Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

10. Phẩm "Chứng Khuyến"

28/01/202109:40(Xem: 8514)
10. Phẩm "Chứng Khuyến"

 TỔNG LUẬN
 KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***

buddha-540

 

 X. PHẨM "CHỨNG KHUYẾN"

Phần sau quyển 571, Hội thứ VI, ĐBN.

(Tương đương với phẩm 9: Chứng Khuyến, Kinh TTVBN)

 

Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Tịnh, Cư sĩ Quảng Thiện Duyên
Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Phước, Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le

 

Tóm lược: 

 

Phật bảo Tối Thắng:

- Thiên vương nên biết! Vô số đại kiếp trong quá khứ không thể nghĩ bàn có đức Phật tên là Công Đức Bảo Vương, đầy đủ mười hiệu. Nước của Phật này tên là Bảo Nghiêm, kiếp tên là Thiện Quán. Cõi ấy sung túc vui vẻ không có bệnh tật khổ não. Trời người qua lại chẳng cách ngại nhau. Đất đai bằng phẳng như bàn tay, không có núi gò sỏi đá chông gai. Cỏ nhung mọc khắp, mềm mại xanh biếc như lông khổng tước, cao chừng bốn lóng tay, nếu đặt chân xuống thì cỏ liền nằm rạp xuống, cất bước lên thì cỏ trở lại như cũ. Hoa Chiêm bác ca, hoa Duyệt ý v.v... và các thứ cỏ mềm mọc đều khắp rất xinh đẹp. Thời tiết chẳng nóng chẳng lạnh, bốn mùa điều hòa. Đất bằng ngọc báu lưu ly.

Tâm tánh của các hữu tình cõi ấy ôn hòa hiền thiện. Ba độc phiền não bị chế phục nên không còn hiện hành. Hàng Thanh văn đệ tử của chư Phật Thế Tôn kia tới số một vạn hai ngàn muôn ức. Hàng đệ tử Bồ Tát có sáu mươi hai ức. Con người lúc đó tuổi thọ tới ba mươi sáu muôn năm, không có người chết yểu.

Cõi ấy có thành tên Vô Cấu Trang Nghiêm. Thành ấy từ Nam đến Bắc dài một trăm hai mươi tám do tuần, từ Đông sang Tây tám mươi do tuần, thành dày mười sáu do tuần. Tường, cửa, lầu đều do bảy báu tạo thành, mười ngàn khu vườn được trang trí nghiêm trang. Mười ngàn thành nhỏ bao vây chung quanh, có bốn khu vườn đầy hoa xinh đẹp với phong cảnh rất vừa ý. Khổng tước nô đùa, bốn mùa vui thích. Có bốn ao lớn, bờ bằng bảy báu, ngang rộng đều bằng nửa do tuần, đường đi và lề đường đều bằng vàng ròng, khắp đáy ao rải toàn cát vàng rất đẹp. Trong ao có nước đủ tám công đúc. Mùi thơm hoa báu xen lẫn. Trong đó có các vịt trời, chim nhạn, chim uyên ương tụ lại nhảy nhót vui vẻ. Bờ ao có nhiều cây: Bạch đàn, Xích đàn, Thi lợi sa v.v... Trên cây có chim Oanh vũ, Xá lợi bay nhảy vui chơi.

Cõi đó có vua Chuyển luân tên là Trị Thế, đầy đủ bảy báu, làm vua bốn đại châu, đã từng cúng dường vô lượng chư Phật. Ở chỗ chư Phật gieo trồng căn lành sâu nặng, có tâm đại Bồ đề Bất thối chuyển. Quyến thuộc nội cung bảy mươi ngàn người, thân hình xinh đẹp, là ngọc nữ dâng thờ nhà vua, đều phát tâm quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vua Chuyển luân ấy có đủ ngàn con, sức lực dõng mãnh tráng kiện, đủ hai mươi tám tướng đại trượng phu, có thể chinh phục oán địch, cũng phát tâm quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Bấy giờ, Công Đức Bảo Vương Như Lai đem các Thanh văn và chúng Bồ Tát, cùng với vô lượng trời, rồng, Dược xoa, Kiện đạt phược, A tu la, Yết lộ trà, Khẩn nại lạc, Mạt hô lạc già, người chẳng phải người v.v… lần lượt trước sau đi vào thành Vô Cấu Trang Nghiêm. Khi ấy, vua Chuyển luân với xe bảy báu dẫn đầu cùng với một ngàn người con và quyến thuộc trong nội cung ra thành nghinh rước, kính lễ thỉnh vào, thiết bày các thứ tuyệt diệu cúng dường.

Thế Tôn và các quyến thuộc thọ dụng đồ cúng dường xong trở về bổn xứ. Luân vương Trị Thế xuất thành cung kính đưa tiễn rồi trở về cung. Lúc ấy, bỗng nhiên vua Chuyển luân tự than:

- Thân người vô thường, giàu sang như chiêm bao, may mắn được đầy đủ các căn mà chánh tín còn khó khăn, vậy huống chi được gặp Như Lai, được nghe giáo pháp nhiệm mầu, thật là điều hiếm có, như thấy được hoa Ưu đàm vậy!

