(Tương đương với phẩm “Ma Ha Tát”, quyển 47, Hội thứ I, ĐBN)
Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Tịnh Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Phước
Tóm lược:
Lúc bấy giờ, Xá lợi Tử bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Con cũng thích đem trí tuệ biện tài nói về ý nghĩa Ma ha tát của Bồ Tát?
Phật bảo Xá lợi Tử:
- Tùy ông! Nếu thích ông cứ nói.
Xá lợi Tử thưa:
- Bạch Thế Tôn! Vì các Bồ Tát với phương tiện thiện xảo có thể giảng nói pháp yếu cho các hữu tình, làm cho họ đoạn trừ ngã kiến, hữu tình kiến, mạng giả kiến, sanh giả kiến, dưỡng giả kiến, sĩ phu kiến, Bổ đặc già la kiến, ý sanh kiến, nho đồng kiến, tác giả kiến, thọ giả kiến, tri giả kiến, kiến giả kiến. Do nghĩa ấy nên gọi là Ma ha tát. Vì các Bồ Tát với phương tiện thiện xảo, có thể giảng nói pháp yếu cho các hữu tình, làm cho họ đoạn trừthường kiến, đoạn kiến, hữu kiến, vô kiến; làm cho họ đoạn trừ uẩn kiến, xứ kiến, giới kiến, đế kiến, duyên khởi kiến; làm cho họ đoạn trừ bốn niệm trụ kiến cho đến mười tám pháp Phật bất cộng kiến. Do nghĩa này nên gọi là Ma ha tát. Vì các Bồ Tát với phương tiện thiện xảo, có thể giảng nói pháp yếu cho các hữu tình, làm cho họ đoạn trừ thành thục hữu tình kiến, nghiêm tịnh cõi Phật kiến, Bồ Tát kiến, Như Lai kiến, Bồ đề kiến, Niết bàn kiến, Chuyển pháp luân kiến. Do nghĩa này nên gọi là Ma ha tát. Vì các Bồ Tát với phương tiện thiện xảo, có thể vì các hữu tình đem vô sở đắc làm phương tiện, giảng nói đoạn trừ hẳn kiến của tất cả pháp. Do nghĩa này nên gọi là Ma ha tát.
Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện hỏi Xá lợi Tử:
- Đại Bồ Tát nào có thể vì hữu tình đem vô sở đắc làm phương tiện giảng nói pháp yếu đoạn hẳn các kiến. Do nhân duyên nào có các Bồ Tát tự mình có sở đắc để làm phương tiện, sanh uẩn kiến, xứ kiến, giới kiến, đế kiến, duyên khởi kiến, bốn niệm trụ kiến, cho đến mười tám pháp Phật bất cộng kiến, và thành thục hữu tình kiến, nghiêm tịnh cõi Phật kiến, Bồ Tát kiến, Như Lai kiến, Bồ đề kiến, Niết bàn kiến, Chuyển pháp luân kiến?
Xá lợi Tử đáp:
- Đại Bồ Tát nào khi tu hành Bát nhã Ba la mật không có phương tiện thiện xảo, đem hữu sở đắc làm phương tiện, phát sanh uẩn kiến cho đến Chuyển pháp luân kiến thì đại Bồ Tát ấy vì không có phương tiện thiện xảo, nên quyết định không thể đem vô sở đắc làm phương tiện, giảng nói pháp yếu đoạn hẳn các kiến cho các hữu tình. Đại Bồ Tát nào khi tu hành Bát Nhã có phương tiện thiện xảo, có thể vì các hữu tình đem vô sở đắc làm phương tiện, giảng nói pháp yếu đoạn hẳn các kiến thì đại Bồ Tát ấy quyết định không phát sanh các kiến chấp như uẩn kiến, xứ kiến, giới kiến, v.v...
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa:
- Bạch Thế Tôn! Con cũng muốn đem trí tuệ biện tài nói ý nghĩa Ma ha tát của Bồ Tát.
Phật bảo Thiện Hiện:
- Tùy ý ông.
