Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

30. Phẩm “Bảo Tháp” (Biên soạn: Lão Cư Sĩ Thiện Bửu; Diễn đọc: Phật tử Quảng Tịnh; Lồng nhạc: Phật tử Quảng Phước)

15/08/202009:41(Xem: 8347)
30. Phẩm “Bảo Tháp” (Biên soạn: Lão Cư Sĩ Thiện Bửu; Diễn đọc: Phật tử Quảng Tịnh; Lồng nhạc: Phật tử Quảng Phước)

 TỔNG LUẬN
 KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***
buddha-416

PHẨM “BẢO THÁP”

Phần cuối quyển 428, Hội thứ II.

(Tương đương với Đoạn một, phẩm "So Lường Công Đức",

từ quyển 103 đến Q.104, Hội thứ I, ĐBN)



Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Tịnh, Cư sĩ Quảng Thiện Duyên
Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Phước, Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le

 

 

 

 

Gợi ý:

Phẩm “So Lường Công Đức” của ĐBN là một phẩm dài (từ quyển 103 cho đến đầu quyển 168, tổng cộng 66 quyển). Nếu so chiếu phẩm này của Kinh ĐBN với Kinh MHBNBLMĐ thì phẩm “So Lường Công Đức” bằng với 8 phẩm: Phẩm “Bửu Tháp Đại Minh”, phẩm “Thuật Thành”, phẩm “Khuyến Trì”, phẩm “Khiển Trừ Ma Ngoại”, phẩm “Tôn Đạo”, phẩm “Xá Lợi”, phẩm “Pháp Thí” (phần trên), phẩm “Tương Tợ” (phần dưới) của Kinh MHBNBLMĐ gộp lại.

Vì, Hội thứ II không thích nghĩa cũng như không chiết giải nhiều, nên trên đầu mỗi phẩm tựa của Kinh ĐBN thuộc Hội thứ II này, chúng tôi có ghi thêm phẩm tương đương từng đoạn của Kinh ĐBN thuộc Hội thứ I để Quý đọc giả dễ tra cứu hay tham khảo nếu cần.

 

Tóm lược:

 

Bấy giờ, Phật bảo Thiên Đế Thích rằng: Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam, thiện nữ đối với Kinh điển Bát nhã Ba la mật thậm thâm, chăm lòng lóng nghe, thọ trì đọc tụng, tinh siêng tu học, suy nghĩ đúng lý, thơ tả giải nói, rộng khắp lưu bố. Các thiện nam thiện nữ này, thân thường yên ổn, tâm hằng vui vẻ, chẳng bị tất cả tai hoạnh não hại.

Nếu các thiện nam thiện nữ này, hoặc ở quân ngũ khi phải xáp trận, chăm lòng tụng niệm Bát nhã Ba la mật, sẽ được các hữu tình từ bi giúp đỡ, chẳng bị dao gậy làm thương tổn; kẻ oán địch đều khởi từ tâm, nếu họ khởi ác tâm thì tự nhiên lui bại. Các thiện nam thiện nữ này, nếu ở chiến trận bị đao tên làm thương tổn cho đến mất mạng, quyết không có lẽ ấy. Vì sao? Vì các thiện nam, thiện nữ này đem vô sở đắc mà làm phương tiện, đã từ lâu (1) tu tập bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật. Tự có khả năng hàng phục dao gậy tham dục, cũng có khả năng trừ dao gậy tham dục cho người. Tự có khả năng hàng phục dao gậy giận dữ, cũng có khả năng trừ dao gậy giận dữ cho người. Tự có khả năng hàng phục dao gậy ngu si, cũng năng trừ dao gậy ngu si cho người. Tự có khả năng hàng phục dao gậy kiêu mạn, cũng năng trừ dao gậy kiêu mạn cho người. Tự có khả năng hàng phục dao gậy ác kiến, cũng năng trừ dao gậy ác kiến cho người. Tự có khả năng hàng phục dao gậy tùy miên, cũng năng trừ dao gậy tùy miên cho người. Tự có khả năng hàng phục dao gậy triền cấu, cũng có khả năng trừ dao gậy triền cấu cho người. Tự có khả năng hàng phục dao gậy ác nghiệp, cũng năng trừ dao gậy ác nghiệp cho người.

Kiều Thi Ca! Do nhân duyên đây nên các thiện nam thiện nữ này, nếu vào quân trận chẳng bị dao gậy làm thương tổn, sát hại. Đối kẻ oán địch đều khởi từ tâm, nếu khởi ác tâm tự nhiên lui bại. Các thiện nam, thiện nữ này chăm lòng tụng niệm Bát nhã Ba la mật thậm thâm vì sức oai thần, nếu ở quân trận đao tên làm thương tổn đến mất mạng quyết không có lẽ ấy.

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam, thiện nữ chẳng lìa tâm Nhất thiết trí trí, đem vô sở đắc mà làm phương tiện, thường đối Bát nhã Ba la mật thậm thâm như thế, chăm lòng lng nghe, thọ trì đọc tụng, tinh siêng tu học, suy nghĩ đúng lý, cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen, thơ tả giải nói, rộng khiến lưu bố. Các thiện nam thiện nữ này, tất cả độc dược, đồng cốt, quỷ mỵ, bùa ếm, chú thuật đều chẳng hại được; nước chẳng thể nhận chìm, lửa chẳng thể đốt cháy, dao gậy, ác thú, oán tặc, ác thần, chúng tà, vọng lượng, chẳng thể tổn hại được. Vì sao? Vì Bát nhã Ba la mật như thế là Đại thần chú. Bát nhã Ba la mật như thế là Đại minh chú, là Vô thượng chú, Vô đẳng đẳng chú, Vua tất cả chú. Rất thượng rất diệu, không gì bì kịp, đủ đại uy lực, năng dẹp tất cả, mà chẳng bị tất cả đè dẹp. Các thiện nam thiện nữ này tinh siêng tu học Chú vương như thế, chẳng bị hại, chẳng hại người, chẳng hại cả hai. Vì sao? Vì các thiện nam thiện nữ này học Bát nhã Ba la mật đây, rõ thấu mình người đều bất khả đắc vậy.

Kiều Thi Ca! Các thiện nam, thiện nữ này khi học Đại vương Thần chú Bát nhã Ba la mật đây, chẳng đắc ngã, chẳng đắc hữu tình, cho đến chẳng đắc tri giả kiến giả. Chẳng đắc sắc, chẳng đắc thọ tưởng hành thức. Cho đến chẳng đắc Nhất thiết trí, chẳng đắc Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí. Vì đối với tất cả pháp đây đều vô sở đắc, nên chẳng bị hại, chẳng hại người, chẳng hại cả hai.

