Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Trang 02

07/06/201114:12(Xem: 3735)
Trang 02

KINH ÐẠI BÁTNIẾT BÀN
DịchTừ Hán Sang Việt: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
TịnhXá Minh Ðăng Quang, Hoa Kỳ Xuất Bản 1990

XXIII
PHẨMSƯ TỬ HỐNG BỒ TÁT THỨ HAI MƯƠI BA

Trang02

NầyThiện nam tử ! tất cả chúng sanh đã có Phật tánh cớ gìlại phải tu tập công đức ? Nếu nói tu tập là liễu nhơnthời đã đồng hư hoại như chất lạc.

Nếunói trong nhơn quyết định có quả thời giới, định, huệlẽ ra không Tăng trưởng. Nhưng người đời trước kia khônggiới, định, huệ theo sư trưởng học tập thời lần lầnđược có giới, định, huệ. Nếu cho rằng sư trưởng dạydổ là liễu nhơn, chính lúc dạy dỗ thời chưa có giới,định, huệ, nếu là liễu đó, lẽ ra là liễu thứ chưa có,sao lại gọi rằng liễu giới, định, huệ làm cho đượcTăng trưởng.

SưTử Hống Bồ Tát bạch rằng : “ Thế Tôn ! Nếu liễu nhơnlà không, sao lại được rằng có sữa có lạc ?”

NầyThiện nam tử ! Sự đáp nạn của thế gian có ba : Một làchuyển đáp, như trước kia nói cớ gì gọi là giới ? Do vìchẳng ăn năn nhẫn đến vì được Đại Niết Bàn. Hai lànín lặng mà đáp, như có Phạm Chí đến hỏi ta rằng : Ngãlà thường ư ? Lúc đó ta nín lặng. Ba là nghi đáp như trongkinh đây nói : Nếu liễu nhơn có hai tánh cớ gì trong sửachẳng được có hai thứ ?

NầyThiện nam tử ! Nay ta chuyển đáp, như người đời nóirằng có sửa có lạc, vì quyết định được nên đượcgọi rằng có sửa có lạc. Phật tánh cũng như vậy có chúngsanh có Phật tánh do vì sẽ được thấy.

_ BạchThế Tôn ! Như lời Phật vừa nói không được đúng nghĩa.Quá khứ đã diệt, vị lai chưa đến thế nào gọi là có? Nếu cho rằng sẽ có mà gọi là có đó, thời không đúng.Như người đời thấy không con cái bèn nói không con. Tấtcả chúng sanh không có Phật tánh, tại sao nói rằng tất cảchúng sanh đều có Phật tánh.

_ NầyThiện nam tử ! Quá khứ gọi rằng có. Ví như trồng quítmọng mọc lên thời hột hư mất. Từ mọng lên cây nhánhlá, nhẫn đến kết trái, lúc trái chín bèn có vị ngọt.

NầyThiện nam tử ! Vị ngọt nầy đều không từ nơi hột, mọng,cây, nhánh, bông v.v… Lúc trái chín thời sanh vị ngọt, vịngọt nầy trước không nay có. Dầu trước không nay có màchẳng phải là chẳng do nơi hột lúc trước. Thế nên hộtlúc trước dầu đã quá khứ nhưng được gọi là có. Do nghĩanầy nên quá khứ gọi rằng có.

Thếnào lại gọi rằng vị lai là có ? Ví như có người gieo trồngcây mè. Có kẻ hỏi cớ gì trồng thứ nầy ? _ Đáp rằngvì có dầu.

Thiệtra thời chưa có dầu, khi cây mè đã già lấy hột hấp sôi,giã ép rồi sau mới có dầu chảy ra. Nên biết rằng ngườinầy trả lời như vậy chẳng phải là hư vọng. Do nghĩa nầynên gọi rằng vị lai có.