Khi ấy, ngàn người con của vua biết ý phụ vương ngưỡng mộ Thế Tôn muốn nghe chánh pháp, liền kiến tạo đài đẹp rộng lớn bằng gỗ Ngưu đầu chiên đàn, trang nghiêm bằng bảy báu. Đài này từ Nam chí Bắc dài mười ba do tuần, từ Đông sang Tây rộng mười do tuần. Trụ lớn bốn góc trang nghiêm bằng các thứ trân bảo. Phía dưới đài có ngàn bánh xe báu (đài làm như cỗ xe có ngàn bánh). Sau khi hoàn tất dâng lên vua cha. Vua cha nhận rồi ban lời khen:

- Hay thay! Hay thay! Rất hiểu ý ta. Ta muốn đến chỗ Phật để nghe chánh pháp.

Ngàn người con lại dựng tòa Sư tử để trong đài, an trí chỗ Phụ vương ngự, sai khiến cho các cung nhân hầu cận trước sau. Quanh đài có các chuông vàng rất đẹp thòng xuống, rèm treo, phan lọng, lưới che bằng bảy báu, lại rải các thứ hương hoa quý lạ, đốt hương vô giá, xoa dầu thơm. Khi ấy, ngàn vị vương tử, mỗi vị khiêng một bánh xe, giống thiên nga chúa bay bổng lên hư không đến chỗ Phật, nhẹ nhàng để xuống đất và đi đến chỗ Như Lai. Đến nơi đảnh lễ chân Thế Tôn, nhiễu bên phải bảy vòng rồi lui đứng một bên. Khi ấy, các quyến thuộc trong nội cung của vua Chuyển luân kia theo sau phía dưới đài. Vua cất mão ngọc và các quyến thuộc nội cung đều cởi giày dép ngọc, đến trước chỗ Phật đảnh lễ sát chân Phật, đi nhiễu quanh Phật bảy vòng bên phải, lui ngồi một phía.

Khi ấy, Công Đức Bảo Vương Như Lai bảo Trị Thế:

- Đại vương! Hôm nay vì nghe chánh pháp mà Ngài đến đây?

 

(Những gì được gọi là Chánh pháp?)

 

Vua Chuyển luân từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa sang y phục thưa:

- Bạch Thế Tôn! Những gì gọi là được nghe chánh pháp?

Phật khen vua:

- Lành thay! Lành thay! Hôm nay Ngài muốn cho chúng trời người được lợi ích an vui, nên muốn nghe chánh pháp thâm sâu. Vậy lắng nghe cho kỹ, suy nghĩ thật rốt ráo. Ta sẽ phân biệt giải nói cho Đại vương.

Trị Thế bạch Phật:

- Xin Thế Tôn cứ nói. Con rất muốn nghe.

Thế Tôn bảo vua:

- Đại vương nên biết! Các đại Bồ Tát hành sâu phương tiện thiện xảo của Bát nhã Ba la mật đã đạt được tánh bình đẳng của tất cả pháp, gọi là chánh pháp. Bao gồm: Bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy giác chi, tám Thánh đạo, không, vô tướng, vô nguyện v.v..., đạt được tất cả pháp tánh bình đẳng nên gọi là chánh pháp.

Trị Thế lại thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vì sao các đại Bồ Tát hành phương tiện thiện xảo của Bát Nhã thâm sâu, ở trong Đại thừa thường được thăng tiến chẳng có thối lui?

Phật bảo Trị Thế:

- Đại vương nên biết! Các đại Bồ Tát hành phương tiện thiện xảo của Bát Nhã thâm sâu, nhờ sức chánh tín mà được thăng tiến. Chánh tín là gì? Là biết các pháp bản tánh vắng lặng, chẳng sanh chẳng diệt. Thường được thân cận với những người tu hành chân chánh, pháp nào không nên làm thì kiên quyết không làm. Tâm lìa tán loạn, nghe nhận chánh pháp, chẳng thấy người kia nói, chẳng thấy ta nghe, siêng năng tu tập chánh hạnh, mau đắc thần thông. Những loài hữu tình nào kham lãnh được, thì ta có thể giáo hóa, nhưng không bao giờ thấy ta có thần thông có thể giáo hóa hữu tình và hữu tình kia đã nhận sự giáo hóa của ta. Vì sao? Vì các đại Bồ Tát khi hành phương tiện thiện xảo của Bát Nhã thâm sâu hoàn toàn chẳng thấy ta, chẳng thấy hữu tình, hai bên bình đẳng thì được thăng tiến không thối lui.

Đại vương nên biết! Các đại Bồ Tát hành phương tiện thiện xảo của Bát Nhã thâm sâu, hộ trì các căn, chẳng để chấp trước, đối với đồ vật giúp cho sự sống luôn khởi tưởng vô thường, biết các pháp vắng lặng, thân mạng như vay mượn tạm có.