Kiều Thi Ca! Các thiện nam, thiện nữ này, khi học Đại vương Thần chú Bát Nhã đây, đối với ngã và pháp tuy không nắm bắt nhưng vẫn chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, quán tâm hành sai khác của các hữu tình, tùy nghi chuyển bánh xe pháp Vô thượng, khiến cho họ như thuyết tu hành, đều được lợi ích an vui. Vì sao? Vì chúng Bồ Tát quá khứ đối Đại Vương Thần Chú Bát Nhã đây, tinh siêng tu học, đã chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, quay xe diệu pháp độ vô lượng chúng sanh. Các Bồ Tát vị lai đối Đại Vương Thần Chú Bát Nhã đây, tinh siêng tu học, sẽ chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, quay xe diệu pháp độ vô lượng chúng sanh. Có các Bồ Tát hiện tại mười phương vô biên thế giới, đối Đại Vương Thần Chú Bát Nhã đây, tinh siêng tu học, hiện chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, quay xe diệu pháp độ vô lượng chúng sanh.

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu các các thiện nam thiện nữ đối Bát nhã Ba la mật đây, chăm lòng lóng nghe, thọ trì đọc tụng, tinh siêng tu học, suy nghĩ đúng lý v.v... Các thiện nam, thiện nữ này, tùy ở cõi nước, thành ấp nào, người phi người, chẳng bị tất cả tai hoạnh tật dịch làm tổn hại. Vì sao? Vì các thiện nam, thiện nữ này, tùy ở chỗ nào trong Tam thiên đại thiên thế giới đây và các thế giới mười phương vô biên khác, có bao nhiêu trời Bốn đại vương chúng cho đến trời Sắc cứu cánh và các long thần, A tu la v.v… thường đến thủ hộ cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen, chẳng để Bát nhã Ba la mật bị lưu nạn vậy.

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam, thiện nữ viết Đại Vương Thần Chú Bát Nhã đây, để chỗ thanh tịnh, cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen, tuy không thọ trì đọc tụng, tinh siêng tu học, nhưng quốc ấp vương đô có Thần chú hiện diện, người phi người chẳng bị tất cả tai hoạnh tật dịch làm tổn hại. Vì sao? Vì Đại Vương Thần Chú Bát Nhã như thế tùy ở chỗ nào trong Tam thiên đại thiên thế giới đây và các thế giới mười phương vô biên khác, tất cả trời Bốn đại vương chúng cho đến trời Sắc cứu cánh cùng các long thần, A tu la v.v… thường đến thủ hộ, cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen, chẳng cho Đại Vương Thần Chú Bát Nhã bị lưu nạn vậy.

Kiều Thi Ca! Các thiện nam, thiện nữ này chỉ viết Đại Vương Thần Chú Bát Nhã tôn trí chỗ thanh tịnh, cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen hãy được hiện pháp lợi ích như thế, huống thường lóng nghe, thọ trì đọc tụng, tinh siêng tu học, suy nghĩ đúng lý và vì người phân biệt khai thị giải nói. Phải biết các bậc này công đức vô biên, mau chứng Bồ đề lợi vui tất cả.

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam, thiện nữ bị sợ hãi, oan gia, ác thú, tai hoạnh, bùa ếm, tật dịch, độc dược… nên viết Đại Vương Thần Chú Bát Nhã, tùy nhiều hay ít đựng trong đãy hương, cất giữ trong ống ngọc, hằng đeo theo thân, cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen. Các việc sợ hãi đều tự tiêu trừ, vì được thiên long quỷ thần thường thủ hộ vậy.

Kiều Thi Ca! Ví như có người, hoặc loại bàng sanh lo sợ chạy vào cội Bồ đề, hoặc đến gần cội Bồ đề, người phi người… chẳng thể làm tổn hại được. Vì sao? Vì chư Phật quá khứ vị lai hiện tại đều ngồi nơi đây chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Được Bồ đề rồi, mới bảo vệ hữu tình khỏi bị khủng bố, oán hại. Lại an lập vô lượng vô số hữu tình, khiến trụ diệu hạnh trời người tôn quý. An lập vô lượng vô số hữu tình, khiến trụ diệu hạnh Tam thừa yên vui. An lập vô lượng vô số hữu tình, khiến chứng được hoặc quả Dự lưu cho đến quả A la hán. An lập vô lượng vô số hữu tình, khiến chứng Độc giác Bồ đề, hoặc chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Thắng sự như thế đều do sức uy thần Bồ Tát đã chứng ngộ tại cội Bồ đề. Vậy nên chỗ này tất cả thiên long, A tu la v.v… đều chung thủ hộ cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen.

Phải biết Kinh điển Bát nhã Ba la mật thậm thâm, tùy ở chỗ nào cũng lại như vậy. Tất cả thiên long, A tu la v.v… thường đến thủ hộ, cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen, chẳng để Bát nhã Ba la mật bị lưu nạn.

Kiều Thi Ca! Kinh điển Bát nhã Ba la mật thậm thâm như thế tùy ở chỗ nào, phải biết chỗ ấy tức chơn Chế đa(2). Tất cả hữu tình đều nên kính lễ, phải đem các thứ thượng diệu tràng hoa, hương xoa, hương bột cùng tràng phan lọng báu, các ngọc diệu trân kỳ quý lạ mà cúng dường.

Bấy giờ, Thiên Đế Thích bạch Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Nếu các thiện nam thiện nữ viết Kinh điển Bát nhã Ba la mật đây, đem các thứ trang nghiêm cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen. Lại đem các thứ thượng diệu tràng hoa, hương xoa, hương bột cùng các ngọc diệu trân kỳ quý lạ v.v… cúng dường. Lại có các thiện nam thiện nữ, sau Phật Niết bàn khởi xây Bảo tháp, dùng bảy báu trang nghiêm, đựng Thiết lợi la Phật(3) nơi hòm ngọc lưu gi trong tháp, cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen. Lại đem các thứ thượng diệu tràng hoa, hương xoa, hương bột cùng các ngọc diệu trân kỳ quý lạ v.v… cúng dường. Hai chỗ sanh phước, chỗ nào nhiều hơn?

