nếu muốn thủ hộ các Bồ Tát hành sâu Bát Nhã ấy cũng lại như thế, luống uổng nhọc nhằn trọn không ích gì.

Khi ấy, Thiên Đế Thích hỏi Thiện Hiện rằng:

- Vì sao đại Bồ Tát khi hành Bát Nhã thẳm sâu, tuy rõ biết các pháp như huyễn, như mộng, như vang, như tượng, như bóng sáng, như ánh nắng, như thành tầm hương, như việc biến hóa mà đại Bồ Tát này chẳng chấp huyễn, nói rộng cho đến việc biến hóa đây; chẳng chấp do huyễn, nói rộng cho đến do việc biến hóa, chẳng chấp thuộc huyễn nói rộng cho đến thuộc việc biến hóa, chẳng chấp nương huyễn nói rộng cho đến nương việc biến hóa?

Thiện Hiện đáp rằng:

- Nếu đại Bồ Tát khi hành sâu Bát Nhã sâu thẳm chẳng chấp sắc, nói rộng cho đến Nhất thiết tướng trí. Chẳng chấp do sắc, nói rộng cho đến Nhất thiết tướng trí. Chẳng chấp thuộc sắc, nói rộng cho đến Nhất thiết tướng trí. Chẳng chấp nương sắc, nói rộng cho đến Nhất thiết tướng trí. Đại Bồ Tát này khi hành sâu Bát Nhã, tuy rõ biết các pháp như huyễn cho đến như việc biến hóa, mà chẳng chấp huyễn đây cho đến việc biến hóa đây. Cũng lại chẳng chấp do huyễn cho đến do việc biến hóa. Cũng lại chẳng chấp thuộc huyễn cho đến thuộc việc biến hóa. Cũng lại chẳng chấp nương huyễn cho đến nương việc biến hóa. Cho đến chẳng chấp tướng đây, do tướng, thuộc tướng, nương tướng. (Q. 507, ĐBN)

 

Bấy giờ, vì sức oai thần Thế Tôn nên khiến Tam thiên đại thiên thế giới đây, tất cả trời Bốn đại vương chúng cho đến trời Sắc cứu cánh, đều cầm hương bột chiên đàn trên trời xa rải lên Thế Tôn, đi đến chỗ Phật, đảnh lễ chân Phật, lui đứng một bên. Khi ấy các chư thiên v.v… nhờ thần lực Phật nên đối khắp mười phương đều thấy ngàn Phật tuyên nói ý nghĩa phẩm loại, danh tự Bát nhã Ba la mật đều giống như đây. Đứng đầu chúng Bí sô thỉnh thuyết Bát nhã Ba la mật đều có tên Thiện Hiện. Đứng đầu chúng chư thiên nạn hỏi Bát nhã Ba la mật đều có tên Đế Thích.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo Thiện Hiện rằng:

 - Khi Bồ Tát Từ Thị chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề cũng tuyên thuyết Bát nhã Ba la mật ở chỗ này. Chư Phật tương lai trong Hiền kiếp này cũng tuyên thuyết Bát nhã Ba la mật ở đây.

Cụ thọ Thiện Hiện liền thưa Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Khi Từ Thị Bồ Tát chứng Vô thượng Chánh Đẳng Giác, sẽ lấy các pháp có hành tướng trạng nào tuyên nói Bát nhã Ba la mật?

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Khi Từ Thị Bồ Tát chứng Vô thượng Chánh Đẳng Giác, sẽ lấy sắc thọ tưởng hành thức chẳng thường chẳng vô thường, chẳng vui chẳng khổ, chẳng ngã chẳng vô ngã, chẳng tịnh chẳng bất tịnh, chẳng xa lìa chẳng chẳng xa lìa, chẳng vắng lặng chẳng chẳng vắng lặng, chẳng buộc chẳng mở, chẳng có chẳng không, chẳng quá khứ chẳng vị lai chẳng hiện tại tuyên nói Bát nhã Ba la mật. Nói rộng, cho đến sẽ lấy Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí chẳng thường chẳng vô thường, chẳng vui chẳng khổ, chẳng ngã chẳng vô ngã, chẳng tịnh chẳng bất tịnh, chẳng xa lìa chẳng phải chẳng xa lìa, chẳng vắng lặng chẳng phải chẳng vắng lặng, chẳng buộc chẳng mở, chẳng có chẳng không, chẳng quá khứ chẳng vị lai chẳng hiện tại tuyên nói Bát nhã Ba la mật. (Q.507, ĐBN)

Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:

- Khi Từ Thị Bồ Tát sẽ được Vô thượng Chánh Đẳng Giác chứng những pháp nào, thuyết những pháp nào?

