Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

13. Phẩm “Bất Tư Nghì” (1)

24/11/202017:14(Xem: 8880)
13. Phẩm “Bất Tư Nghì” (1)

 TỔNG LUẬN
 KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***

buddha-487

 

XIII. PHẨM “BẤT TƯ NGHÌ”(1)

Phần cuối cùng quyển 547, Hội thứ IV, TBBN.

 

Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Tịnh, Cư sĩ Quảng Thiện Duyên
Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Phước, Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le

 

 

 

Tóm lược:  

 

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã sâu xa vì việc lớn nên xuất hiện ở đời, vì việc không thể nghĩ bàn nên xuất hiện ở đời, vì việc không thể đo lường nên xuất hiện ở đời, vì việc không số lượng nên xuất hiện ở đời, vì việc không thể so sánh nên xuất hiện ở đời.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng như lời ngươi nói!

Thiện Hiện! Thế nào là vì việc lớn nên Bát Nhã sâu xa xuất hiện ở đời? Nghĩa là tất cả chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều vì cứu giúp tất cả hữu tình, vì việc lớn này nên không phút giây nào tạm rời bỏ. Bát Nhã sâu xa vì việc này nên xuất hiện ở đời.

Thiện Hiện! Thế nào là Bát Nhã sâu xa vì việc không thể nghĩ bàn, vì việc không thể đo lường, vì việc không số lượng, vì việc không thể so sánh nên xuất hiện ở đời? Nghĩa là Phật tánh, Như Lai tánh, tự nhiên tánh giác, Nhất thiết trí tánh của chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều không thể nghĩ bàn, không thể đo lường, không số lượng, không thể so sánh. Bát Nhã sâu xa vì các việc này nên xuất hiện ở đời.

Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Chỉ có đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác có Phật tánh, Như Lai tánh, tự nhiên tánh giác, Nhất thiết trí tánh đều không thể nghĩ bàn, không thể đo lường, không số lượng, không thể so sánh. Hay là sắc, thọ, tưởng, hành, thức cho đến tất cả pháp cũng không thể nghĩ bàn, không thể đo lường, không số lượng, không thể so sánh được?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Không những Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác có Phật tánh, Như Lai tánh, tự nhiên tánh giác, Nhất thiết trí tánh không thể nghĩ bàn, không thể đo lường, không số lượng, không thể so sánh mà sắc, thọ, tưởng, hành, thức cho đến tất cả pháp cũng không thể nghĩ bàn, không thể đo lường, không số lượng, không thể so sánh. Vì sao? Vì ở trong tất cả pháp tánh chơn thật, tâm và tâm sở đều bất khả đắc.

Thiện Hiện nên biết! Tất cả sắc, thọ, tưởng, hành, thức và tất cả pháp đều không thể phô bày, không có số lượng, không so sánh. Vì sao? Vì các pháp như vậy không có tự tánh, bất khả đắc, vì tự tánh Không.

Này Thiện Hiện! Tất cả sắc, thọ, tưởng, hành, thức và tất cả pháp đều bất khả đắc, nên không thể nghĩ bàn, không thể đo lường, không có số lượng, không thể so sánh. Vì sao? Vì các pháp này không có hạn lượng, không có sở hữu, vì tự tánh Không.

Này Thiện Hiện! Tất cả sắc, thọ, tưởng, hành, thức và tất cả pháp đều không có hạn lượng, nên không thể nghĩ bàn, không thể đo lường, không có số lượng, không thể so sánh.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vì nguyên nhân nào mà các sắc, thọ, tưởng, hành, thức và tất cả pháp đều không hạn lượng?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Ý ngươi thế nào? Hư không có bị tâm và tâm sở làm hạn lượng không?

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Không.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Tất cả sắc, thọ, tưởng, hành, thức và tất cả pháp cũng lại như vậy, vì tự tánh Không nên tâm và tâm sở không thể hạn lượng. Vì nhân duyên này nên sắc, thọ, tưởng, hành, thức và tất cả pháp không có hạn lượng, đều không thể nghĩ bàn, không thể đo lường, không có số lượng, không thể so sánh.