Phật bảo:

- Kiều Thi Ca! Ta hỏi lại ngươi, tùy ý ngươi đáp. Ý ông nghĩ sao? Như Lai đã được Nhất thiết tướng trí và thân tướng hảo, nương những pháp nào tu học mà được?

Thiên Đế Thích thưa:

- Bạch Thế Tôn! Như Lai đã được Nhất thiết tướng trí và thân tướng hảo, nương Kinh điển Bát nhã Ba la mật thậm thâm đây tu học mà được.

Phật bảo:

- Kiều Thi Ca! Như vậy! Như ngươi đã nói. Ta nương Kinh điển Bát nhã Ba la mật thậm thâm mà tu học, nên được Nhất thiết tướng trí và thân tướng hảo. Vì sao? Kiều Thi Ca! Chẳng học Kinh điển Bát nhã Ba la mật thậm thâm mà chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, không có lẽ ấy. Kiều Thi Ca! Chẳng phải đắc thân tướng hảo nên gọi là Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, mà do chứng được Nhất thiết tướng trí nên gọi là Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác.

Kiều Thi Ca! Như Lai đã được Nhất thiết tướng trí, do Bát nhã Ba la mật làm nhân mà khởi Phật thân tướng hảo chỉ là chỗ nương. Nếu chẳng nương dựa Phật thân tướng hảo, Nhất thiết tướng trí không do đâu mà khởi. Vậy nên Bát nhã Ba la mật chính là nhân khởi Nhất thiết trí trí. Muốn khiến trí này hiện tại nối nhau, nên lại phải tu nhóm Phật thân tướng hảo. Thân tướng hảo đây, nếu chẳng phải biến trí làm chỗ nương, thời tất cả thiên, long, người, phi người chẳng hết lòng thành cúng dường cung kính. Vì thân tướng hảo cùng Phật biến trí làm chỗ nương dựa, nên chư thiên long, thần, người, phi người thảy cúng dường cung kính. Bởi duyên cớ này nên sau Ta Niết bàn, chư thiên long, thần, người, phi người thảy cúng dường cung kính Thiết lợi la của Ta.

Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam, thiện nữ đối Kinh điển Bát nhã Ba la mật thậm thâm cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen, tức là cúng dường Nhất thiết tướng trí và Phật thân tướng hảo, cùng Thiết lợi la sau khi Phật nhập Niết bàn. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Nhất thiết tướng trí và thân tướng hảo cùng Thiết lợi la đều lấy Bát nhã Ba la mật làm căn bản.

Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam thiện nữ chỉ đối Phật thân và Thiết lợi la cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen, thì chẳng phải là cúng dường Nhất thiết tướng trí và Bát nhã Ba la mật đây. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì di thể thân Phật chẳng phải làm căn bản cho Bát nhã Ba la mật và Nhất thiết tướng trí.

Kiều Thi Ca! Do nhân duyên đây, nếu các thiện nam thiện nữ muốn cúng dường Phật hoặc thân hoặc tâm và các công đức khác; trước phải lóng nghe, thọ trì đọc tụng, tinh siêng tu học, suy nghĩ đúng lý, thơ tả, giải nói Kinh điển Bát nhã Ba la mật thậm thâm như thế. Lại đem các phẩm thượng diệu mà cúng dường.

Vì vậy, nếu các thiện nam, thiện nữ viết Kinh điển Bát nhã Ba la mật thậm thâm đây, rồi dùng các thứ trang nghiêm, cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen v.v… Lại có các thiện nam, thiện nữ, sau Phật Niết bàn khởi xây tháp bảy báu, dùng hòm ngọc để lưu giữ Thiết lợi la của Phật trong bảo tháp, cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen, lại đem các phẩm thượng diệu tràng hoa, hương xoa, hương bột, tràng phan, lọng báu, các ngọc diệu trân kỳ quý lạ mà cúng dường. Cả hai đều sanh phước đức, nhưng chỗ trước được nhiều phước đức hơn đến vô lượng bội số. Vì sao? Vì kinh điển Bát nhã Ba la mật thậm thâm như thế thường sanh bố thí Ba la mật cho đến Bát nhã Ba la mật. Thường hiển thị nội không cho đến vô tánh tự tánh không. Thường sanh bốn niệm trụ, nói rộng cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Thường sanh tất cả Tam ma địa, Đà la ni môn. Thường thành xong việc thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật. Thường thành xong Bồ Tát tộc họ viên mãn, thân sắc viên mãn, của cải viên mãn, quyến thuộc viên mãn. Thường thành xong tất cả đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả. Thường thành xong thế gian đại tộc Sát đế lợi, đại tộc Bà la môn, Trưởng giả, Cư sĩ, trời Bốn đại vương chúng cho đến trời Sắc cứu cánh. Thường thành xong trời Không vô biên xứ cho đến trời Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Thường thành xong quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ đề. Thường thành xong Bồ Tát hạnh, chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Thường thành xong vô thượng vô đẳng Nhất thiết tướng trí vậy.

Bấy giờ, Thiên Đế Thích thưa Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Không lẽ người châu Thiệm bộ chẳng biết cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen Kinh điển Bát Nhã thậm thâm thu được nhiều công đức thắng lợi chăng?

Phật bảo:

- Kiều Thi Ca! Ta hỏi lại ngươi, tùy ý đáp. Ý ông nghĩ sao? Trong châu Thiệm bộ có bao nhiêu người thành Phật chứng tịnh, thành Pháp chứng tịnh, thành Tăng chứng tịnh ? Có bao nhiêu người đối Phật không nghi, đối Pháp không nghi, đối Tăng không nghi? Có bao nhiêu người đối Phật rốt ráo, đối Pháp rốt ráo, đối Tăng rốt ráo? Có bao nhiêu người được ba mươi bảy Bồ đề phần pháp? Có bao nhiêu người được ba môn giải thoát? Có bao nhiêu người được tám giải thoát? Có bao nhiêu người được chín định thứ lớp? Có bao nhiêu người được bốn vô ngại giải? Có bao nhiêu người dứt hẳn ba gút được quả Dự lưu? Có bao nhiêu người làm mỏng tham sân si được quả Nhất lai? Có bao nhiêu người dứt năm gút thuận hạ phần được quả Bất hoàn? Có bao nhiêu người dứt năm gút thuận thượng phần được quả A la hán? Có bao nhiêu người phát tâm hướng tới Độc giác Bồ đề? Có bao nhiêu người phát tâm hướng tới chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề?