Đại vương nên biết! Các Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật như vậy, ở trong Đại thừa tâm không buông lung.

Đại vương nên biết! Các đại Bồ Tát hành phương tiện thiện xảo của Bát Nhã thâm sâu, thậm chí trong giấc mộng còn chẳng quên mất tâm Bồ đề, giáo hóa các hữu tình khiến họ tu Phật đạo, đem các căn lành ban cho loài hữu tình để hồi hướng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, thấy được thần lực của Phật, vui mừng khen ngợi.

Đại vương nên biết! Bồ Tát hành phương tiện thiện xảo của Bát Nhã thâm sâu như vậy sẽ mau thành quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Thế nên đại vương phải siêng năng tinh tấn trụ ở ngôi tôn quý, chớ sanh buông lung. Đại Bồ Tát nào muốn cầu chánh pháp thì chớ đắm ngũ dục. Vì sao? Vì tất cả phàm phu không nhàm chán dục lạc, còn bậc đạt Thánh trí thì có thể từ bỏ được. Vì thân người vô thường, thọ mạng ngắn ngủi.

Đại vương! Nay nên hiểu cho rốt ráo, chán bỏ thế gian để cầu đạo xuất thế. Đại vương nên đem căn lành đã cúng dường Như Lai, để hồi hướng cho bốn việc:

- Một là tự tại vô tận.

- Hai là chánh pháp vô tận.

- Ba là diệu trí vô tận.

- Bốn là biện tài vô tận.

Bốn việc hồi hướng này cùng Bát Nhã thâm sâu đều vô tận. Đại vương nên biết! Các đại Bồ Tát hành phương tiện thiện xảo của Bát Nhã thâm sâu nên tu trì giới giữ thân, ngữ, ý một cách thanh tịnh. Vì sao? Vì muốn hướng đến văn, tư, tu. Dùng sức phương tiện giáo hóa các hữu tình, dùng sức Bát Nhã phá dẹp các ma, thành tựu nguyện lực, việc làm và lời nói không trái nhau.

Khi vua Chuyển luân nghe Phật thuyết Bát Nhã thâm sâu, vui mừng hớn hở như được điều chưa từng có, tự lấy mão ngọc, cởi chuỗi anh lạc, quỳ thẳng dâng lên cúng dường Như Lai, xả bốn đại châu dâng cúng hết cho Phật, nguyện đem phước này thường tu phạm hạnh, học Bát Nhã thâm sâu, đem tâm quyết định vì loài hữu tình hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Những người cung nữ của vua nghe Phật thuyết pháp đều sanh vui mừng phát tâm Bồ đề, đều cởi áo báu và chuỗi ngọc anh lạc dâng lên cúng cho Công Đức Bảo Vương Như Lai. Vua đem đài báu và tòa Sư Tử dâng lên Phật mà cầu xuất gia. Lúc đó đức Như Lai khen ngợi Trị Thế:

- Vua được như vậy thật quí thay! Những gì làm hôm nay chẳng trái nguyện xưa, nên siêng tu tập bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự và Bát nhã Ba la mật. Chư Phật quá khứ nhờ tu pháp này mà chứng được quả vị Vô thượng Bồ đề. Chư Phật vị lai cũng lại như thế.

Bấy giờ, Trị Thế lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ Tát tu hành bố thí có khác với Bát Nhã thâm sâu không?

Phật bảo:

- Trị Thế! Nếu bố thí không có trí tuệ Ba la mật thì chỉ được gọi tên là bố thí, chẳng phải đến bờ kia. Phải do trí tuệ Ba la mật mới được gọi là bố thí đến bờ bên kia. Tịnh giới, nhẫn nhục, tinh tấn, tịnh lự cũng như vậy. Vì sao? Vì tánh Bát Nhã thâm sâu đều bình đẳng.

Khi đức Phật thuyết pháp thậm thâm này, vua liền chứng được Vô sanh pháp nhẫn.

Phật bảo Tối Thắng:

- Thiên vương nên biết! Các đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật, phải như vua siêng cầu chánh pháp kia. Vua Chuyển luân khi ấy là Phật Nhiên Đăng, còn ngàn con kia chính là ngàn Phật thời Hiền kiếp.

 

(Làm thế nào Bồ Tát hành sâu Bát Nhã mau thành đạo Bồ đề?)

 

Tối Thắng bèn thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Làm thế nào mà các đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật tu hành mau thành đại đạo Bồ đề?