Lạithế nào gọi rằng quá khứ có ư ? Ví như có người lénmắng nhà vua, trải qua nhiều năm. Lúc sau vua nghe được đòiđến hỏi cớ sao mắng ta ? _ Tâu Đại Vương ! Tôi chẳngmắng vì người mắng đó mất. _ Vua bảo : Kẻ mắng cùngthân ta cả hai đều còn tại sao lại nói rằng mất ? Ngườikia không trả lời được nên phải bị tội chết.

NầyThiện nam tử ! Hai tánh ấy thiệt không mà quả chẳngmất, đây gọi là quá khứ có.

Thếnào lại gọi rằng vị lai có ? Như có người đến nhà thợgốm hỏi có bình không ? Đáp rằng có. Thiệt ra thợ gốmnầy chưa có bình vì có đất sét nên đáp rằng có bình,phải biết rằng thợ gốm nầy chẳng phải vọng ngữ. Trongsữa có chất lạc, chúng sanh có Phật tánh cũng như vậy,muốn thấy Phật tánh, phải nên quán sát thời tiết hìnhsắc, do đây nên ta nói rằng tất cả chúng sanh đều có Phậttánh thiệt chẳng hư vọng.

SưTử Hống Bồ Tát bạch rằng : “ Thế Tôn ! Tất cảchúng sanh không có Phật tánh, làm sao mà được vô thượngBồ Đề?

_ Dochánh nhơn, nên khiến chúng sanh được vô thượng Bồ Đề.Gì là chánh nhơn ? Chính là Phật tánh.

_ BạchThế Tôn ! Nếu hột Ni câu đà không có cây ni câu đà, tạisao gọi là hột ni câu đà mà chẳng gọi là hột khư đàla?

BạchThế Tôn ! Như họ Cù Đàm chẳng được gọi là họ A KỳDa. Họ A Kỳ Da lại chẳng được gọi là Cù Đàm. HộtNi Câu Đà chẳng được gọi là hột Khư Đà La, còn hộtKhư Đà La chẳng được gọi là hột Ni Câu Đà. Cũng nhưđức Thế Tôn chẳng được bỏ lìa họ Cù Đàm. Phật tánhcủa chúng sanh cũng như vậy. Do nghĩa nầy nên biết rằngchúng sanh đều có Phật tánh.

Phậtbảo : “ Nầy Thiện nam tử ! Nếu nói rằng trong hột cócây Ni Câu Đà thời không đúng. Vì nếu là có cớ sao chẳngthấy ?

NầyThiện nam tử ! Như những vật trong đời vì có nhơn duyênnên chẳng thấy được. Ở xa chẳng thấy được như dấuchim bay giữa hư không. Vì gần nên chẳng thấy được nhưlông nheo rớt vào mắt. Vì hư hoại nên chẳng thấy như ngũcăn đã hư. Vì loạn tưởng nên chẳng thấy như tâm chẳngchuyên nhứt. Vì nhỏ nên chẳng thấy như vi trần. Vì bịche nên chẳng thấy như tinh tú bị mây phủ . Vì nhiều nênchẳng thấy như hột mè trên đống lúa. Vì tương tợ nênchẳng thấy như chẳng thấy như hột đậu trên đống đậu.Cây ni câu đà chẳng đồng tám thứ nhơn duyên như vậy, nếu nó là có tại sao chẳng thấy ? Nếu cho rằng vì nhỏ bịche nên chẳng thấy thời không đúng, vì tướng cây tothô. Nếu cho rằng tánh vi tế thời thế nào lại thành câylớn. Nếu cho rằng bị che ngăn thời lẽ ra luôn luôn chẳngđược thấy. Cây trước kia không có tướng thô to, nay thờithấy cây to, nên biết rằng tướng to nầy vốn không có tánh.Trước kia không có tánh thấy nay thời thấy được, nên biết rằng sự thấy nầy cũng vốn không có tánh. Hộtcũng như vậy : Trước không có cây nay thời có đó, như thếcó lỗi gì?