Thiên Đế Thích thưa:

- Bạch Thế Tôn! Trong châu Thiệm bộ có rất ít người thành Phật chứng tịnh, thành Pháp chứng tịnh, thành Tăng chứng tịnh. Cho đến có rất ít người phát tâm hướng tới chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Bấy giờ, Phật bảo Thiên Đế Thích rằng:

- Như vậy! Như ngươi đã nói. Kiều Thi Ca! Trong châu Thiệm bộ rất ít người thành Phật chứng tịnh, thành Pháp chứng tịnh, thành Tăng chứng tịnh. Càng ít người đối Phật không nghi, đối Pháp không nghi, đối Tăng không nghi. Cho đến lại càng rất ít người phát tâm hướng tới Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Lại càng ít hơn nữa người đã phát tâm rồi, tinh siêng tu tập hạnh tới Bồ đề. Lại càng rất ít hơn nữa người tinh siêng tu tập hạnh Bồ đề rồi, chứng được Vô Thượng Bồ đề. Vì sao? Vì các loại hữu tình trôi lăn sanh tử từ vô lượng kiếp đến nay phần nhiều chẳng thấy Phật, chẳng nghe Chánh pháp, chẳng gần gũi Tăng. Chẳng hành bố thí, chẳng trì tịnh giới, chẳng tu an nhẫn, chẳng khởi tinh tiến, chẳng tập tĩnh lự, chẳng học Bát nhã Ba la mật. Chẳng nghe nội không, chẳng tu nội không, cho đến chẳng nghe vô tánh tự tánh không, chẳng tu vô tánh tự tánh không. Chẳng nghe bốn niệm trụ, chẳng tu bốn niệm trụ. Nói rộng cho đến chẳng nghe mười tám pháp Phật bất cộng. Chẳng nghe tất cả Tam ma địa, Đà la ni môn. Chẳng tu tất cả Tam ma địa, tất cả Đà la ni môn. Chẳng nghe Nhất thiết trí, chẳng tu nhất thiết trí. Chẳng nghe Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí; chẳng tu Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí. (Q.428, ĐBN)

Kiều Thi Ca! Do nhân duyên này, phải biết ở trong châu Thiệm bộ đây rất ít người thành Phật chứng tịnh, thành Pháp chứng tịnh, thành Tăng chứng tịnh. Càng ít người đối Phật không nghi, đối Pháp không nghi, đối Tăng không nghi. Cho đến lại càng ít người phát tâm hướng tới chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Lại càng rất ít người đã phát tâm rồi, tinh siêng tu tập hạnh tới Bồ đề. Lại càng rất ít người hơn nữa tinh siêng tu tập hạnh Bồ đề rồi, chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Ta nay hỏi ngươi, cứ tùy ý ông đáp. Kiều Thi Ca! Ý ông nghĩ sao? Có bao nhiêu hữu tình châu Thiệm bộ trong Tam thiên đại thiên thế giới đây, cúng dường cung kính phụ mẫu, Sư trưởng; có bao nhiêu hữu tình cúng dường cung kính Sa môn, Bà la môn; có bao nhiêu hữu tình bố thí, trì giới, thọ trai, tu phước; có bao nhiêu hữu tình đối với các dục trụ tưởng nhàm ghét, tưởng vô thường, tưởng khổ, tưởng vô ngã, tưởng bất tịnh, tưởng chán ăn, tưởng tất cả thế gian chẳng đáng vui; có bao nhiêu hữu tình tu bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc; có bao nhiêu hữu tình cho đến phát tâm hướng tới Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề; có bao nhiêu hữu tình đã phát tâm rồi, tinh siêng tu tập hạnh tới Bồ đề; có bao nhiêu hữu tình tu luyện trưởng dưỡng tâm tới Bồ đề; có bao nhiêu hữu tình phương tiện khéo léo tu hành Bát Nhã; có bao nhiêu hữu tình được trụ bậc Bồ Tát Bất thối chuyển; có bao nhiêu hữu tình mau chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề?

Thiên Đế Thích thưa:

- Bạch Thế Tôn! Trong Tam thiên đại thiên thế giới đây, ít hữu tình cúng dường cung kính phụ mẫu, Sư trưởng cho đến rất ít hữu tình mau chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Phật bảo:

- Kiều Thi Ca! Như vậy, như vậy. Như ngươi đã nói. Kiều Thi Ca! Trong Tam thiên đại thiên thế giới đây rất ít hữu tình cúng dường cung kính phụ mẫu, Sư trưởng, càng ít hữu tình cúng dường cung kính Sa môn, Bà la môn cho đến lại càng ít hữu tình được trụ bật Bồ Tát Bất thối chuyển, lại càng ít rất hữu tình hơn nữa mau chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Ta đem Phật nhãn thanh tịnh vô thượng, xem khắp mười phương tất cả thế giới, tuy thấy có vô lượng vô số vô biên hữu tình phát tâm hướng tới Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, tinh siêng tu tập hạnh tới Bồ đề, mà bởi xa lìa phương tiện khéo léo Bát nhã Ba la mật, chỉ một, hoặc hai, hoặc ba hữu tình được trụ bậc Bồ Tát Bất thối chuyển, đa số lui đọa trong bậc thấp hèn Thanh văn Độc giác. Vì sao? Vì quả Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề rất khó chứng được. Nên hạng ác tuệ, lười nhác, tinh tấn thắng giải kém cỏi, chẳng thể chứng được.

Kiều Thi Ca! Do nhân duyên này, nếu có thiện nam thiện nữ phát tâm hướng tới Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, tinh siêng tu tập hạnh tới Bồ đề; muốn trụ bậc Bồ Tát Bất thối chuyển mau chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề không lưu nạn, nên đối Bát nhã Ba la mật thậm thâm như thế hằng thường lóng nghe, thọ trì đọc tụng, tinh siêng tu tập, suy nghĩ đúng lý, ham thỉnh hỏi Sư, vui vì người nói. Làm việc này rồi, lại nên thơ tả, dùng các thứ bảo vật trang nghiêm, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen. Lại đem các phẩm thượng diệu tràng hoa, hương xoa, hương bột cùng tràng phan lọng báu v.v… mà cúng dường.