Thiện Hiện nên biết! Vì tất cả pháp đều không thể nghĩ bàn, không thể đo lường, không có số lượng, không thể so sánh nên tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều có pháp Phật, pháp Như Lai, pháp giác tự nhiên, pháp Nhất thiết trí cũng không thể nghĩ bàn, không thể đo lường, không có số lượng, không thể so sánh được.

Thiện Hiện nên biết! Các pháp này đều không thể nghĩ bàn vì đã chấm dứt sự nghĩ bàn, không thể đo lường vì đã chấm dứt sự đo lường, không có số lượng vì đã chấm dứt số lượng, không thể so sánh vì đã chấm dứt sự so sánh.

Thiện Hiện nên biết! Các pháp này đều không thể nghĩ bàn vì vượt quá sự nghĩ bàn, không thể đo lường vì vượt quá sự đo lường, không có số lượng vì vượt quá số lượng, không thể so sánh vì vượt quá sự so sánh.

Thiện Hiện nên biết! Không thể nghĩ bàn, không thể đo lường, không có số lượng, không thể so sánh đó chỉ có khái niệm, hoàn toàn không chơn thật.

Thiện Hiện nên biết! Không thể nghĩ bàn, không thể đo lường, không có số lượng, không thể so sánh đó đều như hư không, hoàn toàn vô sở hữu.

Do nhân duyên này mà tất cả pháp Phật, pháp Như Lai, pháp giác tự nhiên, pháp Nhất thiết trí của Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều không thể nghĩ bàn, không thể đo lường, không có số lượng, không thể so sánh. Thanh văn, Độc giác, thế gian, trời, người, A tu la v.v... thảy đều không thể nghĩ bàn, không thể đo lường, không có số lượng, không thể so sánh các pháp này.

Khi đức Phật thuyết pháp không thể nghĩ bàn, không thể đo lường, không có số lượng, không thể so sánh, trong chúng có năm trăm Bí sô, hai ngàn Bí sô ni những lậu hoặc không còn, tâm được giải thoát. Và có sáu mươi cận sự nam, ba mươi cận sự nữ, đối với các pháp xa lìa trần cấu, sanh pháp nhãn thanh tịnh. Và có hai vạn đại Bồ Tát đắc Vô sanh pháp nhẫn. Đức Thế Tôn thọ ký cho họ trong Hiền kiếp sẽ chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề Bất thối chuyển. Tức trước đã nói: Những cận sự nam, cận sự nữ đối với các pháp xa lìa trần cấu, sanh pháp nhãn thanh tịnh, đức Phật cũng thọ ký cho họ chẳng bao lâu sẽ chứng đắc, vĩnh viễn đoạn tận các lậu, tâm và tuệ giải thoát.(2)

 

Thích nghĩa:

(1). Bất khả tư nghì: Bất khả tư nghị. Không thể nghĩ bàn. Phạm: a-cintya. Cũng gọi Bất tư nghị, Nan tư nghị (khó nghĩ bàn). Chỉ cho cảnh giới không thể nghĩ lường nói năng được. Chủ yếu được dùng để hình dung cảnh giới giác ngộ của chư Phật Bồ Tát, cùng với sự mầu nhiệm sâu xa của trí tuệ và sức thần thông. Đối với những sự lý sâu xa mầu nhiệm và thần kỳ, không thể nhờ vào suy xét hoặc bàn luận mà biết được, người đời thường dùng bất khả tư nghị để hình dung. Nhưng từ ngữ này đã được viện dẫn từ Kinh điển Phật. Kinh Tăng nhất a hàm quyển 18 nói, thế giới, chúng sinh, rồng, cảnh giới Phật là bốn cái không thể nghĩ bàn. Kinh Đại bảo tích quyển 86 cũng nêu: Nghiệp, rồng, thiền, Phật là bốn cảnh giới không thể nghĩ bàn. Luận Đại trí độ quyển 30 thì bảo: Chúng sinh nhiều ít (chúng sinh không thêm không bớt), nghiệp quả báo (tất cả quả báo sai khác do sức nghiệp mà sinh), sức người ngồi thiền (do sức thiền định mà hiện thần thông), sức các rồng (một giọt nước của rồng trút xuống làm trận mưa lớn), sức của chư Phật (đức Phật đã thành tựu đầy đủ mười lực) v.v..., năm thứ kể trên đều không thể nghĩ bàn. Lại Kinh Hoa nghiêm (bản dịch cũ) quyển 30 phẩm Phật bất khả tư nghị pháp, cũng nêu ra mười thứ không thể nghĩ bàn của chư Phật là: Cõi nước, tịnh nguyện, chủng tính, xuất thế, pháp thân, âm thanh, trí tuệ, sức thần tự tại, vô ngại trụ, giải thoát v.v... Cũng Kinh trên, quyển 37 phẩm Ly thế gian còn ghi chép mười thứ không thể nghĩ bàn của Bồ Tát. Những ghi chép trên đây đều nhằm nói rõ rằng, sự giải thoát, trí tuệ, sức thần thông v.v... của chư Phật và Bồ Tát không thể dùng lời nói mà diễn tả, hoặc suy tư mà biết được. Thêm nữa, Kinh Hoa nghiêm và Kinh Duy Ma được gọi là Kinh Bất khả tư nghị giải thoát, đức Phật A di đà được gọi là Bất khả tư nghị quang Như Lai, Bồ Tát được gọi là Bất khả tư nghị Bồ Tát, Nan tư nghị Bồ Tát v.v... đều thuộc những trường hợp kể trên. (xt. Tứ Bất Tư Nghi) -Phật Quang tự điển.

 (2). Số lượng Bí sô và Bí sô ni cũng như số lượng Ưu bà tắc, Ưu bà di và Bồ Tát chứng đắc các quả vị sau khi Phật thuyết trong “Tiểu Bản Bát Nhã” do Ngài Huyền Trang dịch hoặc “Tiểu Phẩm Bát Nhã” do Ngài La Thập dịch hoặc “Phật Mẫu Bát Nhã” do Thí Hộ dịch, rất khác nhau. Đó là điều đáng ngạc nhiên, vì trong cùng một pháp hội mà kinh điển lại ghi chép rất khác nhau?

 

Lược giải:

 

Tất cả trí Phật là những năng lực siêu diệt, không thể tưởng tượng, không gì sánh bằng, không thể dùng lời nói hay văn tự diễn tả nổi. Vì thế mới nói tất cả trí tuệ Phật là bất khả tư nghì. Nhưng tại sao sắc thọ tưởng cũng bất khả tư nghì. Sắc thọ tưởng hành thức còn gọi là ngũ uẩn, ngũ che(1). Vì nó che đậy tánh giác của con người. Như trước đây chúng ta từng nói năm thủ uẩn là cái giúp ta sống, nhưng năm thủ uẩn cũng là cái lừa phỉnh chúng ta. Tại sao năm thủ uẩn giúp ta sống? Vì nếu không có thọ tưởng hành thức thì làm sao chúng ta có thể tiếp xúc với môi trường sống hay sanh địa. Ngũ uẩn, lục căn, là con người. Thiếu nó là thiếu tất cả. Không có nó, con người chỉ là gỗ đá. Nên thủ uẩn là cái giúp con người sống: Chính nó bảo vệ thân căn và khí thế gian. Nhưng tại sao lại nói ngũ uẩn cũng chính là cái lừa phỉnh con người. Thí dụ mà chúng ta thường nói là có hai người cùng vào một phòng lạnh có cùng một nhiệt độ như nhau, người mạnh khỏe thì cảm thấy mát mẻ, ưa thích... trong khi người bệnh hoạn ốm yếu thì cảm thấy rét lạnh, khó chịu! Tại sao? Vì cảm thọ là cái sai biệt tùy theo từng cá thể. Cảm thọ không phải là nhiệt kế hay hàn thử biểu, nên không thể nói lên sự thật chung cùng của thế giới khách quan.