Phật bảo Tối Thắng:

- Thiên vương nên biết! Các đại Bồ Tát hành phương tiện thiện xảo của Bát Nhã thâm sâu, tu tâm từ v.v... không làm tổn hại các hữu tình, siêng năng hành tất cả Ba la mật và bốn nhiếp sự, bốn vô lượng tâm và Bồ đề phần pháp, tu học phương tiện thiện xảo của thần thông, với tất cả pháp lành đều tu viên mãn. Nếu các Bồ Tát tu hành như vậy thì có thể mau thành đạo đại Bồ đề. Đạo Bồ đề ấy gọi là tín tâm, tâm thanh tịnh, tâm xa lìa sự dối gạt, tâm tu hành bình đẳng, tâm thí vô úy, giúp các hữu tình hoàn toàn gần gũi, siêng tu hành bố thí thì quả báo sẽ vô tận. Thọ trì tịnh giới mà không có sự chướng ngại. Tu hành an nhẫn xa lìa các sự giận dữ, siêng năng tinh tấn thêm thì sự tu hành dễ thành tựu, có tịnh lự thù thắng chẳng khởi tán loạn, đầy đủ Bát Nhã sẽ thông suốt hoàn toàn. Có đại từ nên làm lợi ích hữu tình. Có đại bi nên quyết không thối chuyển. Có đại hỷ nên thường làm vui lòng người khác. Có đại xả nên không khởi lên sự phân biệt. Không còn ba độc nên lìa các chông gai. Chẳng đắm sắc, thanh, hương, vị, xúc cho nên diệt trừ hý luận. Không có phiền não nên xa lìa thù oán. Xả bỏ niệm của nhị thừa nên tâm rộng lớn. Đủ Nhất thiết trí nên thường xuất ra nhiều thứ báu.

Thiên vương nên biết! Các đại Bồ Tát hành phương tiện thiện xảo của Bát Nhã thâm sâu, tu hành như vậy thì có thể mau thành tựu đạo đại Bồ đề.

 

(Bồ Tát hóa hiện hình tướng nào để hóa độ chúng sanh?)

 

Tối Thắng lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật, hiện ra hình tướng nào để giáo hóa loài hữu tình?

Phật bảo Tối Thắng:

- Thiên vương nên biết! Các đại Bồ Tát hành phương tiện thiện xảo của Bát Nhã thâm sâu, hiện ra hình tướng không nhất định. Vì sao? Vì tùy theo sự ưa thích, Bồ Tát liền hiện ra hình tướng như vậy. Hoặc hiện ra màu vàng ròng, hoặc hiện ra màu bạc, hoặc hiện ra màu pha lê, hoặc hiện ra màu lưu ly, hoặc hiện màu thạch tàng (chử tàng – mã não), hoặc hiện màu chơn châu, hoặc hiện màu xanh, vàng, đỏ, trắng, hoặc hiện màu ngọn lửa, mặt trời, mặt trăng, hoặc hiện màu Đế Thích, hoặc hiện màu Phạm vương, hoặc hiện màu sương tuyết, hoặc hiện màu thư hoàng (khoáng chất), hoặc hiện màu châu đan, hoặc hiện màu mưa hoa, hoặc hiện màu hoa Chiêm bác ca (cây hoa sắc vàng ròng), hoặc hiện màu hoa Tô mạt na (hoa màu vàng trắng), hoặc hiện màu hoa sen xanh, hoặc hiện màu hoa sen vàng, đỏ, hoặc hoa sen trắng, hoặc hiện màu trời Công đức, hoặc hiện màu con thiên nga, con công, hoặc hiện màu ngọc san hô, hoặc hiện màu châu như ý, hoặc hiện màu cõi hư không; tùy theo màu của trời, người đều hiện ra theo loại ấy.

Thiên vương nên biết! Đại Bồ Tát này đều có thể thị hiện tùy theo sắc màu, hình tướng sai khác của tất cả hữu tình trong hằng hà sa số thế giới khắp mười phương. Vì sao? Vì đại Bồ Tát này hành phương tiện thiện xảo của Bát Nhã thâm sâu có thể nhiếp hóa khắp tất cả hữu tình, cho đến chẳng rời bỏ tất cả hữu tình. Vì sao? Vì tâm hành của tất cả hữu tình khác nhau. Thế nên Bồ Tát thị hiện nhiều thứ. Vì sao? Vì đại Bồ Tát này ở đời quá khứ có nguyện lực lớn, tùy theo các hữu tình ưa thấy thọ hóa liền thị hiện thân mà họ muốn thấy, như trong gương sáng vốn không có ảnh tượng nhưng tùy theo thể chất tốt xấu đều hiện tất cả. Nhưng gương sáng này cũng không có phân biệt: Thể thanh tịnh sáng suốt của ta hay hiện ra sắc tướng của chúng sinh. Như vậy, Bồ Tát hành phương tiện thiện xảo của Bát Nhã thâm sâu không có tâm phân biệt, tùy sự ưa muốn mà thị hiện, cũng chẳng phân biệt ta có thể hiện thân.