_ BạchThế Tôn ! Như lời Phật nói có hai thứ nhơn : Chánh nhơnvà liễu nhơn. Hột ni câu đà do đất, nước, phân làm liễunhơn khiến nhỏ được thành to.

NầyThiện nam tử ! Nếu trước đã có thời cần gì đến liễunhôn ? Nếu trước là không thời liễu nhơn là liễu cái gì? Nếu trong hột Ni câu đà vốn không có tướng to, do liễunhơn bèn sanh to, cớ sao chẳngsanh cây khư đà la, vì rằnghai thứ đều là không cả.

NầyThiện nam tử ! Nếu như nhỏ chẳng thấy được, thời lẽra to có thể thấy. Như một vi trần thời chẳng thấyđược, nhiều vi trần hòa hiệp thời thấy được. Trong hột lẽ ra cũng như vậy, to thời có thể thấy, vì trong đó đãcó mọng cây, bông trái, trong mỗi mỗi trái có vô lượnghột, trong mỗi mỗi hột có vô lượng cây nên gọi là thô,vì là thô nên lẽ ra có thể thấy.

Nếuhột ni câu đà có tánh cây ni câu đà mà mọc lên cây, con mắt thấy hột nầy bị lửa đốt cháy thời lẽ ra tánhđốt cháy nầy cũng là đã có trước. Nếu tánh cháy vốnđã có thời lẽ ra cây chẳng mọc lên. Nếu tất cả phápvốn đã có sanh diệt, cớ sao trước sanh rồi sau diệt màchẳng đồng một thời ư ? Do nghĩa nầy nên biết là khôngcó tánh.

_ BạchThế Tôn ! Nếu hột ni câu đà vốn không tánh cây mà sanhra cây, thời hột nầy cớ gì chẳng sanh ra dầu, vì cả haitánh đều là không cả ?

_ NầyThiện nam tử ! Hột ấy cũng có thể sanh ra dầu, dầu vốnkhông có tánh dầu, nhưng do nhơn duyên mà có.

_ BạchThế Tôn ! Cớ sao không gọi là dầu mè ư ?

_ NầyThiện nam tử ! Vì chẳng phải là mè.

Nhưduyên lửa sanh ra lửa, duyên nước sanh ra nước. Dầu hai thứlửa và nước đều từ nơi duyên, nhưng chẳng thể có lẫnnhau được. Hột ni câu đà và dầu mè cũng như vậy, tuy cảhai đều từ nơi duyên mà đều chẳng sanh lẫn nhau.

Tánhchất của hột ni câu đà hay trị bịnh hàn lãnh. Tánh chấtcủa dầu mè hay trị được bịnh phong.

Nhưcây mía, do nhơn duyên mà thành các thứ đường : Đườngphèn, đường đen. Dầu cả hai thứ đường đều từ nơichất mía, nhưng sắc tướng khác nhau, đường phèn trị bịnhnhiệt, đường đen trị hàn lãnh.

_ BạchThế Tôn ! Như trong sữa không tánh lạc, trong mè không tánhdầu, trong hột ni câu đà không tánh cây, trong đất sét khôngtánh bình tất cả chúng sanh không tánh Phật, cứ theo đâythời như trước kia đức Phật nói : Tất cả chúng sanh đềucó Phật tánh vì thế nên được vô thượng Bồ Đề. Nghĩanầy xét ra không được đúng, vì trời và người đều vôtánh. Vì vô tánh nên người có thể sanh làm trời, trời cóthể sanh làm người. Đều là do nhơn duyên của nghiệp, khôngphải do nơi tánh.

ĐạiBồ Tát do nhơn duyên của nghiệp nên được vô thượng BồĐề.