Thiện Hiện thưa:
- Bạch Thế Tôn! Các Bồ Tát vì muốn chứng đắc Nhất thiết trí trí, nên phát tâm Bồ đề, tâm vô đẳng đẳng, không đồng với tâm của Thanh văn, Độc giác v.v... Đối với tâm như vậy cũng không nắm giữ. Do nghĩa này nên gọi là Ma ha tát. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì tâm Nhất thiết trí trí là chơn thật vô lậu, không đọa trong ba cõi. Mong cầu tâm Nhất thiết trí trí cũng là vô lậu, không đọa trong ba cõi. Đối với tâm như vậy, không nên chấp trước. Vì vậy Bồ Tát gọi là Ma ha tát.
Khi ấy, Xá lợi Tử hỏi Thiện Hiện:
- Tâm vô đẳng đẳng của đại Bồ Tát không đồng với tâm Thanh văn, Độc giác v.v... là như thế nào?
Thiện Hiện đáp:
- Các đại Bồ Tát từ khi mới phát tâm không thấy có chút pháp nào có sanh, có diệt, có tăng, có giảm, có nhiễm, có tịnh. Nếu không thấy có chút pháp nào có sanh, có diệt, có tăng, có giảm, có nhiễm, có tịnh thì cũng không thấy có tâm Thanh văn, tâm Độc giác, tâm Bồ Tát, tâm Như Lai.
Này Xá lợi Tử! Đó gọi là tâm vô đẳng đẳng của đại Bồ Tát không đồng với tâm của Thanh văn, Độc giác v.v... Các đại Bồ Tát đối với tâm như vậy cũng không chấp trước.
Bấy giờ, Xá lợi Tử hỏi Thiện Hiện:
- Đại Bồ Tát nào đối với tâm như vậy không nên chấp đắm, thì đối với tâm tất cả Thanh văn, Độc giác, phàm phu v.v... cũng không chấp đắm. Và tâm đó đối với sắc, thọ, tưởng, hành, thức, cho đến mười tám pháp Phật bất cộng cũng không chấp đắm. Vì sao? Vì các tâm như vậy là vô tâm tánh(2).
Thiện Hiện đáp:
- Đúng vậy! Đúng như ông đã nói.
Bấy giờ, Xá lợi Tử hỏi Thiện Hiện:
- Nếu tất cả tâm là vô tâm thì không có chấp đắm. Do đó, sắc, thọ, tưởng, hành thức không phải là sắc, thọ, tưởng, hành, thức, nên cũng không chấp đắm, cho đến mười tám pháp Phật bất cộng cũng không phải mười tám pháp Phật bất cộng, nên cũng không nên chấp đắm.
Thiện Hiện đáp:
- Đúng vậy! Đúng như lời ông nói!
Xá lợi Tử thưa:
- Nếu tâm Nhất thiết trí trí là chơn thật vô lậu không đọa vào ba cõi, thì tâm của tất cả phàm phu ngu muội, Thanh văn, Độc giác v.v... cũng phải là chơn thật vô lậu không đọa ba cõi. Vì sao? Vì các tâm như vậy bản tánh đều không.
Thiện Hiện đáp:
- Đúng vậy! Đúng như lời ông nói!
Xá lợi Tử thưa:
- Nếu tâm như vậy bản tánh không, là chơn thật vô lậu không đọa trong ba cõi, thì sắc, thọ, tưởng, hành, thức, cho đến mười tám pháp Phật bất cộng cũng phải là chơn thật vô lậu không đọa vào ba cõi. Vì sao? Vì các pháp như vậy bản tánh đều không.
Thiện Hiện đáp:
- Đúng vậy! Đúng như lời ông nói!
Xá lợi Tử nói:
- Nếu tâm sắc thảy pháp là tâm không thời sắc thảy pháp chẳng thể chấp đắm, nên tất cả pháp đều bình đẳng, không sai biệt?
Thiện Hiện đáp:
- Đúng vậy! Đúng như lời ông nói!