Nhưng tại sao sắc thọ tưởng hành thức không thể nghĩ bàn không thể cân lường, không thể tính đếm, không gì ngang bằng. Trong Kinh Lăng Nghiêm Phật bảo: Năm cửa ngõ đó là địa ngục và chính năm cửa đó cũng là Niết bàn. Khi “tại triền” thì thức là cái so đo phân biệt, nên chúng sanh bị phiền não trói buộc, phải bị trầm luân trong sanh tử. Vì vậy, nói: Năm cửa ngõ đó nó là địa ngục. Nhưng một khi “xuất triền” tức thoát ly phiền não, thì thức biến thành trí, đó chính là Niết bàn. Trí đó có đầy đủ công đức diệu dụng vô ngại, vô biên... không thể cân lường, không thể tính đếm, không gì hơn nên nói là bất khả tư nghì(2)!

Không những tất cả pháp, Như Lai pháp, Phật pháp, Tự nhiên trí pháp, Nhất thiết trí pháp… mà cả sắc, thọ tưởng, hành, thức không thể nghĩ bàn, không thể cân, không thể lường, không thể tính đếm, không gì ngang bằng, cho đến tất cả các pháp cũng không thể nghĩ bàn, không thể cân, không thể lường, không thể tính đếm, không gì ngang bằng.

Vì trong pháp tánh, sắc thọ tưởng hành thức không có tâm, không có tâm sở; cho đến tất cả các pháp, ở trong Pháp tánh, cũng không có tâm, không có tâm sở. Không có tâm hay tâm sở tức tâm Không hay còn gọi là vô niệm, vô tâm. Đạt đến chỗ này tức là chứng Thánh, nên có đầy đủ diệu dụng không thể nghĩ bàn. Kinh Phật Mẫu Bát Nhã, Phật nói lên quan điểm này như sau:

- “Tu bồ đề! Vì sắc, thụ, tưởng, hành, thức, ở trong Pháp tính, không có tâm, không có tâm sở, nên không thể nghĩ bàn, không thể cân, cho đến tất cả các pháp cũng không thể nghĩ bàn, không thể cân. Tu bồ đề! Vì sắc, thụ, tưởng, hành, thức không thể lường, cho đến tất cả các pháp cũng không thể lường. Vì sao? Sắc, thụ, tưởng, hành, thức, không thể lường được, cho đến tất cả các pháp cũng không thể lường được. Vì không thể lường được, tức sắc, thụ, tưởng, hành, thức cho đến tất cả các pháp không có tạo tác. Vì không tạo tác, tức sắc, thụ, tưởng, hành, thức cho đến tất cả các pháp đều không sinh. Vì không sinh, nên sắc, thụ, tưởng, hành, thức cho đến tất cả các pháp đều không thể lường. Tu bồ đề, vì sắc, thụ, tưởng, hành, thức không thể đếm, cho đến tất cả các pháp cũng không thể đếm. Vì sao? Vì vượt ngoài phần số. Tu bồ đề! Vì sắc, thụ, tưởng, hành, thức không có gì ngang bằng, cho đến tất cả các pháp cũng không có gì ngang bằng. Vì sao? Vì bình đẳng như hư không. Tất cả các pháp cũng lại như thế.

Lại nữa, Tu bồ đề! Ý ngươi nghĩ thế nào? Hư không có tâm, tâm sở không?

Tu bồ đề nói:

- Không, Thế Tôn!

Phật nói:

- Tu bồ đề! Tất cả các pháp kia cũng thế. Vì hư không không thể nghĩ bàn, tất cả các pháp cũng không thể nghĩ bàn. Vì hư không không thể cân, tất cả các pháp cũng không thể cân. Vì hư không không thể lường, tất cả các pháp cũng không thể lường. Vì hư không không thể đếm, tất cả các pháp cũng không thể đếm. Vì hư không không có gì ngang bằng, tất cả các pháp cũng không có gì ngang bằng. Vì thế, các pháp lìa mọi phân biệt. Nếu phân biệt thì đều là nghiệp thức.