Nếucác chúng sanh có Phật tánh thời do nhơn duyên gì mà nhứtxiển đề dứt căn lành phải đọa địa ngục ? Nếu BồĐề tâm là Phật tánh, thời nhứt xiển đề lẽ ra chẳngdứt. Nếu là có thể dứt được, sao lại được nói rằngPhật tánh là thường ? Còn nếu chẳng phải là thường thờikhông gọi là Phật tánh.

Nếuchúng sanh có Phật tánh, cớ sao gọi là sơ phát tâm ư ? Tạisao lại gọi là bực thối chuyển , bực bất thối chuyển? Nếu là bực thối chuyển thời nên biết rằng người nầykhông có Phật tánh.

BạchThế Tôn ! Đại Bồ Tát nhứt tâm hướng đến vô thượngBồ Đề, đạitừ, đại bi, thấy tội lỗi của phiền nãosanh tử. Quán sát Đại Niết Bàn không có các lỗi sanh tửphiền não. Tin ngôi Tam Bảo và nghiệp nhơn quả báo, thọtrì giới cấm. Những tâm hạnh như vậy gọi là Phật tánh.

Nếurời lìa những tâm hạnh nầy mà có Phật tánh, thời cầngì dùng những tâm hạnh nầy để làm nhơn duyên.

BạchThế Tôn ! Như sữa chẳng chờ duyên tất sẽ thành lạc, nhưngthành tô phải chờ đủ duyên : Nhơn công, nước, bình, dây,khuấy.

Cũngvậy, những chúng sanh có Phật tánh lẽ ra không cần nhơnduyên cũng được vô thượng Bồ Đề.

Nếulà quyết định có Phật tánh, cớ sao người tu hành thấysự khổ của ba ác đạo,
sanh, gìa, bịnh, chết mà thối tâm ? Nếu quyêt định có Phậttánh, cũng chẳng cần tu sáu môn Ba La Mật, lẽ ra được vôthượng Bồ Đề, như sữa chẳng cần duyên mà thành lạc.Nhưng thật ra phải nhờ tu sáu môn Ba La Mật mới được vôthượng Bồ Đề.

Donhững nghĩa nầy nên biết rằng chúng sanh đều không có Phậttánh.

Nhưtrước kia đức Phật nói Tăng Bảo là thường trụ. Đã làthường thời tất chẳng phải là vô thường. Đã chẳng phảivô thường, tại sao Tăng Bảo được thành vô thượng BồĐề.

Tăngnếu là thường, sao lại nói rằng tất cả chúng sanh đềucó Phật tánh ?

BạchThế Tôn ! Giả sử nếu chúng sanh từ trước đến nay khôngtâm Bồ Đề, cũng không tâm vô thượng Bồ Đề, về sau mớicó, thời Phật tánh của chúng sanh cũng lẽ ra trước không,sau mới có.

Donghĩa trên đây nên tất cả chúng sanh lẽ ra không có Phậttánh.

Phậtnói : “ Lành thay ! Lành thay ! Ông từ lâu đã biết rõ nghĩaPhật tánh. Nay ông vì chúng sanh mà thỉnh hỏi như vậy.

Tấtcả chúng sanh thiệt có Phật tánh.

NầyThiện nam tử ! Ông nói rằng nếu chúng sanh có Phật tánhlẽ ra chẳng nên có người sơ phát tâm. Phải biết rằngtâm không phải là Phật tánh, vì tâm vốn vô thường, cònPhật tánh là thường.

Ôngnói cớ sao có người thối tâm. Thật ra không có thối tâm.Nếu tâm có thối thời tất là trọn chẳng thể được vôthượng Bồ Đề, vì được chậm nên gọi đó là thối.

TâmBồ Đề nầy thiệt chẳng phải là Phật tánh,vì nhứt xiểnđề dứt căn lành đọa địa ngục.

Nếutâm Bồ Đề là Phật tánh thời hạng nhứt xiển đề, chẳngđược gọi là nhứt xiển đề. Tâm Bồ Đề cũng chẳng đượcgọi là vô thường. Do đây nên biết rằng tâm Bồ Đề thiệtchẳng phải là Phật tánh.