Xá lợi Tử hỏi:
- Nếu tất cả pháp không sai khác thì tại sao Như Lai nói tâm sắc thảy có các loại khác nhau?
Thiện Hiện đáp:
- Đây là Như Lai tùy theo thế tục mà nói, chứ không phải tùy thắng nghĩa.
Xá lợi Tử hỏi:
- Nếu các phàm phu, Thanh văn, Độc giác, Bồ Tát, Như Lai các pháp tâm sắc thảy đều là vô lậu không đọa trong ba cõi, thì các phàm phu và chư Thánh, Bồ Tát, Như Lai cũng phải không sai khác?
Thiện Hiện đáp:
- Đúng vậy! Đúng như lời ông nói!
Xá lợi Tử hỏi:
- Nếu các phàm, Thánh, Bồ Tát, Như Lai không sai khác, thì tại sao Phật nói phàm, Thánh lớn, nhỏ có các bậc khác nhau?
Thiện Hiện đáp:
- Đây cũng là Như Lai dựa vào thế tục mà nói chứ không phải dựa vào thắng nghĩa.
- Này Xá lợi Tử! Các đại Bồ Tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật, đem vô sở đắc làm phương tiện, nên đối với việc phát tâm Bồ đề rộng lớn, tâm vô đẳng đẳng, tâm không cùng với Thanh văn, Độc giác không ỷ, không chấp. Đối với sắc, phi sắc cho đến mười tám pháp Phật bất cộng không lấy, không đắm. Do nghĩa này nên gọi là Ma ha tát.
Thích nghĩa:
(1). Vô đẳng đẳng (Asamasama – skt). 1- Không gì sánh nổi, lại không gì sánh bằng. 2- Tôn hiệu của chư Phật và đạo Phật.
(2). Vì các tâm như vậy là vô tâm tánh: Nguyên văn câu chữ Hán là “如như 是thị 諸chư 心tâm 無vô 心tâm 性tánh 故cố”
Lược giải:
Phẩm “Đoạn Chư Kiến” này là tiếp nối phần sau của phẩm “Thí Dụ” nói trên, nên Xá Lợi Tử tiếp tục trả lời câu hỏi “thế nào gọi là Bồ Tát Ma ha tát?” Xá Lợi Tử bảo:
“Vì các Bồ Tát với phương tiện thiện xảo có thể giảng nói pháp yếu cho các hữu tình, làm cho họ đoạn trừ ngã kiến, hữu tình kiến, mạng giả kiến, sanh giả kiến, cho đến… tri giả kiến, kiến giả kiến. Do nghĩa ấy nên gọi là Ma ha tát. Vì các Bồ Tát với phương tiện thiện xảo, có thể giảng nói pháp yếu cho các hữu tình, làm cho họđoạn trừthường kiến, đoạn kiến, hữu kiến, vô kiến; làm cho họ đoạn trừ uẩn kiến, xứ kiến, giới kiến, đế kiến, duyên khởi kiến; làm cho họ đoạn trừ bốn niệm trụ kiến cho đến mười tám pháp Phật bất cộng kiến, thành thục hữu tình kiến, nghiêm tịnh cõi Phật kiến, Bồ Tát kiến, Như Lai kiến, Bồ đề kiến, Niết bàn kiến, Chuyển pháp luân kiến”.
Câu trả lời có thể nói là Bồ Tát nào có thể giảng nói pháp yếu cho các hữu tình làm cho họ đoạn trừthường kiến, đoạn kiến, hữu kiến, vô kiến v.v… cho đến Niết bàn kiến, chuyển pháp luân kiến, thì được xem là Bồ Tát Ma ha tát. Vậy, mới biết “đoạn chư kiến” lại là pháp tu quan trọng nếu muốn trở thành Đại Bồ Tát hay Bồ Tát Ma ha tát.