Thiên vương nên biết! Các đại Bồ Tát hành phương tiện thiện xảo của Bát Nhã thâm sâu, tùy theo Thánh chúng ở trong chỗ ngồi, tâm họ ưa thích được thấy thân nào thuyết pháp, thì Bồ Tát hiện ngay thân ấy. Nghĩa là hoặc thấy Phật, hoặc thấy Bồ Tát, hoặc thấy Độc giác, hoặc thấy Thanh văn, hoặc thấy Phạm vương, hoặc thấy Đế Thích, hoặc thấy Đại Tự Tại, hoặc thấy Tỳ sắc noa, hoặc thấy Hộ Thế, hoặc thấy Luân vương, hoặc thấy Sa môn, hoặc thấy dị đạo, hoặc thấy Bà la môn, hoặc thấy Sát đế lợi, hoặc thấy Phệ xá (giai cấp thứ ba trong xã hội Ấn), hoặc thấy Thủ đà la (giai cấp thấp hèn nhất trong xã hội Ấn), hoặc thấy trưởng giả, hoặc thấy cư sĩ, hoặc thấy ngồi trong đài báu, hoặc thấy ngồi trên hoa sen, hoặc thấy tại đất, hoặc thấy bay trên hư không, hoặc thấy thuyết pháp, hoặc thấy thiền định.

Thiên vương nên biết! Đại Bồ Tát này tu hành phương tiện thiện xảo của Bát Nhã thâm sâu, vì cứu độ hữu tình nên không một kiểu hình nào và không một oai nghi nào mà không thể hiện được.

 

(Hư không và Bát Nhã)

 

Bát Nhã thâm sâu giống như hư không, không hình, không tướng, khắp mười phương thế giới không chỗ nào không có.

Lại như hư không lìa các hý luận. Bát Nhã thâm sâu cũng lại như vậy, vượt qua ngôn ngữ.

Lại như hư không cần cho đời sống, với Bát Nhã thâm sâu cũng vậy, tất cả Thánh phàm đều chung thọ dụng.

Lại như hư không xa lìa phân biệt. Bát Nhã thâm sâu cũng lại như vậy, không có tâm phân biệt.

Lại như hư không dung chứa các sắc. Bát nhã Ba la mật cũng dung chứa được tất cả Phật pháp.

Lại như hư không thường hiện sắc. Bát Nhã thâm sâu cũng thường hiện ra tất cả Phật pháp.

Lại như hư không tất cả cỏ cây, thuốc thang hoa quả đều nương vào đó mà tăng trưởng. Cũng vậy, tất cả căn lành đều dựa vào Bát Nhã thâm sâu mà tăng trưởng.

Lại như hư không chẳng phải thường, chẳng phải đoạn, chẳng phải pháp để nói năng. Bát Nhã thâm sâu cũng lại như vậy, chẳng phải thường, chẳng phải đoạn, lìa các ngôn ngữ. Thế gian Sa môn, Bà la môn v.v... cho đến Đế Thích, Phạm Thiên chẳng thể nghĩ lường Bát Nhã thâm sâu được.

Thiên vương nên biết! Bát Nhã thâm sâu không có một pháp nào có thể làm ví dụ được. Nếu các thiện nam, thiện nữ v.v... tin thọ Bát nhã Ba la mật thì công đức đạt được không thể nghĩ bàn. Nếu công đức này có hình sắc thì cõi hư không chẳng chứa hết được. Vì sao? Vì Bát Nhã thâm sâu sanh ra tất cả thiện pháp thế gian và xuất thế gian. Tất cả chúng trời, người, hoặc vua trời người, bốn hướng, bốn quả và các Độc giác, thập địa Bồ Tát, quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật, Nhất thiết chủng trí, lực vô sở úy, và mười tám pháp Phật bất cộng v.v... đều hoàn toàn dựa vào Bát Nhã thâm sâu mà thành tựu.

Khi thuyết pháp này, năm vạn Bồ Tát chứng được Bất thối chuyển. Một vạn năm ngàn chúng thiên tử được Vô sanh pháp nhẫn. Một vạn hai ngàn chúng trời, người xa lìa trần cấu sanh pháp nhãn thanh tịnh. Hằng hà sa số loài hữu tình phát tâm quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Trên hư không, chư Thiên trổi các kỹ nhạc và rải các thứ hương hoa đẹp của cõi trời để cúng dường Như Lai và Bát Nhã thâm sâu này. Lại có vô lượng trời, rồng, Dược xoa, Kiện đạt phược, A tu la, Yết lộ trà, Khẩn nại lạc, Mạt hô lạc già, người chẳng phải người v.v... cũng rải các thứ hoa và những vật báu cúng dường Như Lai và Bát Nhã thậm thâm. Khi đó, trời rồng và những chúng khác chấp tay cung kính đồng thanh cất tiếng khen ngợi Phật:

- Hay thay! Hay thay! Thế Tôn đã hoan hỷ thuyết Bát Nhã thâm sâu như vậy.

 

Thích nghĩa:

(1). Phệ xá: Giai cấp thứ ba trong xã hội Ấn độ khi xưa, tức giai cấp thương gia, công nhân, nông dân. Đã thích nghĩa ở phần thứ I, Tổng luận. 

 

Sơ giải:

 

Phật Thế Tôn thuật cho Thắng Thiên Vương và chúng hội nghe câu chuyện của một vì vua Chuyển luân có tên là Trị Thế, nhân cúng dường Công Đức Bảo Vương Như Lai tại thành Vô cấu mới được nghe pháp, nên hiểu ra rằng cuộc đời là vô thường, giàu sang phú quý chẳng khác chiêm bao, may mắn được đầy đủ các căn mà chánh tín còn khó tìm, huống chi gặp Như Lai được nghe chánh pháp, thật là điều hiếm có!