Lại nữa, các thiện nam, thiện nữ này cũng nên lóng nghe, thọ trì đọc tụng, tinh siêng tu tập, suy nghĩ đúng lý, ham thỉnh hỏi pháp sư, vui vì người giảng nói đối với các pháp thắng diệu khác đã thu nhiếp vào Bát nhã Ba la mật thậm thâm.

Sao gọi các pháp thắng thiện thu nhiếp vào Bát nhã Ba la mật? Chỗ gọi bố thí cho đến tĩnh lự Ba la mật; hoặc nội không cho đến vô tánh tự tánh không; hoặc tất cả Tam ma địa, Đà la ni môn; hoặc bốn niệm trụ, nói rộng cho đến mười tám pháp Phật bất cộng; hoặc đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả; hoặc vô lượng vô biên Phật pháp khác. Đấy gọi các thắng thiện pháp nhiếp thọ vào Bát nhã Ba la mật thậm thâm.

Kiều Thi Ca! Các thiện nam thiện nữ này, đối với uẩn, xứ, giới… và vô lượng pháp môn khác tùy thuận Bát nhã Ba la mật thậm thâm, cũng nên lóng nghe, thọ trì đọc tụng, suy nghĩ đúng lý, chẳng nên bài báng, khiến đối với Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề mà lưu nạn. Vì sao? Vì các thiện nam, thiện nữ này nên khởi nghĩ đây: Thuở xưa Như Lai trụ ngôi Bồ Tát, thường siêng tu học pháp thuận đạo Bồ đề, chỗ gọi Bát nhã Ba la mật cho đến bố thí Ba la mật; hoặc nội không cho đến vô tánh tự tánh không; hoặc tất cả Tam ma địa, Đà la ni môn; hoặc bốn niệm trụ, nói rộng cho đến mười tám pháp Phật bất cộng; hoặc đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả; hoặc vô lượng vô biên Phật pháp khác. Do đấy chứng được sở cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Chúng ta ngày nay vì cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, cũng nên theo học các pháp của Bát nhã Ba la mật như thế. Nhất định đây là Đại sư của chúng ta, chúng ta theo đây tu học thì sở nguyện sẽ được viên mãn. Các pháp của Bát nhã Ba la mật như thế nhất định là pháp ấn của chư Phật. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác theo đây tu học nên đã chứng, đang chứng và sẽ chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Các pháp của Bát nhã Ba la mật như thế, cũng là pháp ấn tất cả Thanh văn, Độc giác. Tất cả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác theo đây tu học, nên đã, đang và sẽ đến bờ Niết bàn bên kia. Vì vậy, nên Kiều Thi Ca! Các thiện nam thiện nữ này, hoặc Phật tại thế hoặc sau Niết bàn, nên nương Bát nhã Ba la mật rộng nói cho đến Nhất thiết tướng trí thường siêng tu học. Vì sao? Vì Bát nhã Ba la mật như thế, nói rộng cho đến Nhất thiết tướng trí là chỗ nương về của các Thanh văn, Độc giác, Bồ Tát và các trời, người, A tu la vậy.

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Có các thiện nam, thiện nữ đối với các Như Lai sau khi vào Niết bàn, vì cúng dường Thiết lợi la Phật nên đã xây bảo tháp bằng bảy báu vi diệu, trang hoàng tháp bằng các thứ trân châu quý hiếm. Bảo tháp ấy cao lớn một do tuần, rộng nửa do tuần. Lại dùng các phẩm thượng diệu tràng hoa, hương xoa, hương bột cùng tràng phan, lọng báu, các ngọc diệu trân kỳ quý lạ… suốt một đời cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen. Ý ông nghĩ sao? Các thiện nam thiện nữ này, do nhân duyên đây được phước nhiều chăng?

Thiên Đế Thích thưa:

- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều.

Phật bảo:

- Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam, thiện nữ chẳng lìa tâm Nhất thiết trí trí, đem vô sở đắc mà làm phương tiện, đối Bát nhã Ba la mật đây chăm lòng lóng nghe, thọ trì đọc tụng, tinh siêng tu học, suy nghĩ đúng lý, rộng vì hữu tình tuyên nói, lưu bố; lại dùng các thứ trang nghiêm như tràng hoa, hương xoa, hương bột cùng tràng phan lọng báu, các ngọc diệu trân quý… cúng dường cung kính, tôn trong ngợi khen. Các thiện nam thiện nữ này, nhờ nhân duyên đây sẽ sanh phước đức rất nhiều so với nhóm người trước vô lượng vô biên.

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Lại có các thiện nam thiện nữ đầy rẫy một châu Thiệm bộ, hoặc bốn Đại châu, hoặc cõi Tiểu thiên, hoặc cõi Trung thiên, hoặc Tam thiên đại thiên thế giới, đối các Đức Như Lai sau khi vào Niết bàn, vì cúng dường Thiết lợi la Phật, dùng bảy báu khởi xây bảo tháp, lại dùng các phẩm thượng diệu như tràng hoa, hương xoa, hương bột cùng tràng phan, lọng báu cùng các ngọc diệu trân kỳ quý lạ… suốt một đời cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen. Ý ông nghĩ sao? Các thiện nam thiện nữ này, nhờ nhân duyên đây được phước nhiều chăng?

Thiên Đế Thích thưa:

- Bạch Thế Tôn ! Rất nhiều. Bạch Thiện Thệ ! Rất nhiều.

Phật bảo:

- Kiều Thi Ca! Thôi, hãy gác việc này lại. Nếu có các thiện nam, thiện nữ nào, sau khi các đức Như Lai vào Niết bàn, vì cúng dường Thiết lợi la của Phật, nên đã xây dựng bảo tháp bằng bảy báu vi diệu, trang hoàng bằng các thứ ngọc quý hiếm. Bảo tháp ấy cao một do tuần, rộng nửa do tuần. Tháp này được xây như vậy khắp cả châu Thiệm bộ, hoặc khắp cả bốn Đại châu, hoặc khắp cả cõi Tiểu thiên, hoặc khắp cả cõi Trung thiên, hoặc khắp cả Tam thiên đại thiên thế giới; lại dùng các loại tràng hoa thượng diệu cho đến các ngọc diệu trân quý… trọn đời cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen. Ý ông nghĩ sao? Các thiện nam, thiện nữ này, nhờ nhân duyên đây được phước nhiều chăng?

Thiên Đế Thích thưa:

- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều.