Phẩm “Đoạn Chư Kiến” của Hội thứ II này tương đương với phẩm “Ma Ha Tát”, quyển 47, Hội thứ I, ĐBN được chúng tôi chiết giải rồi, nay không muốn lặp lại. Để thay đổi không khí, chúng tôi lấy phần bình giải của Đại Trí Độ Luận, phẩm thứ 14, “Đoạn Chư Kiến”, tập 3, quyển 45 để thay thế:
“Chư đại Bồ Tát, từ vô lượng kiếp, đã phát Bồ Đề tâm, lại có đại bi tâm, đã tận trừ phiền não, đã diệt sạch các tập khí, đã đoạn hết ái kiết rồi. Cho nên khi các ngài vừa nghe ngài Xá Lợi Phất nhắc đến sắc kiến, ngã kiến, thọ kiến, mạng kiến... dẫn đến Phật kiến, chuyển pháp luân kiến, là các ngài liền đoạn ngay được các kiến chấp câu sanh, đã có từ đời vô thỉ đến nay.
--o0o--
Ngài Tu Bồ Đề tự nghĩ “tu ngũ ấm... dẫn đến tu các Phật pháp cũng đều là Bồ Tát hạnh cả”, nên mới hỏi ngài Xá Lợi Phất rằng : “Vì sao Bồ Tát phải đoạn các kiến?”.
Ngài Xá Lợi Phất đáp: “Nếu Bồ Tát hành Bát nhã Ba la mật mà chẳng có các lực phương tiện, thì khi quán sắc liền thủ sắc tướng, khởi sanh sắc kiến. Như vậy là vọng kiến.
Trái lại, nếu Bồ Tát hành Bát nhã Ba la mật mà có các lực phương tiện, thì khi quán sắc chẳng thủ sắc tướng, chẳng khởi sanh sắc kiến. Như vậy là chân kiến.
Đối với các tà kiến chấp khác cũng đều là như vậy cả”.
--o0o--
“Ngài Tu Bồ Đề dụng vô đẳng đẳng tâm, mà chẳng chấp tâm ấy, nên biết rõ các pháp đều chẳng có định tướng, chẳng có sanh diệt, chẳng có cấu tịnh. Vì sao? Vì tâm đã là rốt ráo không, thì chẳng còn sanh các tướng tâm, nên là rốt ráo thanh tịnh. Do vậy mà Bồ Tát Ma Ha Tát chẳng còn thấy có Thanh Văn tâm, Bích Chi Phật tâm, dẫn đến chẳng còn thấy có Bồ Tát tâm, Phật tâm, Bồ Tát Ma Ha Tát dụng vô đẳng đẳng tâm như vậy, nên chẳng đồng với Thanh Văn và Bích Chi Phật.
--o0o--
Thế nhưng, chẳng phải vì được hết thảy trí tâm vô lậu, mà Bồ Tát sanh cao tâm. Vì sao? Vì biết rõ rằng Thanh Văn, Bích Chi Phật cũng như phàm phu, khi đã ly được các chấp, thì cũng đều được tâm vô lậu.
Vì sao? Vì đều là tánh không cả. Đã là tánh không, thì đều là rốt ráo thanh tịnh cả. Ví như mây mù có thể che ánh sáng mặt trời, mặt trăng, mà chẳng có thể làm ô nhiễm mặt trời, mặt trăng được vậy.
Lại nữa, thật tướng của phiền não cũng là tánh không, cùng với tướng tâm chẳng có gì sai khác cả. Có khác chăng, là ở chỗ phàm phu, do vọng chấp, mà thấy có sanh, có diệt, có cấu, có tịnh...; trái lại chư Thánh Hiền, do tu vô tướng trí huệ, nên chẳng khởi tâm phân biệt nữa.
Chỉ vì thương xót chúng sanh, mà chư Bồ Tát, chư Thánh Hiền hành các pháp, nhưng vẫn thường giữ tâm vô sở trước. Cho nên, phải biết rằng chẳng phải chỉ có tâm các bậc Thánh là vô lậu, chẳng trói buộc, mà tâm phàm phu, khi chẳng còn bị các nghiệp dẫn nữa, thì cũng là vô lậu, chẳng có trói buộc. Sắc, thọ, tưởng, hành, thức,... dẫn đến thập bát bất cộng pháp cũng đều là như vậy cả.