 Một ngàn người con của vua thầm hiểu ý cha nên lập một đài lớn bằng bảy báu như một cỗ xe có ngàn bánh, rồi đưa phụ vương đến gặp Công đức Bảo Vương Như Lai để nghe chánh pháp. Sau khi lễ lạy ra mắt xong, Thế Tôn mới giải thích “thế nào là chánh pháp”, lại khuyên “nên siêng tu tập bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự và Bát nhã Ba la mật, để trở thành Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề”. Sau khi nghe pháp xong, thì Chuyển vương Trị Thế đắc Vô sanh pháp nhẫn.

Sau khi kể xong câu chuyện trên, Phật (Thích Ca) bảo Tối Thắng Thiên vương:

- “Thiên vương nên biết! Các đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật, phải như vua siêng cầu chánh pháp kia. Vua Chuyển luân khi ấy là Phật Nhiên Đăng, còn ngàn con kia chính là ngàn Phật thời Hiền kiếp”.

 

Đó là câu chuyện “làm màu”, buổi thuyết pháp của Phật Thích Ca mâu ni cho Thắng Thiên Vương về phẩm “Chứng Khuyến” này.

Lúc ấy, Tối Thắng bèn thưa Phật:

- “Bạch Thế Tôn! Làm thế nào mà các đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật tu hành mau thành đại đạo Bồ đề?

Phật bảo Tối Thắng:

- Thiên vương nên biết! Các đại Bồ Tát hành phương tiện thiện xảo của Bát Nhã thâm sâu, tu tâm từ v.v... không làm tổn hại các hữu tình, siêng năng hành tất cả Ba la mật và bốn nhiếp sự, bốn vô lượng tâm và Bồ đề phần pháp, tu học phương tiện thiện xảo của thần thông, với tất cả pháp lành đều tu viên mãn. Nếu các Bồ Tát tu hành như vậy thì có thể mau thành đạo đại Bồ đề. Đạo Bồ đề ấy gọi là tín tâm, tâm thanh tịnh, tâm xa lìa sự dối gạt, tâm tu hành bình đẳng, tâm thí vô úy, giúp các hữu tình hoàn toàn gần gũi, siêng tu hành bố thí thì phước báo sẽ vô tận. Thọ trì tịnh giới mà không có sự chướng ngại. Tu hành an nhẫn xa lìa các sự giận dữ, siêng năng tinh tấn thêm thì sự tu hành dễ thành tựu, có tịnh lự thù thắng chẳng khởi tán loạn, đầy đủ Bát Nhã sẽ thông suốt hoàn toàn. Có đại từ nên làm lợi ích hữu tình. Có đại bi nên quyết không thối chuyển. Có đại hỷ nên thường làm vui lòng người khác. Có đại xả nên không khởi lên sự phân biệt. Không còn ba độc nên lìa gai gốc. Chẳng đắm sắc, thanh, hương, vị, xúc cho nên diệt trừ được hý luận. Không có phiền não nên xa lìa thù oán. Xả bỏ niệm của nhị thừa nên tâm rộng lớn. Đủ Nhất thiết trí nên thường xuất ra nhiều thứ báu.

Thiên vương nên biết! Các đại Bồ Tát hành phương tiện thiện xảo của Bát Nhã thâm sâu, tu hành như vậy thì có thể mau thành tựu đạo Bồ đề”.

Đạt đạo Bồ đề cũng chẳng có gì khác không ngoài tu các thiện pháp, các pháp mầu Phật đạo nhất là tu lục Ba la mật. Nghiêm trì các thiện pháp và sáu pháp đáo bỉ ngạn này thì Giác ngộ, được Nhất Thiết trí trí và trở thành Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề nên gọi là chứng; đó là lời khuyên răn chân thật của tất cả chư Phật ba đời, nên gọi là khuyến. Ý nghĩa của phẩm này có tên “Chứng Khuyến” là vậy! Giản dị và thiết thực thế thôi!

Ai đọc cũng có hiểu không cần dong dài./.

 