Tu bồ đề, chấm dứt mọi sự cân lường tính toán gọi là không thể nghĩ bàn. Vì không cân được nên gọi là không thể cân. Vì không có hạn lượng nên gọi là không thể lường. Vì vượt ngoài các số nên gọi là không thể tính đếm. Vì như hư không nên gọi là không gì ngang bằng. Vì duyên này, nên biết pháp Như Lai, pháp Phật, pháp Tự nhiên trí, pháp Nhất thiết trí, cho đến tất cả các pháp đều như hư không, không thể nghĩ bàn, không thể cân, không thể lường, không thể tính đếm, không gì ngang bằng”.

 

Kết luận:

 

Đây là một bài pháp tuy rất ngắn nhưng quá thậm thâm, rất khó thâm nhập. Nhưng hiểu được nó là hiểu được tất cả pháp hay hiểu nó là thông đạt Bát Nhã. Trong toàn thể Đại Bát Nhã đều nói về cái giác biết này giữa chúng sanh hay thế gian (cõi mê) và Thánh giả (cõi giác) đối với tất cả pháp. Chúng sanh cõi mê hiểu tất cả pháp là qua thức (do cảm thọ từ ngũ uẩn mà ra). Thấy có phân biệt nên nói tốt xấu, hay dở… Còn Thánh giả thấy các pháp như thế nào? Kinh chỗ nào cũng nói các pháp là giả, không thật như bèo bọc mộng huyễn mây; các pháp là ngu si trì độn, chẳng biết gì… cứ trơ lì như gỗ đá; các pháp là như như, chẳng lúc nào chẳng như, như vậy bởi vì nó là như vậy; vì thấy như vậy nên bảo các pháp là bình đẳng vô tướng; vì thấy không, vô tướng, vô tánh, tự tánh không… nên mới được thanh tịnh.

Lên một tầng nữa phẩm này Phật bảo tất cả pháp không thể nghĩ bàn giống như hư không, không thể tính đếm, so lường… lìa phân biệt. Nếu có phân biệt là do nghiệp thức của con người không phải do pháp. Do Thánh giả có cái thấy như vậy mới sanh trí tuệ mà đạt vô ngại trí, vô phân biệt trí, vô trước trí, vô sư trí, bình đẳng tánh trí, đại viên cảnh trí… Trong lúc chúng sanh thấy pháp, đòi hỏi phải có đối tượng mới gọi là thấy, không có đối tượng nói là không thấy. Thánh giả ngược lại không thấy tướng, lìa tướng nên thấy tánh, thấy chơn như thật tướng. Nên cái thấy của Thánh giả gọi không thể nghĩ bàn!

Thâm nhập được pháp không, pháp như rồi, lại sống đệ nhất nghĩa đế thì thấy tất cả pháp đều không. Nên nói tất cả pháp đều bình đẳng. Pháp bình đẳng không do Phật làm ra, không do ai làm ra, không ai có thể nắm bắt được nên nói là bất khả tư nghì.

Thích nghĩa cho phần lược giải này:

(1). Ngũ uẩn: Sắc (; s, p: rūpa), chỉ thân và sáu giác quan (Lục căn) do Tứ đại chủng (s, p: mahābhūta) tạo thành, đó là bốn yếu tố đất, nước, gió, lửa. Sắc tạo nên các giác quan và đối tượng của các giác quan. Thụ (; s, p: vedanā), tức là toàn bộ các cảm giác, không phân biệt chúng là dễ chịu, khó chịu hay trung tính. Tưởng (; s: saṃjñā; p: saññā) là nhận biết các cảm giác như âm thanh, màu sắc, mùi vị…, kể cả nhận biết ý thức đang hiện diện. Hành (; s: saṃskāra; p: saṅkhāra) là những hoạt động tâm lý sau khi có tưởng, ví dụ chú ý, đánh giá, vui thích, ghét bỏ, quyết tâm, tỉnh giác… Thức (; s: vijñāna; p: viññāṇa) bao gồm sáu dạng ý thức liên hệ tới sáu giác quan: Ý thức của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. (Phỏng theo từ điển Đạo Uyển).