Phật bảo:

- Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam, thiện nữ nào chẳng lìa tâm Nhất thiết trí trí, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đối với Bát nhã Ba la mật chí tâm lắng nghe, thọ trì đọc tụng, tinh tấn siêng năng tu học, suy nghĩ đúng lý, rộng vì hữu tình tuyên nói lưu bố, hoặc kính cẩn biên chép, trang nghiêm cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen; lại đem các loại tràng hoa thượng diệu cho đến các ngọc diệu trân quý… cúng dường, thì các thiện nam, thiện nữ này, nhờ nhân duyên đây mà được sanh phước rất nhiều, so với nhóm người trước vô lượng vô biên.

Khi ấy, trời Đế Thích liền bạch Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Đúng như vậy. Bạch đức Thiện Thệ! Đúng như vậy. Nếu các thiện nam, thiện nữ nào cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen Bát nhã Ba la mật như thế, tức là cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại.

Bạch Thế Tôn! Giả sử tất cả hữu tình mười phương thế giới nhiều như cát sông Hằng, đều đối với đức Như Lai sau khi vào Niết bàn, vì cúng dường Thiết lợi la của Phật nên đã xây bảo tháp bằng bảy báu vi diệu, ở giữa trang hoàng bằng các thứ trân châu quý hiếm. Bảo tháp ấy cao một do tuần, rộng nửa do tuần. Tháp này được xây như vậy khắp cả Tam thiên đại thiên thế giới, không còn một khe hở; lại dùng các loại tràng hoa thượng diệu cho đến các ngọc diệu trân quý… cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen, trải qua một kiếp hoặc hơn một kiếp. Bạch Thế Tôn! Các hữu tình này, nhờ nhân duyên đây được phước nhiều chăng?

Phật đáp:

- Phước kia vô lượng vô biên.

Trời Đế Thích nói:

- Nếu các thiện nam, thiện nữ nào chẳng lìa tâm Nhất thiết trí trí, đem vô sở đắc làm phương tiện, đối với Bát nhã Ba la mật đây chí tâm lắng nghe, thọ trì đọc tụng, tinh tấn siêng năng tu học, suy nghĩ đúng lý, rộng vì hữu tình tuyên nói lưu bố, hoặc kính cẩn biên chép, trang nghiêm đủ loại cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen, hoặc đem nhiều tràng hoa đẹp cho đến các ngọc diệu trân quý… mà cúng dường, thì các thiện nam, thiện nữ này, nhờ nhân duyên đây được sanh phước rất nhiều, so với nhóm người trước vô lượng vô biên, chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể tính đếm. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Do Bát nhã Ba la mật đây hay thu nhiếp hết tất cả các thiện pháp: Đó là mười thiện nghiệp đạo; hoặc bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc; hoặc bốn Thánh đế; hoặc ba mươi bảy pháp Bồ đề phần; hoặc ba môn giải thoát; hoặc sáu thần thông; hoặc tám giải thoát, chín định thứ lớp; hoặc bố thí Ba la mật cho đến Bát nhã Ba la mật; hoặc nội không cho đến vô tánh tự tánh không; hoặc tất cả Tam ma địa, Đà la ni môn; hoặc Phật mười lực, bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất công; hoặc Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí; hoặc vô lượng vô biên các Phật pháp khác đều được thu nhiếp vào Bát nhã Ba la mật thậm thâm.

Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật như thế là pháp ấn chơn thật của các Đức Như Lai Ứng Cháng Đẳng Giác, cũng là pháp ấn chơn thật của tất cả Thanh văn, Độc giác.

Bạch Thế Tôn! Tất cả các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều đối với Bát Nhã thậm thâm như thế thường siêng tu học nên đã chứng, đang chứng và sẽ chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Tất cả Thanh văn và Độc giác cũng đối với Bát Nhã thậm thâm như thế, thường siêng tu học nên đã, đang và sẽ đến bờ Niết bàn bên kia. Do nhân duyên đây, nên các thiện nam, thiện nữ nào chẳng lìa tâm Nhất thiết trí trí, đem vô sở đắc làm phương tiện, đối với Bát nhã Ba la mật đây chí tâm lắng nghe, thọ trì đọc tụng, tinh tấn siêng năng tu học v.v… lại trang nghiêm đủ loại tràng hoa v.v… cho đến các ngọc diệu trân quý mà cúng dường, thì họ sẽ được phước rất nhiều, vô lượng vô biên, chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể tính đếm.

 

Thích nghĩa:

(1). Dịch giả trong tuvienquangduc.com dùng từ “đêm dài” để dịch chữ Hán là trường dạ. Nghĩa đen “trường dạ” là đêm dài, nhưng dịch như vậy có lẽ không được ổn, nên bản dịch khác của thuvienhoasen.org dịch là “nhiều kiếp”. Chúng tôi là “từ lâu”.

(2). Chế đa: Linh miếu, đền thờ, chùa chiền hay tháp.

(3). Thiết lợi la: Xá lợi của Phật, nói nôm na là “tro” hay là phần còn lại của hài cốt Phật sau khi trà tỳ (thiêu).

 

Sơ lược:

 

Phẩm “Bảo Tháp” thuyết theo lối trần thuật rất dễ đọc dễ hiểu, nên không cần giải thích.

Phẩm này chỉ so lường công đức của người cúng dường thiết lợi la Phật(xá lợi) hay người xây bảo tháp thờ cúng chư Phật hay thiết lợi la Phật, không bằng thiện nam, thiên nữ “chí tâm lắng nghe, thọ trì đọc tụng, tinh tấn siêng năng tu học, suy nghĩ đúng lý, rộng vì hữu tình tuyên nói lưu bố, hoặc kính cẩn biên chép, trang nghiêm đủ loại cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen, hoặc đem nhiều tràng hoa đẹp cho đến các ngọc diệu trân quý… mà cúng dường, thì các thiện nam, thiện nữ này, nhờ nhân duyên đây được sanh phước đức rất nhiều, so với nhóm người trước vô lượng vô biên, chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể tính đếm”.

Kinh so sánh phước đức của người thọ trì, đọc tụng Bát nhã Ba la mật v.v… với việc xây tháp 7 báo để thờ xá lợi Phật, cái nào có công đức hơn? Dĩ nhiên, người thọ trì, đọc tụng hay ghi chép Kinh Bát nhã Ba la mật lại vì người diễn nói truyền bá, công đức nhiều hơn. Vì nhờ có tu học Bát nhã Ba la mật, mới có pháp thế gian, xuất thế gian, mới có các dòng họ lớn, cư sĩ, Thanh văn, Độc giác, Bồ Tát, Phật v.v…

 

Đọc phẩm này, nên nhớ câu kết luận của Đại Trí Độ Luận, phẩm 32, “Bảo Tháp Đại Minh”, tập 3, quyển 57:

“Cũng nên biết rằng Xá lợi Phật chỉ là vô ký pháp.