---o0o---

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/06/2021(Xem: 22144)
LUẬN VỀ CON ĐƯỜNG GIẢI THOÁT - Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn. Thứ tự Kinh văn số 1648. Hán văn từ trang 399 đến trang 461 gồm có 12 quyển. - Ngài A La Hán Ưu Ba Đề Sa (Uptissa) còn gọi là Đại Quang tạo luận nầy và vào đời nhà Lương được Ngài Tam Tạng Tăng Già Bà La (Samghaphala) nước Phù Nam dịch từ chữ Phạn sang chữ Hán. - Sa Môn Thích Như Điển, Phương Trượng chùa Viên Giác, Hannover, Đức Quốc, dịch từ chữ Hán sang tiếng Việt tại Tu Viện Đa Bảo, Úc Đại Lợi nhân lần nhập thất thứ ba tại đây. Bắt đầu dịch luận nầy vào ngày 10 tháng 12 năm 2005.
07/06/2021(Xem: 14028)
Trong mùa an cư kiết hạ năm nay (1984), sau khi đã viết xong quyển "Lễ Nhạc Phật Giáo“, tôi định dịch quyển luận "Đại Thừa Khởi Tín" từ Đại Tạng Kinh, cùng với quý Thầy khác, nhưng không thực hiện được ý định đó. Vì quý Thầy bận nhiều Phật sự phải đi xa. Do đó, tôi đình chỉ việc dịch trên. Sở dĩ như thế, vì tôi nghĩ, tài mình còn non, sức còn kém; đem ý thô sơ, tâm vụng dịch lời kinh Phật chỉ một mình làm sao tránh được những lỗi lầm, thiếu sót. Nếu có nhiều Thầy dịch cùng một lúc, văn ý trong sáng mà lại bổ khuyết cho nhau chỗ thừa, nơi thiếu thì hay hơn; thôi đành phải chờ dịp khác vậy.
07/06/2021(Xem: 14512)
LỜI NÓI ĐẦU Hôm nay là ngày 1 tháng 8 năm 2020, nhằm ngày 12 tháng 6 âm lịch năm Canh Tý, Phật lịch 2564, Phật Đản lần thứ 2644, tại thư phòng Tổ Đình Viên Giác, Hannover, Đức Quốc, tôi bắt đầu viết tác phẩm thứ 68. Hôm nay cũng là ngày có nhiệt độ cao nhất, 32 độ C, trong mùa dịch Covid-19 đang lan truyền khắp nơi trên thế giới. Sau hơn 5 tháng ròng rã, tôi đã đọc qua 8 tập kinh Việt dịch trong Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh, từ tập 195 đến tập 202, thuộc Bộ Sự Vị, được dịch từ 2 tập 53 và 54 của Đại Chánh Tạng.1 Nguyên văn chữ Hán 2 tập này gồm 2.260 trang.2 Bản dịch sang tiếng Việt của 2 tập này là 15.781 trang, chia thành 8 tập như đã nói trên. Như vậy, trung bình cứ mỗi trang chữ Hán dịch ra tiếng Việt khoảng 7 trang.
25/05/2021(Xem: 9217)
Đã nhiều năm rồi, Phật Tử Việt Nam cử hành đại lễ trong niềm hân hoan tự hào về một ngày lễ Vesak trọng đại được xưng danh một cách trang trọng là "Đại Lễ Phật Đản Liên Hiệp Quốc." Phật giáo là một trong bốn tôn giáo lớn của nhân loại. Con số Phật Tử dù vậy cũng chỉ khoảng 400-600 triệu. Với con số khiêm nhường đó, tiếng nói của Phật giáo không có ảnh hưởng gì đáng kể trong các quyết định của Liên Hiệp Quốc về vận mạng của các dân tộc trên thế giới. Phật Tử Việt Nam chính thức đón nhận "Đại Lễ Phật Đản Liên Hiệp Quốc" từ năm 2008. Từ đó đến nay, những phát biểu bởi các đại biểu từ nhiều nước tán dương Đức Phật quả là quá nhiều, nhưng chưa có bất cứ đóng góp thiết thực đáng kể nào cho khát vọng hòa bình của nhiều dân tộc bị áp bức, bóc lột bởi chính quyền của nước mình; bị đe dọa bởi tham vọng bá quyền của nước lớn.
20/05/2021(Xem: 12735)
Kinh Đại Bát Nhã có tất cả 600 quyển, gồm 5 triệu chữ trong 25 ngàn câu, là bộ kinh khổng lồ trong tàng kinh cát của Phật Giáo Đại Thừa, do Đức Thế Tôn thuyết giảng trong 22 năm. Pháp Sư Huyền Trang dịch từ tiếng Phạn sang Hán và Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm (1911-2003) dịch từ Hán sang Việt. Lão Cư Sĩ Thiện Bửu đã dành 10 năm lao nhọc, vừa học Kinh vừa viết luận bản này để xiển dương tư tưởng Bát Nhã theo tinh thần truyền bá và lưu thông. Ông đã khiêm tốn tự nhủ rằng, không biết những gì mình viết có phù hợp với tinh thần của bộ Đại Bát Nhã Ba La Mật hay không, nhưng chúng tôi cho rằng việc làm của Lão Cư Sĩ là việc cần làm và thiết thực hữu ích, ông đã giúp tóm tắt ý nghĩa và chiết giải những chỗ chính yếu của Kinh. Có thể nói đây là bản sớ giải đồ sộ thứ hai (trọn bộ 8 tập) về Kinh Đại Bát Nhã, theo sau Đại Trí Độ Luận (5 tập) ở Việt Nam. Xin tán thán công đức của Lão Cư Sĩ đã đặt viên đá đầu tiên, để khuyến khích cho những hành giả khác, cùng phát tâm xây dựng nền mó