 (2). Thức uẩn:(識蘊) Cũng gọi Thức ấm, Thức thụ ấm. Chỉ cho sự tụ tập của các thức như thức mắt, thức tai..., 1 trong 5 uẩn. Luận Câu xá quyển 1 (Đại 29, 4 thượng) nói: Mỗi thức đều phân biệt rõ ràng từng cảnh giới trong các giới, rồi thu lấy toàn bộ cảnh giới, cho nên gọi là Thức uẩn. Đây lại có 6 thức thân khác nhau, tức từ Nhãn thức thân đến Ý thức thân. Bởi vì 6 thức như thức mắt..., khi đối trước cảnh, chỉ thu lấy tướng chung để phân biệt, cho nên gom 6 thức này vào nhóm loại mà đặt tên là Thức uẩn. (Phỏng theo Từ điển Phật Quang)./.

 

---o0o---

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/06/2021(Xem: 21853)
LUẬN VỀ CON ĐƯỜNG GIẢI THOÁT - Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn. Thứ tự Kinh văn số 1648. Hán văn từ trang 399 đến trang 461 gồm có 12 quyển. - Ngài A La Hán Ưu Ba Đề Sa (Uptissa) còn gọi là Đại Quang tạo luận nầy và vào đời nhà Lương được Ngài Tam Tạng Tăng Già Bà La (Samghaphala) nước Phù Nam dịch từ chữ Phạn sang chữ Hán. - Sa Môn Thích Như Điển, Phương Trượng chùa Viên Giác, Hannover, Đức Quốc, dịch từ chữ Hán sang tiếng Việt tại Tu Viện Đa Bảo, Úc Đại Lợi nhân lần nhập thất thứ ba tại đây. Bắt đầu dịch luận nầy vào ngày 10 tháng 12 năm 2005.
07/06/2021(Xem: 13460)
Trong mùa an cư kiết hạ năm nay (1984), sau khi đã viết xong quyển "Lễ Nhạc Phật Giáo“, tôi định dịch quyển luận "Đại Thừa Khởi Tín" từ Đại Tạng Kinh, cùng với quý Thầy khác, nhưng không thực hiện được ý định đó. Vì quý Thầy bận nhiều Phật sự phải đi xa. Do đó, tôi đình chỉ việc dịch trên. Sở dĩ như thế, vì tôi nghĩ, tài mình còn non, sức còn kém; đem ý thô sơ, tâm vụng dịch lời kinh Phật chỉ một mình làm sao tránh được những lỗi lầm, thiếu sót. Nếu có nhiều Thầy dịch cùng một lúc, văn ý trong sáng mà lại bổ khuyết cho nhau chỗ thừa, nơi thiếu thì hay hơn; thôi đành phải chờ dịp khác vậy.
07/06/2021(Xem: 14073)
LỜI NÓI ĐẦU Hôm nay là ngày 1 tháng 8 năm 2020, nhằm ngày 12 tháng 6 âm lịch năm Canh Tý, Phật lịch 2564, Phật Đản lần thứ 2644, tại thư phòng Tổ Đình Viên Giác, Hannover, Đức Quốc, tôi bắt đầu viết tác phẩm thứ 68. Hôm nay cũng là ngày có nhiệt độ cao nhất, 32 độ C, trong mùa dịch Covid-19 đang lan truyền khắp nơi trên thế giới. Sau hơn 5 tháng ròng rã, tôi đã đọc qua 8 tập kinh Việt dịch trong Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh, từ tập 195 đến tập 202, thuộc Bộ Sự Vị, được dịch từ 2 tập 53 và 54 của Đại Chánh Tạng.1 Nguyên văn chữ Hán 2 tập này gồm 2.260 trang.2 Bản dịch sang tiếng Việt của 2 tập này là 15.781 trang, chia thành 8 tập như đã nói trên. Như vậy, trung bình cứ mỗi trang chữ Hán dịch ra tiếng Việt khoảng 7 trang.
25/05/2021(Xem: 9122)