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Khi Bồ Tát Từ Thị chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, chứng đắc sắc hoàn toàn thanh tịnh, thuyết sắc hoàn toàn thanh tịnh. Cho đến chứng Nhất thiết tướng trí hoàn toàn thanh tịnh, thuyết Nhất thiết tướng trí hoàn toàn thanh tịnh.

 

Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:

- Bát Nhã sâu thẳm vì sao thanh tịnh?

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Sắc thanh tịnh nên Bát Nhã thẳm sâu thanh tịnh. Nói rộng, cho đến Nhất thiết tướng trí thanh tịnh nên Bát Nhã thẳm sâu thanh tịnh.

Cụ thọ Thiện Hiện liền thưa Phật rằng:

- Vì sao sắc thanh tịnh nên Bát Nhã sâu thẳm thanh tịnh, nói rộng cho đến vì sao Nhất thiết tướng trí thanh tịnh nên Bát Nhã thẳm sâu thanh tịnh?

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Sắc không sanh không diệt, không nhiễm không tịnh nên thanh tịnh. Sắc thanh tịnh nên Bát Nhã sâu thẳm thanh tịnh. Nói rộng, cho đến Nhất thiết tướng trí không sanh không diệt, không nhiễm không tịnh nên thanh tịnh. Nhất thiết tướng trí thanh tịnh nên Bát Nhã thẳm sâu thanh tịnh. (Q.507, ĐBN)

Lại nữa Thiện Hiện! Hư không thanh tịnh nên Bát nhã Ba la mật thanh tịnh.

Cụ thọ Thiện Hiện liền thưa Phật rằng:

- Vì sao hư không thanh tịnh nên Bát Nhã thẳm sâu thanh tịnh?

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Hư không không sanh không diệt, không nhiễm không tịnh nên thanh tịnh. Hư không thanh tịnh nên Bát Nhã thẳm sâu thanh tịnh.

Lại nữa, Thiện Hiện! Sắc không nhiễm ô nên Bát Nhã thẳm sâu thanh tịnh. Nói rộng, cho đến Nhất thiết tướng trí không nhiễm ô nên Bát Nhã thẳm sâu thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì sao sắc không nhiễm ô nên Bát Nhã thẳm sâu thanh tịnh. Nói rộng, cho đến Nhất thiết tướng trí không nhiễm ô nên Bát Nhã thẳm sâu thanh tịnh?

Thiện Hiện! Sắc chẳng thể nắm lấy nên không nhiễm ô. Sắc không nhiễm ô nên Bát Nhã sâu thẳm thanh tịnh. Nói rộng, cho đến Nhất thiết tướng trí chẳng thể nắm lấy nên không nhiễm ô. Nhất thiết tướng trí không nhiễm ô nên Bát Nhã thẳm sâu thanh tịnh. (Q.507, ĐBN)

Lại nữa, Thiện Hiện! Hư không không nhiễm ô nên Bát Nhã thẳm sâu thanh tịnh.

- Bạch Thế Tôn! Vì sao hư không không nhiễm ô nên Bát Nhã thẳm sâu thanh tịnh?

- Thiện Hiện! Hư không chẳng thể nắm bắt nên không nhiễm ô. Hư không không nhiễm ô nên Bát Nhã thẳm sâu thanh tịnh.

Lại nữa, Thiện Hiện! Hư không chỉ giả nói, nên Bát Nhã thanh tịnh.

- Bạch Thế Tôn! Vì sao hư không chỉ giả nói nên Bát Nhã thẳm sâu thanh tịnh?

- Thiện Hiện! Nhân hư không hai tiếng vang hiện ra, chỉ có giả nói. Chỉ giả nói nên Bát Nhã sâu thẳm thanh tịnh.