NầyThiện nam tử ! Ông nói nếu chúng sanh có Phật tánh thờilẽ ra chẳng cần nhờ nhơn duyên mới được vô thượng BồĐề, như sữa thành lạc. Lời nầy không đúng nghĩa. Vì ôngđã nói phải có năm duyên mới thành sanh tô, nên biết rằngPhật tánh cũng như vậy.

Nhưtrong các thứ đá có vàng, có bạc, có đồng, có sắt. Bốnthứ đá đều bổn thọ chất tứ đại, đồng tên là đá,đồng là vật có thiệt, nhưng mỗi thứ đá sản xuất mỗichất không đồng nhau, phải cần nhờ đủ các duyên mớisản xuất ra chất vàng, bạc, đồng, sắt. Do đây nên biếtrằng trước vốn không có, chờ đủ duyên mà sau mới có.

Phậttánh của chúng sanh chẳng gọi là Phật. Phải do công đứcđược thấy Phật tánh, rồi sau chúng sanh mới thành Phật.

Ôngnói chúng sanh đều có Phật tánh tại sao lại không thấy.Lời nầy không đúng nghĩa. Vì các duyên công đức chưa đầyđủ nên không được thấy.

Donghĩa nầy nên ta nói có hai nhơn : Chánh nhơn và duyênnhơn.

Chánhnhơn gọi là Phật tánh, duyên nhơn là phát tâm Bồ Đề. Dohai nhơn duyên nầy mà được vô thượng Bồ Đề, như đủduyên thời sản xuất vàng.

Ôngnói Tăng Bảo thường trụ thời lẽ ra chúng sanh không cóPhật tánh đó. Phải biết rằng Tăng gọi là hòa hiệp. Hoàhiệp nầy có hai : Thế gian hòa hiệp và đệ nhứt nghĩa hòahiệp.

Thếhòa hiệp gọi là Thanh Văn Tăng. Nghĩa hòa hiệp gọi là BồTát Tăng.

ThếTăng là vô thường. Phật tánh là thường trụ. Như Phậttánh, nghĩa Tăng cũng là thường trụ.

Lạicó Tăng gọi là pháp hòa hiệp, chính là nói mười haibộ kinh. Mười hai bộ kinh là thường, nên ta nói phápvà Tăng là thường trụ.

NầyThiện nam tử ! Tăng gọi là hòa hiệp. Hòa hiệp đây chínhlà nói mười hai nhơn duyên. Trong mười hai nhơn duyên cũngcó Phật tánh. Mười hai nhơn duyên là thường, Phậttánh cũng vậy. Do đây nên ta nói Tăng có Phật tánh.

Ôngnói : Nếu chúng sanh có Phật tánh, tại sao có kẻ thối, ngườikhông thối ?

NầyThiện nam tử ! Lóng nghe ! Lóng nghe ! Ta sẽ phân biệt giảithuyết cho :

Cómười ba điều làm cho Bồ Tát thối chuyển đạo vô thượngBồ Đề : Một là tâm chẳng tin ; hai là tâm chẳng cố làm; ba là tâm nghi ; bốn là tham tiếc thân mạng và của cải; năm là có quan niệm quá sợ sệt đối với Niết Bàn : “Thế nào làm cho chúng sanh diệt độ hẳn” ; sáu là tâm chẳngkham nhẫn ; bảy là tâm chẳng điều nhu ; tám là sầunão ; chín là chẳng thích vui ; mười là phóng dật ; mườimột là tự khinh thân mình ; mười hai là tự thấy phiềnnão không thể phá ; mười ba là không thích những pháp môntiến tới Bồ Đề.

Trênđây là mười ba điều làm cho Bồ Tát thối chuyển đạoBồ Đề vô thượng.