Đã nhiều năm rồi, Phật Tử Việt Nam cử hành đại lễ trong niềm hân hoan tự hào về một ngày lễ Vesak trọng đại được xưng danh một cách trang trọng là "Đại Lễ Phật Đản Liên Hiệp Quốc." Phật giáo là một trong bốn tôn giáo lớn của nhân loại. Con số Phật Tử dù vậy cũng chỉ khoảng 400-600 triệu. Với con số khiêm nhường đó, tiếng nói của Phật giáo không có ảnh hưởng gì đáng kể trong các quyết định của Liên Hiệp Quốc về vận mạng của các dân tộc trên thế giới. Phật Tử Việt Nam chính thức đón nhận "Đại Lễ Phật Đản Liên Hiệp Quốc" từ năm 2008. Từ đó đến nay, những phát biểu bởi các đại biểu từ nhiều nước tán dương Đức Phật quả là quá nhiều, nhưng chưa có bất cứ đóng góp thiết thực đáng kể nào cho khát vọng hòa bình của nhiều dân tộc bị áp bức, bóc lột bởi chính quyền của nước mình; bị đe dọa bởi tham vọng bá quyền của nước lớn.
20/05/2021(Xem: 12451)
Kinh Đại Bát Nhã có tất cả 600 quyển, gồm 5 triệu chữ trong 25 ngàn câu, là bộ kinh khổng lồ trong tàng kinh cát của Phật Giáo Đại Thừa, do Đức Thế Tôn thuyết giảng trong 22 năm. Pháp Sư Huyền Trang dịch từ tiếng Phạn sang Hán và Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm (1911-2003) dịch từ Hán sang Việt. Lão Cư Sĩ Thiện Bửu đã dành 10 năm lao nhọc, vừa học Kinh vừa viết luận bản này để xiển dương tư tưởng Bát Nhã theo tinh thần truyền bá và lưu thông. Ông đã khiêm tốn tự nhủ rằng, không biết những gì mình viết có phù hợp với tinh thần của bộ Đại Bát Nhã Ba La Mật hay không, nhưng chúng tôi cho rằng việc làm của Lão Cư Sĩ là việc cần làm và thiết thực hữu ích, ông đã giúp tóm tắt ý nghĩa và chiết giải những chỗ chính yếu của Kinh. Có thể nói đây là bản sớ giải đồ sộ thứ hai (trọn bộ 8 tập) về Kinh Đại Bát Nhã, theo sau Đại Trí Độ Luận (5 tập) ở Việt Nam. Xin tán thán công đức của Lão Cư Sĩ đã đặt viên đá đầu tiên, để khuyến khích cho những hành giả khác, cùng phát tâm xây dựng nền mó
07/05/2021(Xem: 21075)
Phật Điển Thông Dụng - Lối Vào Tuệ Giác Phật, BAN BIÊN TẬP BẢN TIẾNG ANH Tổng biên tập: Hòa thượng BRAHMAPUNDIT Biên tập viên: PETER HARVEY BAN PHIÊN DỊCH BẢN TIẾNG VIỆT Chủ biên và hiệu đính: THÍCH NHẬT TỪ Dịch giả tiếng Việt: Thích Viên Minh (chương 11, 12) Thích Đồng Đắc (chương 1, 2) Thích Thanh Lương (chương 8) Thích Ngộ Trí Đức (chương 7) Thích Nữ Diệu Nga (chương 3, 4) Thích Nữ Diệu Như (chương 9) Đặng Thị Hường (giới thiệu tổng quan, chương 6, 10) Lại Viết Thắng (phụ lục) Võ Thị Thúy Vy (chương 5) MỤC LỤC Bảng viết tắt Bối cảnh quyển sách và những người đóng góp Lời giới thiệu của HT Tổng biên tập Lời nói đầu của Chủ biên bản dịch tiếng Việt GIỚI THIỆU TỔNG QUAN Giới thiệu dẫn nhập Giới thiệu về cuộc đời đức Phật lịch sử Giới thiệu về Tăng đoàn: Cộng đồng tâm linh Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Thượng tọa bộ Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Đại thừa Giới thiệu về các đoạn kinhcủa Phật giáo Kim cương thừa PHẦN I: CUỘC ĐỜI ĐỨC