07/05/2021(Xem: 21725)
Phật Điển Thông Dụng - Lối Vào Tuệ Giác Phật, BAN BIÊN TẬP BẢN TIẾNG ANH Tổng biên tập: Hòa thượng BRAHMAPUNDIT Biên tập viên: PETER HARVEY BAN PHIÊN DỊCH BẢN TIẾNG VIỆT Chủ biên và hiệu đính: THÍCH NHẬT TỪ Dịch giả tiếng Việt: Thích Viên Minh (chương 11, 12) Thích Đồng Đắc (chương 1, 2) Thích Thanh Lương (chương 8) Thích Ngộ Trí Đức (chương 7) Thích Nữ Diệu Nga (chương 3, 4) Thích Nữ Diệu Như (chương 9) Đặng Thị Hường (giới thiệu tổng quan, chương 6, 10) Lại Viết Thắng (phụ lục) Võ Thị Thúy Vy (chương 5) MỤC LỤC Bảng viết tắt Bối cảnh quyển sách và những người đóng góp Lời giới thiệu của HT Tổng biên tập Lời nói đầu của Chủ biên bản dịch tiếng Việt GIỚI THIỆU TỔNG QUAN Giới thiệu dẫn nhập Giới thiệu về cuộc đời đức Phật lịch sử Giới thiệu về Tăng đoàn: Cộng đồng tâm linh Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Thượng tọa bộ Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Đại thừa Giới thiệu về các đoạn kinhcủa Phật giáo Kim cương thừa PHẦN I: CUỘC ĐỜI ĐỨC
20/04/2021(Xem: 19097)
Kính bạch chư Tôn Đức, Thưa chư Pháp hữu, nhân mùa Phật Đản PL 2565, Viên Giác Tùng Thư Đức Quốc có ấn hành Đặc San Văn Hóa Phật Giáo chủ đề Chuyển hóa Khổ đau để chào mừng ngày Đản Sanh của Đức Từ Phụ Thích Ca Mâu Ni lần thứ 2645. Đặc San năm nay (lần thứ ba) được sự góp mặt của 50 văn thi sĩ và 3 họa sĩ trong và ngoài nước. Chúng tôi kính gởi đến quý Trang Nhà để nhờ phổ biến rộng rãi đến mọi độc giả gần xa. Độc giả muốn mua sách in có thể đặt trực tiếp trên mạng toàn cầu Amazon: https://www.amazon.de/gp/product/1716272939/ref=dbs_a_def_rwt_bibl_vppi_i7 Nam Mô Thích Ca Mâu Ni Phật Kính Mail Nhóm Chủ Biên Phù Vân - Nguyên Đạo - Nguyên Minh
19/04/2021(Xem: 11423)
Phật Điển Phổ Thông DẪN VÀO TUỆ GIÁC PHẬT Common Buddhist Text: Guidance and Insight from theBuddha. Copyright by Mahachulalongkorn-rajavidyalaya (MCU). Chủ biên bản Việt ngữ: LÊ MẠNH THÁT - TUỆ SỸ Ban biên dịch: Thích Hạnh Viên, Thích Nữ Khánh Năng, Thích Thanh Hòa, Pháp Hiền Cư sỹ, Nguyễn Quốc Bình. Dịch Việt và Ấn hành với Hợp đồng chuyển nhượng bản quyền của Viện Đại Học Mahachulalongkorn-rajavidyalaya (MCU), Thái-lan, 2018. Nhà xuất bản Hồng Đức, 2019. Hương Tích ấn hành.
31/03/2021(Xem: 14301)
Sách này sẽ được ghi theo hình thức biên niên sử, về các sự kiện từ ngày 8/5/1963 cho tới vài ngày sau cuộc chính biến 1/11/1963, nhìn từ phía chính phủ Hoa Kỳ. Phần lược sử viết theo nhiều tài liệu, trong đó phần chính là dựa vào tài liệu Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ “Foreign Relations of the United States 1961-1963”, một số tài liệu CIA lưu giữ ở Bộ Ngoại Giao, và một phần trong sách “The Pentagon Papers” của Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ, ấn bản Gravel Edition (Boston: Beacon Press, 1971). Vì giờ tại Việt Nam và Hoa Kỳ cách biệt nhau, cho nên đôi khi ghi ngày sai biệt nhau một ngày.
24/03/2021(Xem: 9302)
Kính Pháp Sư Hiền Đức, tôi là một tu sĩ đạo hiệu Thích Thắng Hoan có vài lời tâm niệm gởi đến Pháp Sư, một hôm tôi đến chùa Trung Hoa, tại Mỹ Quốc, tìm xin một số sách Phật đem về đọc để giải trí trong lúc tuổi già (đã 94 tuổi), hai người trong chùa mang ra cho tôi một thùng giấy cho tôi chọn lựa, họ nói đây là những sách cho không ông cứ tự nhiên, trong khi tìm kiếm, bổng nhiên tôi gặp một quyển sách nhan đề là “Phật Giáo Dữ Nhân Sanh, liền mở ra đọc tổng quát tại chỗ về mục lục và lướt qua tiểu sử của tác giả liền tò mò xin về đọc.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]