--o0o--
Ngài Xá Lợi Phất nói rằng: Tâm chẳng có tướng (vô tướng), là không.
Bởi vậy nên Bồ Tát chẳng chấp ngũ ấm, dẫn đến chẳng chấp hết thảy các pháp, vì biết rõ hết thảy đều là tự tướng không.
Ngài Tu Bồ Đề tán thán ngài Xá Lợi Phất, và nói rằng Bồ Tát quán hết thảy các pháp đều là không, là bất khả đắc, là rốt ráo thanh tịnh.
Bởi nhân duyên vậy, nên nói “Vô Thượng Bồ Đề tâm, vô đẳng đẳng tâm của Bồ Tát chẳng đồng với Thanh Văn tâm và Bích Chi Phật tâm”.
Lại nữa, khi dụng tâm ấy, mà chẳng niệm, chẳng chấp, mới mau đến được Vô Thượng Bồ Đề”.
Đại Trí Độ Luận chỉ giải thích như thế, nếu Quý vị còn thấy thiếu muốn nghiên cứu thêm, xin quay lại phẩm “Ma Ha Tát”, Hội thứ I, ĐBN tụng tiếp./.
LUẬN VỀ CON ĐƯỜNG GIẢI THOÁT
- Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn. Thứ tự Kinh văn số 1648. Hán văn từ trang 399 đến trang 461 gồm có 12 quyển.
- Ngài A La Hán Ưu Ba Đề Sa (Uptissa) còn gọi là Đại Quang tạo luận nầy và vào đời nhà Lương được Ngài Tam Tạng Tăng Già Bà La (Samghaphala) nước Phù Nam dịch từ chữ Phạn sang chữ Hán.
- Sa Môn Thích Như Điển, Phương Trượng chùa Viên Giác, Hannover, Đức Quốc, dịch từ chữ Hán sang tiếng Việt tại Tu Viện Đa Bảo, Úc Đại Lợi nhân lần nhập thất thứ ba tại đây. Bắt đầu dịch luận nầy vào ngày 10 tháng 12 năm 2005.
Trong mùa an cư kiết hạ năm nay (1984), sau khi đã viết xong quyển "Lễ Nhạc Phật Giáo“, tôi định dịch quyển luận "Đại Thừa Khởi Tín" từ Đại Tạng Kinh, cùng với quý Thầy khác, nhưng không thực hiện được ý định đó. Vì quý Thầy bận nhiều Phật sự phải đi xa. Do đó, tôi đình chỉ việc dịch trên. Sở dĩ như thế, vì tôi nghĩ, tài mình còn non, sức còn kém; đem ý thô sơ, tâm vụng dịch lời kinh Phật chỉ một mình làm sao tránh được những lỗi lầm, thiếu sót. Nếu có nhiều Thầy dịch cùng một lúc, văn ý trong sáng mà lại bổ khuyết cho nhau chỗ thừa, nơi thiếu thì hay hơn; thôi đành phải chờ dịp khác vậy.
LỜI NÓI ĐẦU
Hôm nay là ngày 1 tháng 8 năm 2020, nhằm ngày 12 tháng 6 âm lịch năm Canh Tý, Phật lịch 2564, Phật Đản lần thứ 2644, tại thư phòng Tổ Đình Viên Giác, Hannover, Đức Quốc, tôi bắt đầu viết tác phẩm thứ 68.
Hôm nay cũng là ngày có nhiệt độ cao nhất, 32 độ C, trong mùa dịch Covid-19 đang lan truyền khắp nơi trên thế giới. Sau hơn 5 tháng ròng rã, tôi đã đọc qua 8 tập kinh Việt dịch trong Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh, từ tập 195 đến tập 202, thuộc Bộ Sự Vị, được dịch từ 2 tập 53 và 54 của Đại Chánh Tạng.1 Nguyên văn chữ Hán 2 tập này gồm 2.260 trang.2 Bản dịch sang tiếng Việt của 2 tập này là 15.781 trang, chia thành 8 tập như đã nói trên. Như vậy, trung bình cứ mỗi trang chữ Hán dịch ra tiếng Việt khoảng 7 trang.