20/04/2021(Xem: 18647)
Kính bạch chư Tôn Đức, Thưa chư Pháp hữu, nhân mùa Phật Đản PL 2565, Viên Giác Tùng Thư Đức Quốc có ấn hành Đặc San Văn Hóa Phật Giáo chủ đề Chuyển hóa Khổ đau để chào mừng ngày Đản Sanh của Đức Từ Phụ Thích Ca Mâu Ni lần thứ 2645. Đặc San năm nay (lần thứ ba) được sự góp mặt của 50 văn thi sĩ và 3 họa sĩ trong và ngoài nước. Chúng tôi kính gởi đến quý Trang Nhà để nhờ phổ biến rộng rãi đến mọi độc giả gần xa. Độc giả muốn mua sách in có thể đặt trực tiếp trên mạng toàn cầu Amazon: https://www.amazon.de/gp/product/1716272939/ref=dbs_a_def_rwt_bibl_vppi_i7 Nam Mô Thích Ca Mâu Ni Phật Kính Mail Nhóm Chủ Biên Phù Vân - Nguyên Đạo - Nguyên Minh
19/04/2021(Xem: 11112)
Phật Điển Phổ Thông DẪN VÀO TUỆ GIÁC PHẬT Common Buddhist Text: Guidance and Insight from theBuddha. Copyright by Mahachulalongkorn-rajavidyalaya (MCU). Chủ biên bản Việt ngữ: LÊ MẠNH THÁT - TUỆ SỸ Ban biên dịch: Thích Hạnh Viên, Thích Nữ Khánh Năng, Thích Thanh Hòa, Pháp Hiền Cư sỹ, Nguyễn Quốc Bình. Dịch Việt và Ấn hành với Hợp đồng chuyển nhượng bản quyền của Viện Đại Học Mahachulalongkorn-rajavidyalaya (MCU), Thái-lan, 2018. Nhà xuất bản Hồng Đức, 2019. Hương Tích ấn hành.
31/03/2021(Xem: 13831)
Sách này sẽ được ghi theo hình thức biên niên sử, về các sự kiện từ ngày 8/5/1963 cho tới vài ngày sau cuộc chính biến 1/11/1963, nhìn từ phía chính phủ Hoa Kỳ. Phần lược sử viết theo nhiều tài liệu, trong đó phần chính là dựa vào tài liệu Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ “Foreign Relations of the United States 1961-1963”, một số tài liệu CIA lưu giữ ở Bộ Ngoại Giao, và một phần trong sách “The Pentagon Papers” của Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ, ấn bản Gravel Edition (Boston: Beacon Press, 1971). Vì giờ tại Việt Nam và Hoa Kỳ cách biệt nhau, cho nên đôi khi ghi ngày sai biệt nhau một ngày.
24/03/2021(Xem: 9059)
Kính Pháp Sư Hiền Đức, tôi là một tu sĩ đạo hiệu Thích Thắng Hoan có vài lời tâm niệm gởi đến Pháp Sư, một hôm tôi đến chùa Trung Hoa, tại Mỹ Quốc, tìm xin một số sách Phật đem về đọc để giải trí trong lúc tuổi già (đã 94 tuổi), hai người trong chùa mang ra cho tôi một thùng giấy cho tôi chọn lựa, họ nói đây là những sách cho không ông cứ tự nhiên, trong khi tìm kiếm, bổng nhiên tôi gặp một quyển sách nhan đề là “Phật Giáo Dữ Nhân Sanh, liền mở ra đọc tổng quát tại chỗ về mục lục và lướt qua tiểu sử của tác giả liền tò mò xin về đọc.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]