Lại nữa, Thiện Hiện! Hư không bất khả thuyết nên Bát Nhã thẳm sâu thanh tịnh.

- Bạch Thế Tôn! Vì sao hư không bất khả thuyết nên Bát Nhã thẳm sâu thanh tịnh?

- Thiện Hiện! Việc hư không không thể nói nên bất khả thuyết. Vì bất khả thuyết nên Bát Nhã thẳm sâu thanh tịnh.

Lại nữa, Thiện Hiện! Hư không bất khả đắc nên Bát Nhã sâu thẳm thanh tịnh.

- Bạch Thế Tôn! Vì sao hư không bất khả đắc nên Bát Nhã thẳm sâu thanh tịnh?

- Thiện Hiện! Hư không không có gì để đắc nên nói bất khả đắc. Vì bất khả đắc nên Bát Nhã thẳm sâu thanh tịnh.

Lại nữa, Thiện Hiện! Tất cả pháp không sanh không diệt, không nhiễm không tịnh nên Bát nhã Ba la mật thanh tịnh.

- Bạch Thế Tôn! Vì sao tất cả pháp không sanh không diệt, không nhiễm không tịnh nên Bát nhã Ba la mật thẳm sâu thanh tịnh?

- Thiện Hiện! Vì tất cả pháp rốt ráo tịnh nên không sanh không diệt, không nhiễm không tịnh. Vì không sanh diệt, nhiễm tịnh nên Bát Nhã thẳm sâu thanh tịnh. (Q.507, ĐBN)

 

Sơ giải:

 

Phẩm này nói về thanh tịnh và trước chẳng trước. Hai giáo pháp này đã được Phật thuyết giảng rõ ràng trong hai Hội trước, nên ở đây tụng lại cho nhớ. Không cần giải thích cặn kẽ nữa!

---o0o---

 