Đã nhiều năm rồi, Phật Tử Việt Nam cử hành đại lễ trong niềm hân hoan tự hào về một ngày lễ Vesak trọng đại được xưng danh một cách trang trọng là "Đại Lễ Phật Đản Liên Hiệp Quốc."
Phật giáo là một trong bốn tôn giáo lớn của nhân loại. Con số Phật Tử dù vậy cũng chỉ khoảng 400-600 triệu. Với con số khiêm nhường đó, tiếng nói của Phật giáo không có ảnh hưởng gì đáng kể trong các quyết định của Liên Hiệp Quốc về vận mạng của các dân tộc trên thế giới. Phật Tử Việt Nam chính thức đón nhận "Đại Lễ Phật Đản Liên Hiệp Quốc" từ năm 2008. Từ đó đến nay, những phát biểu bởi các đại biểu từ nhiều nước tán dương Đức Phật quả là quá nhiều, nhưng chưa có bất cứ đóng góp thiết thực đáng kể nào cho khát vọng hòa bình của nhiều dân tộc bị áp bức, bóc lột bởi chính quyền của nước mình; bị đe dọa bởi tham vọng bá quyền của nước lớn.
Kinh Đại Bát Nhã có tất cả 600 quyển, gồm 5 triệu chữ trong 25 ngàn câu, là bộ kinh khổng lồ trong tàng kinh cát của Phật Giáo Đại Thừa, do Đức Thế Tôn thuyết giảng trong 22 năm. Pháp Sư Huyền Trang dịch từ tiếng Phạn sang Hán và Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm (1911-2003) dịch từ Hán sang Việt. Lão Cư Sĩ Thiện Bửu đã dành 10 năm lao nhọc, vừa học Kinh vừa viết luận bản này để xiển dương tư tưởng Bát Nhã theo tinh thần truyền bá và lưu thông. Ông đã khiêm tốn tự nhủ rằng, không biết những gì mình viết có phù hợp với tinh thần của bộ Đại Bát Nhã Ba La Mật hay không, nhưng chúng tôi cho rằng việc làm của Lão Cư Sĩ là việc cần làm và thiết thực hữu ích, ông đã giúp tóm tắt ý nghĩa và chiết giải những chỗ chính yếu của Kinh. Có thể nói đây là bản sớ giải đồ sộ thứ hai (trọn bộ 8 tập) về Kinh Đại Bát Nhã, theo sau Đại Trí Độ Luận (5 tập) ở Việt Nam. Xin tán thán công đức của Lão Cư Sĩ đã đặt viên đá đầu tiên, để khuyến khích cho những hành giả khác, cùng phát tâm xây dựng nền mó
Phật Điển Thông Dụng - Lối Vào Tuệ Giác Phật, BAN BIÊN TẬP BẢN TIẾNG ANH
Tổng biên tập: Hòa thượng BRAHMAPUNDIT
Biên tập viên: PETER HARVEY
BAN PHIÊN DỊCH BẢN TIẾNG VIỆT
Chủ biên và hiệu đính: THÍCH NHẬT TỪ
Dịch giả tiếng Việt:
Thích Viên Minh (chương 11, 12)
Thích Đồng Đắc (chương 1, 2)
Thích Thanh Lương (chương 8)
Thích Ngộ Trí Đức (chương 7)
Thích Nữ Diệu Nga (chương 3, 4)
Thích Nữ Diệu Như (chương 9)
Đặng Thị Hường (giới thiệu tổng quan, chương 6, 10)
Lại Viết Thắng (phụ lục)
Võ Thị Thúy Vy (chương 5)
MỤC LỤC
Bảng viết tắt
Bối cảnh quyển sách và những người đóng góp
Lời giới thiệu của HT Tổng biên tập
Lời nói đầu của Chủ biên bản dịch tiếng Việt
GIỚI THIỆU TỔNG QUAN
Giới thiệu dẫn nhập
Giới thiệu về cuộc đời đức Phật lịch sử
Giới thiệu về Tăng đoàn: Cộng đồng tâm linh
Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Thượng tọa bộ
Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Đại thừa
Giới thiệu về các đoạn kinhcủa Phật giáo Kim cương thừa
PHẦN I: CUỘC ĐỜI ĐỨC
Kính bạch chư Tôn Đức,
Thưa chư Pháp hữu,
nhân mùa Phật Đản PL 2565, Viên Giác Tùng Thư Đức Quốc có ấn hành Đặc San Văn Hóa Phật Giáo chủ đề Chuyển hóa Khổ đau để chào mừng ngày Đản Sanh của Đức Từ Phụ Thích Ca Mâu Ni lần thứ 2645. Đặc San năm nay (lần thứ ba) được sự góp mặt của 50 văn thi sĩ và 3 họa sĩ trong và ngoài nước.