Cúng dường xá lợi Phật chỉ là thiện pháp. Y chỉ nơi thiện pháp này mà đời sau được các quả báo lành. Nhưng nếu nghe Bát nhã Ba la mật, rồi thọ trì, đọc tụng, thân cận, chánh ức niệm, trọn chẳng ly Tát Bà Nhã tâm(Nhất thiết trí trí và Vô Thượng Giác ngộ), mà tu tập Bát nhã Ba la mật, thì đời này và cả ở đời sau, đều được quả báo lành, dẫn đến được quả Vô Thượng Bồ Đề”.

Vậy, người nào chẳng lìa tâm Nhất thiết trí trí, đem vô sở đắc, chí tâm lắng nghe, thọ trì đọc tụng, tinh tấn siêng năng tu học, suy nghĩ đúng lý, rộng vì hữu tình tuyên nói lưu bố, hoặc kính cẩn biên chép, trang nghiêm đủ loại cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen, hoặc đem nhiều tràng hoa đẹp cho đến các ngọc diệu trân quý… mà vì cúng dường, nhờ nhân duyên đây được sanh phước đức rất nhiều, so với nhóm người xây dựng bảy báu để thờ xá lợi Phật, có thể nói là chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể tính đếm.

 

Đoạn 1. của phẩm “So Lường Công Đức”, quyển 103 và quyển 104 của Hội thứ I, ĐBN tương đương với phẩm này, Kinh thuyết quá rõ, nên ở đây không cần lặp lại nữa. Quý vị độc giả có thể quay lại đọc tụng nếu muốn./.

 

---o0o---

 