 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/06/2021(Xem: 22144)
LUẬN VỀ CON ĐƯỜNG GIẢI THOÁT - Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn. Thứ tự Kinh văn số 1648. Hán văn từ trang 399 đến trang 461 gồm có 12 quyển. - Ngài A La Hán Ưu Ba Đề Sa (Uptissa) còn gọi là Đại Quang tạo luận nầy và vào đời nhà Lương được Ngài Tam Tạng Tăng Già Bà La (Samghaphala) nước Phù Nam dịch từ chữ Phạn sang chữ Hán. - Sa Môn Thích Như Điển, Phương Trượng chùa Viên Giác, Hannover, Đức Quốc, dịch từ chữ Hán sang tiếng Việt tại Tu Viện Đa Bảo, Úc Đại Lợi nhân lần nhập thất thứ ba tại đây. Bắt đầu dịch luận nầy vào ngày 10 tháng 12 năm 2005.
07/06/2021(Xem: 14028)
Trong mùa an cư kiết hạ năm nay (1984), sau khi đã viết xong quyển "Lễ Nhạc Phật Giáo“, tôi định dịch quyển luận "Đại Thừa Khởi Tín" từ Đại Tạng Kinh, cùng với quý Thầy khác, nhưng không thực hiện được ý định đó. Vì quý Thầy bận nhiều Phật sự phải đi xa. Do đó, tôi đình chỉ việc dịch trên. Sở dĩ như thế, vì tôi nghĩ, tài mình còn non, sức còn kém; đem ý thô sơ, tâm vụng dịch lời kinh Phật chỉ một mình làm sao tránh được những lỗi lầm, thiếu sót. Nếu có nhiều Thầy dịch cùng một lúc, văn ý trong sáng mà lại bổ khuyết cho nhau chỗ thừa, nơi thiếu thì hay hơn; thôi đành phải chờ dịp khác vậy.
07/06/2021(Xem: 14512)
LỜI NÓI ĐẦU Hôm nay là ngày 1 tháng 8 năm 2020, nhằm ngày 12 tháng 6 âm lịch năm Canh Tý, Phật lịch 2564, Phật Đản lần thứ 2644, tại thư phòng Tổ Đình Viên Giác, Hannover, Đức Quốc, tôi bắt đầu viết tác phẩm thứ 68. Hôm nay cũng là ngày có nhiệt độ cao nhất, 32 độ C, trong mùa dịch Covid-19 đang lan truyền khắp nơi trên thế giới. Sau hơn 5 tháng ròng rã, tôi đã đọc qua 8 tập kinh Việt dịch trong Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh, từ tập 195 đến tập 202, thuộc Bộ Sự Vị, được dịch từ 2 tập 53 và 54 của Đại Chánh Tạng.1 Nguyên văn chữ Hán 2 tập này gồm 2.260 trang.2 Bản dịch sang tiếng Việt của 2 tập này là 15.781 trang, chia thành 8 tập như đã nói trên. Như vậy, trung bình cứ mỗi trang chữ Hán dịch ra tiếng Việt khoảng 7 trang.
25/05/2021(Xem: 9217)
Đã nhiều năm rồi, Phật Tử Việt Nam cử hành đại lễ trong niềm hân hoan tự hào về một ngày lễ Vesak trọng đại được xưng danh một cách trang trọng là "Đại Lễ Phật Đản Liên Hiệp Quốc." Phật giáo là một trong bốn tôn giáo lớn của nhân loại. Con số Phật Tử dù vậy cũng chỉ khoảng 400-600 triệu. Với con số khiêm nhường đó, tiếng nói của Phật giáo không có ảnh hưởng gì đáng kể trong các quyết định của Liên Hiệp Quốc về vận mạng của các dân tộc trên thế giới. Phật Tử Việt Nam chính thức đón nhận "Đại Lễ Phật Đản Liên Hiệp Quốc" từ năm 2008. Từ đó đến nay, những phát biểu bởi các đại biểu từ nhiều nước tán dương Đức Phật quả là quá nhiều, nhưng chưa có bất cứ đóng góp thiết thực đáng kể nào cho khát vọng hòa bình của nhiều dân tộc bị áp bức, bóc lột bởi chính quyền của nước mình; bị đe dọa bởi tham vọng bá quyền của nước lớn.
20/05/2021(Xem: 12737)
Kinh Đại Bát Nhã có tất cả 600 quyển, gồm 5 triệu chữ trong 25 ngàn câu, là bộ kinh khổng lồ trong tàng kinh cát của Phật Giáo Đại Thừa, do Đức Thế Tôn thuyết giảng trong 22 năm. Pháp Sư Huyền Trang dịch từ tiếng Phạn sang Hán và Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm (1911-2003) dịch từ Hán sang Việt. Lão Cư Sĩ Thiện Bửu đã dành 10 năm lao nhọc, vừa học Kinh vừa viết luận bản này để xiển dương tư tưởng Bát Nhã theo tinh thần truyền bá và lưu thông. Ông đã khiêm tốn tự nhủ rằng, không biết những gì mình viết có phù hợp với tinh thần của bộ Đại Bát Nhã Ba La Mật hay không, nhưng chúng tôi cho rằng việc làm của Lão Cư Sĩ là việc cần làm và thiết thực hữu ích, ông đã giúp tóm tắt ý nghĩa và chiết giải những chỗ chính yếu của Kinh. Có thể nói đây là bản sớ giải đồ sộ thứ hai (trọn bộ 8 tập) về Kinh Đại Bát Nhã, theo sau Đại Trí Độ Luận (5 tập) ở Việt Nam. Xin tán thán công đức của Lão Cư Sĩ đã đặt viên đá đầu tiên, để khuyến khích cho những hành giả khác, cùng phát tâm xây dựng nền mó