Chúng tôi kính gởi đến quý Trang Nhà để nhờ phổ biến rộng rãi đến mọi độc giả gần xa.
Độc giả muốn mua sách in có thể đặt trực tiếp trên mạng toàn cầu Amazon:
https://www.amazon.de/gp/product/1716272939/ref=dbs_a_def_rwt_bibl_vppi_i7
Nam Mô Thích Ca Mâu Ni Phật
Kính Mail
Nhóm Chủ Biên
Phù Vân - Nguyên Đạo - Nguyên Minh
Phật Điển Phổ Thông
DẪN VÀO TUỆ GIÁC PHẬT
Common Buddhist Text: Guidance and Insight from theBuddha.
Copyright by Mahachulalongkorn-rajavidyalaya (MCU).
Chủ biên bản Việt ngữ: LÊ MẠNH THÁT - TUỆ SỸ
Ban biên dịch: Thích Hạnh Viên, Thích Nữ Khánh Năng, Thích Thanh Hòa, Pháp Hiền Cư sỹ, Nguyễn Quốc Bình.
Dịch Việt và Ấn hành với Hợp đồng chuyển nhượng bản quyền của Viện Đại Học Mahachulalongkorn-rajavidyalaya (MCU), Thái-lan, 2018.
Nhà xuất bản Hồng Đức, 2019. Hương Tích ấn hành.
Sách này sẽ được ghi theo hình thức biên niên sử, về các sự kiện từ ngày 8/5/1963 cho tới vài ngày sau cuộc chính biến 1/11/1963, nhìn từ phía chính phủ Hoa Kỳ. Phần lược sử viết theo nhiều tài liệu, trong đó phần chính là dựa vào tài liệu Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ “Foreign Relations of the United States 1961-1963”, một số tài liệu CIA lưu giữ ở Bộ Ngoại Giao, và một phần trong sách “The Pentagon Papers” của Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ, ấn bản Gravel Edition (Boston: Beacon Press, 1971). Vì giờ tại Việt Nam và Hoa Kỳ cách biệt nhau, cho nên đôi khi ghi ngày sai biệt nhau một ngày.
Kính Pháp Sư Hiền Đức, tôi là một tu sĩ đạo hiệu Thích Thắng Hoan có vài lời tâm niệm gởi đến Pháp Sư, một hôm tôi đến chùa Trung Hoa, tại Mỹ Quốc, tìm xin một số sách Phật đem về đọc để giải trí trong lúc tuổi già (đã 94 tuổi), hai người trong chùa mang ra cho tôi một thùng giấy cho tôi chọn lựa, họ nói đây là những sách cho không ông cứ tự nhiên, trong khi tìm kiếm, bổng nhiên tôi gặp một quyển sách nhan đề là Phật Giáo Dữ Nhân Sanh, liền mở ra đọc tổng quát tại chỗ về mục lục và lướt qua tiểu sử của tác giả liền tò mò xin về đọc.
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường, nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.
May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland, Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below, may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma, the Land of Ultimate Bliss.
Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600 Website: http://www.quangduc.com
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.