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/06/2021(Xem: 21853)
LUẬN VỀ CON ĐƯỜNG GIẢI THOÁT - Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn. Thứ tự Kinh văn số 1648. Hán văn từ trang 399 đến trang 461 gồm có 12 quyển. - Ngài A La Hán Ưu Ba Đề Sa (Uptissa) còn gọi là Đại Quang tạo luận nầy và vào đời nhà Lương được Ngài Tam Tạng Tăng Già Bà La (Samghaphala) nước Phù Nam dịch từ chữ Phạn sang chữ Hán. - Sa Môn Thích Như Điển, Phương Trượng chùa Viên Giác, Hannover, Đức Quốc, dịch từ chữ Hán sang tiếng Việt tại Tu Viện Đa Bảo, Úc Đại Lợi nhân lần nhập thất thứ ba tại đây. Bắt đầu dịch luận nầy vào ngày 10 tháng 12 năm 2005.
07/06/2021(Xem: 13460)
Trong mùa an cư kiết hạ năm nay (1984), sau khi đã viết xong quyển "Lễ Nhạc Phật Giáo“, tôi định dịch quyển luận "Đại Thừa Khởi Tín" từ Đại Tạng Kinh, cùng với quý Thầy khác, nhưng không thực hiện được ý định đó. Vì quý Thầy bận nhiều Phật sự phải đi xa. Do đó, tôi đình chỉ việc dịch trên. Sở dĩ như thế, vì tôi nghĩ, tài mình còn non, sức còn kém; đem ý thô sơ, tâm vụng dịch lời kinh Phật chỉ một mình làm sao tránh được những lỗi lầm, thiếu sót. Nếu có nhiều Thầy dịch cùng một lúc, văn ý trong sáng mà lại bổ khuyết cho nhau chỗ thừa, nơi thiếu thì hay hơn; thôi đành phải chờ dịp khác vậy.
07/06/2021(Xem: 14073)
LỜI NÓI ĐẦU Hôm nay là ngày 1 tháng 8 năm 2020, nhằm ngày 12 tháng 6 âm lịch năm Canh Tý, Phật lịch 2564, Phật Đản lần thứ 2644, tại thư phòng Tổ Đình Viên Giác, Hannover, Đức Quốc, tôi bắt đầu viết tác phẩm thứ 68. Hôm nay cũng là ngày có nhiệt độ cao nhất, 32 độ C, trong mùa dịch Covid-19 đang lan truyền khắp nơi trên thế giới. Sau hơn 5 tháng ròng rã, tôi đã đọc qua 8 tập kinh Việt dịch trong Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh, từ tập 195 đến tập 202, thuộc Bộ Sự Vị, được dịch từ 2 tập 53 và 54 của Đại Chánh Tạng.1 Nguyên văn chữ Hán 2 tập này gồm 2.260 trang.2 Bản dịch sang tiếng Việt của 2 tập này là 15.781 trang, chia thành 8 tập như đã nói trên. Như vậy, trung bình cứ mỗi trang chữ Hán dịch ra tiếng Việt khoảng 7 trang.
25/05/2021(Xem: 9122)
Đã nhiều năm rồi, Phật Tử Việt Nam cử hành đại lễ trong niềm hân hoan tự hào về một ngày lễ Vesak trọng đại được xưng danh một cách trang trọng là "Đại Lễ Phật Đản Liên Hiệp Quốc." Phật giáo là một trong bốn tôn giáo lớn của nhân loại. Con số Phật Tử dù vậy cũng chỉ khoảng 400-600 triệu. Với con số khiêm nhường đó, tiếng nói của Phật giáo không có ảnh hưởng gì đáng kể trong các quyết định của Liên Hiệp Quốc về vận mạng của các dân tộc trên thế giới. Phật Tử Việt Nam chính thức đón nhận "Đại Lễ Phật Đản Liên Hiệp Quốc" từ năm 2008. Từ đó đến nay, những phát biểu bởi các đại biểu từ nhiều nước tán dương Đức Phật quả là quá nhiều, nhưng chưa có bất cứ đóng góp thiết thực đáng kể nào cho khát vọng hòa bình của nhiều dân tộc bị áp bức, bóc lột bởi chính quyền của nước mình; bị đe dọa bởi tham vọng bá quyền của nước lớn.
20/05/2021(Xem: 12450)
Kinh Đại Bát Nhã có tất cả 600 quyển, gồm 5 triệu chữ trong 25 ngàn câu, là bộ kinh khổng lồ trong tàng kinh cát của Phật Giáo Đại Thừa, do Đức Thế Tôn thuyết giảng trong 22 năm. Pháp Sư Huyền Trang dịch từ tiếng Phạn sang Hán và Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm (1911-2003) dịch từ Hán sang Việt. Lão Cư Sĩ Thiện Bửu đã dành 10 năm lao nhọc, vừa học Kinh vừa viết luận bản này để xiển dương tư tưởng Bát Nhã theo tinh thần truyền bá và lưu thông. Ông đã khiêm tốn tự nhủ rằng, không biết những gì mình viết có phù hợp với tinh thần của bộ Đại Bát Nhã Ba La Mật hay không, nhưng chúng tôi cho rằng việc làm của Lão Cư Sĩ là việc cần làm và thiết thực hữu ích, ông đã giúp tóm tắt ý nghĩa và chiết giải những chỗ chính yếu của Kinh. Có thể nói đây là bản sớ giải đồ sộ thứ hai (trọn bộ 8 tập) về Kinh Đại Bát Nhã, theo sau Đại Trí Độ Luận (5 tập) ở Việt Nam. Xin tán thán công đức của Lão Cư Sĩ đã đặt viên đá đầu tiên, để khuyến khích cho những hành giả khác, cùng phát tâm xây dựng nền mó
07/05/2021(Xem: 21075)
Phật Điển Thông Dụng - Lối Vào Tuệ Giác Phật, BAN BIÊN TẬP BẢN TIẾNG ANH Tổng biên tập: Hòa thượng BRAHMAPUNDIT Biên tập viên: PETER HARVEY BAN PHIÊN DỊCH BẢN TIẾNG VIỆT Chủ biên và hiệu đính: THÍCH NHẬT TỪ Dịch giả tiếng Việt: Thích Viên Minh (chương 11, 12) Thích Đồng Đắc (chương 1, 2) Thích Thanh Lương (chương 8) Thích Ngộ Trí Đức (chương 7) Thích Nữ Diệu Nga (chương 3, 4) Thích Nữ Diệu Như (chương 9) Đặng Thị Hường (giới thiệu tổng quan, chương 6, 10) Lại Viết Thắng (phụ lục) Võ Thị Thúy Vy (chương 5) MỤC LỤC Bảng viết tắt Bối cảnh quyển sách và những người đóng góp Lời giới thiệu của HT Tổng biên tập Lời nói đầu của Chủ biên bản dịch tiếng Việt GIỚI THIỆU TỔNG QUAN Giới thiệu dẫn nhập Giới thiệu về cuộc đời đức Phật lịch sử Giới thiệu về Tăng đoàn: Cộng đồng tâm linh Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Thượng tọa bộ Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Đại thừa Giới thiệu về các đoạn kinhcủa Phật giáo Kim cương thừa PHẦN I: CUỘC ĐỜI ĐỨC
20/04/2021(Xem: 18647)
Kính bạch chư Tôn Đức, Thưa chư Pháp hữu, nhân mùa Phật Đản PL 2565, Viên Giác Tùng Thư Đức Quốc có ấn hành Đặc San Văn Hóa Phật Giáo chủ đề Chuyển hóa Khổ đau để chào mừng ngày Đản Sanh của Đức Từ Phụ Thích Ca Mâu Ni lần thứ 2645. Đặc San năm nay (lần thứ ba) được sự góp mặt của 50 văn thi sĩ và 3 họa sĩ trong và ngoài nước. Chúng tôi kính gởi đến quý Trang Nhà để nhờ phổ biến rộng rãi đến mọi độc giả gần xa. Độc giả muốn mua sách in có thể đặt trực tiếp trên mạng toàn cầu Amazon: https://www.amazon.de/gp/product/1716272939/ref=dbs_a_def_rwt_bibl_vppi_i7 Nam Mô Thích Ca Mâu Ni Phật Kính Mail Nhóm Chủ Biên Phù Vân - Nguyên Đạo - Nguyên Minh
19/04/2021(Xem: 11112)
Phật Điển Phổ Thông DẪN VÀO TUỆ GIÁC PHẬT Common Buddhist Text: Guidance and Insight from theBuddha. Copyright by Mahachulalongkorn-rajavidyalaya (MCU). Chủ biên bản Việt ngữ: LÊ MẠNH THÁT - TUỆ SỸ Ban biên dịch: Thích Hạnh Viên, Thích Nữ Khánh Năng, Thích Thanh Hòa, Pháp Hiền Cư sỹ, Nguyễn Quốc Bình. Dịch Việt và Ấn hành với Hợp đồng chuyển nhượng bản quyền của Viện Đại Học Mahachulalongkorn-rajavidyalaya (MCU), Thái-lan, 2018. Nhà xuất bản Hồng Đức, 2019. Hương Tích ấn hành.
31/03/2021(Xem: 13831)
Sách này sẽ được ghi theo hình thức biên niên sử, về các sự kiện từ ngày 8/5/1963 cho tới vài ngày sau cuộc chính biến 1/11/1963, nhìn từ phía chính phủ Hoa Kỳ. Phần lược sử viết theo nhiều tài liệu, trong đó phần chính là dựa vào tài liệu Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ “Foreign Relations of the United States 1961-1963”, một số tài liệu CIA lưu giữ ở Bộ Ngoại Giao, và một phần trong sách “The Pentagon Papers” của Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ, ấn bản Gravel Edition (Boston: Beacon Press, 1971). Vì giờ tại Việt Nam và Hoa Kỳ cách biệt nhau, cho nên đôi khi ghi ngày sai biệt nhau một ngày.
24/03/2021(Xem: 9059)
Kính Pháp Sư Hiền Đức, tôi là một tu sĩ đạo hiệu Thích Thắng Hoan có vài lời tâm niệm gởi đến Pháp Sư, một hôm tôi đến chùa Trung Hoa, tại Mỹ Quốc, tìm xin một số sách Phật đem về đọc để giải trí trong lúc tuổi già (đã 94 tuổi), hai người trong chùa mang ra cho tôi một thùng giấy cho tôi chọn lựa, họ nói đây là những sách cho không ông cứ tự nhiên, trong khi tìm kiếm, bổng nhiên tôi gặp một quyển sách nhan đề là “Phật Giáo Dữ Nhân Sanh, liền mở ra đọc tổng quát tại chỗ về mục lục và lướt qua tiểu sử của tác giả liền tò mò xin về đọc.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]