07/05/2021(Xem: 21725)
Phật Điển Thông Dụng - Lối Vào Tuệ Giác Phật, BAN BIÊN TẬP BẢN TIẾNG ANH Tổng biên tập: Hòa thượng BRAHMAPUNDIT Biên tập viên: PETER HARVEY BAN PHIÊN DỊCH BẢN TIẾNG VIỆT Chủ biên và hiệu đính: THÍCH NHẬT TỪ Dịch giả tiếng Việt: Thích Viên Minh (chương 11, 12) Thích Đồng Đắc (chương 1, 2) Thích Thanh Lương (chương 8) Thích Ngộ Trí Đức (chương 7) Thích Nữ Diệu Nga (chương 3, 4) Thích Nữ Diệu Như (chương 9) Đặng Thị Hường (giới thiệu tổng quan, chương 6, 10) Lại Viết Thắng (phụ lục) Võ Thị Thúy Vy (chương 5) MỤC LỤC Bảng viết tắt Bối cảnh quyển sách và những người đóng góp Lời giới thiệu của HT Tổng biên tập Lời nói đầu của Chủ biên bản dịch tiếng Việt GIỚI THIỆU TỔNG QUAN Giới thiệu dẫn nhập Giới thiệu về cuộc đời đức Phật lịch sử Giới thiệu về Tăng đoàn: Cộng đồng tâm linh Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Thượng tọa bộ Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Đại thừa Giới thiệu về các đoạn kinhcủa Phật giáo Kim cương thừa PHẦN I: CUỘC ĐỜI ĐỨC
20/04/2021(Xem: 19097)
Kính bạch chư Tôn Đức, Thưa chư Pháp hữu, nhân mùa Phật Đản PL 2565, Viên Giác Tùng Thư Đức Quốc có ấn hành Đặc San Văn Hóa Phật Giáo chủ đề Chuyển hóa Khổ đau để chào mừng ngày Đản Sanh của Đức Từ Phụ Thích Ca Mâu Ni lần thứ 2645. Đặc San năm nay (lần thứ ba) được sự góp mặt của 50 văn thi sĩ và 3 họa sĩ trong và ngoài nước. Chúng tôi kính gởi đến quý Trang Nhà để nhờ phổ biến rộng rãi đến mọi độc giả gần xa. Độc giả muốn mua sách in có thể đặt trực tiếp trên mạng toàn cầu Amazon: https://www.amazon.de/gp/product/1716272939/ref=dbs_a_def_rwt_bibl_vppi_i7 Nam Mô Thích Ca Mâu Ni Phật Kính Mail Nhóm Chủ Biên Phù Vân - Nguyên Đạo - Nguyên Minh
19/04/2021(Xem: 11424)
Phật Điển Phổ Thông DẪN VÀO TUỆ GIÁC PHẬT Common Buddhist Text: Guidance and Insight from theBuddha. Copyright by Mahachulalongkorn-rajavidyalaya (MCU). Chủ biên bản Việt ngữ: LÊ MẠNH THÁT - TUỆ SỸ Ban biên dịch: Thích Hạnh Viên, Thích Nữ Khánh Năng, Thích Thanh Hòa, Pháp Hiền Cư sỹ, Nguyễn Quốc Bình. Dịch Việt và Ấn hành với Hợp đồng chuyển nhượng bản quyền của Viện Đại Học Mahachulalongkorn-rajavidyalaya (MCU), Thái-lan, 2018. Nhà xuất bản Hồng Đức, 2019. Hương Tích ấn hành.
31/03/2021(Xem: 14302)
Sách này sẽ được ghi theo hình thức biên niên sử, về các sự kiện từ ngày 8/5/1963 cho tới vài ngày sau cuộc chính biến 1/11/1963, nhìn từ phía chính phủ Hoa Kỳ. Phần lược sử viết theo nhiều tài liệu, trong đó phần chính là dựa vào tài liệu Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ “Foreign Relations of the United States 1961-1963”, một số tài liệu CIA lưu giữ ở Bộ Ngoại Giao, và một phần trong sách “The Pentagon Papers” của Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ, ấn bản Gravel Edition (Boston: Beacon Press, 1971). Vì giờ tại Việt Nam và Hoa Kỳ cách biệt nhau, cho nên đôi khi ghi ngày sai biệt nhau một ngày.
24/03/2021(Xem: 9302)
Kính Pháp Sư Hiền Đức, tôi là một tu sĩ đạo hiệu Thích Thắng Hoan có vài lời tâm niệm gởi đến Pháp Sư, một hôm tôi đến chùa Trung Hoa, tại Mỹ Quốc, tìm xin một số sách Phật đem về đọc để giải trí trong lúc tuổi già (đã 94 tuổi), hai người trong chùa mang ra cho tôi một thùng giấy cho tôi chọn lựa, họ nói đây là những sách cho không ông cứ tự nhiên, trong khi tìm kiếm, bổng nhiên tôi gặp một quyển sách nhan đề là “Phật Giáo Dữ Nhân Sanh, liền mở ra đọc tổng quát tại chỗ về mục lục và lướt qua tiểu sử của tác giả liền tò mò xin về đọc.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]