Lạicó sáu điều làm hư tâm Bồ Đề : Một là bỏn xẻn pháp; hai là có tâm chẳng lành chẳng đối với chúng sanh ; balà gần gũi bạn ác ; bốn là chẳng siêng năng tinh tiến ;năm là quá tự kiêu mạn ; sáu là kinh doanh nghề nghiệp thếgian.

NầyThiện nam tử ! Có người được nghe chư Phật là bực Thầycủa cõi Trời và nhơn gian, là đấng tối thượng trong tấtcả chúng sanh, hơn tất cả hàng Thanh Văn Duyên Giác, là bựccó pháp nhãn sáng suốt thấy rõ tất cả pháp, có thể đưachúng sanh qua khỏi biển khổ lớn. Nghe như vậy rồi, ngườinầy phát nguyện lớn : Nếu trong đời có đấng vô thượngnhư vậy, tôi cũng sẽ được. Do đây nên người nầy pháttâm vô thượng Bồ Đề.

Hoặccó người nhờ người khác khuyên dạy mà phát tâm Bồ Đề,hoặc có người nghe nói Bồ Tát trãi qua vô số kiếp thậthành những khổ hạnh rồi sau mới được vô thượng BồĐề. Nghe rồi tự nghĩ rằng : Nay tôi không thể kham nổinhững khổ hạnh như vậy, thời làm sao được vô thượngBồ Đề. Do đây nên có thối tâm.

Lạicòn có năm điều thối tâm Bồ Đề : Một là thích xuấtgia theo ngoại đạo ; hai là chẳng tu tâm đại từ ; ba làưa tìm lỗi pháp sư; bốn là thường thích ở trong vòngsanh tử ; năm là không thích thọ trì đọc tụng biên chépgiải thuyết mười hai bộ kinh.

Lạicũng có hai pháp làm thối tâm Bồ Đề : Một là tham ưa ngũdục ; hai là chẳng thể cung kính tôn trọng ngôi Tam Bảo.

NầyThiện nam tử ! Do những nhơn duyên như vậy làm cho Bồ Tátthối tâm Bồ Đề.

Thếnào lại gọi là tâm bất thối? Có người nghe rằngđức Phật có thể độ chúng sanh khỏi sanh lão bịnh tử.Là đấng chẳng học với Thầy; tự tu tập được vô thượngBồ Đề. Nếu đạo Bồ Đề là quả có thể được, tôicũng tu tập quyết được quả ấy. Do đây nên người nầyphát tâm Bồ Đề. Bao nhiêu công đức tu tập không luận nhiềuít đều hồi hướng cả về vô thượng Bồ Đề.

Ngườinầy thệ nguyện thường được gặp Phật cùng đệ tử Phật,thường được nghe pháp đại thừa thâm diệu nhãn nhĩtỷ thiệt thân, cả năm căn đều hoàn cụ, nếu gặp cảnhkhổ nạn cũng quyết không mất tâm Bồ Đề nầy.

Lạinguyện rằng : Mong chư Phật, chư Bồ Tát luôn có lònghoan hỷ đối với tôi, nguyện tôi đủ năm căn lành. Nếucó chúng sanh nào chặt chém đánh đập giết hại tôi, đốivới kẻ nầy, tôi khởi lòng đại từ, lòng vui mừng, vìnhờ họ mà tôi được thêm lớn công hạnh Bồ Đề. Nếukhông có họ, tôi làm sao được quả vô thượng Bồ Đề.

Lạinguyện rằng : Đời đời tôi được khỏi những thânnữ, thân hai căn, không căn ; không bị làm nô lệ, không gặpchủ hung ác, không thuộc dưới quyền vua chúa ác ; chẳngsanh vào nước ác.

Nếuđược thân xinh tốt, dòng họ cao sang, giàu có, nguyện tôikhông có lòng kiêu mạn.

Nguyệntôi thường được nghe mười hai bộ kinh và thọ trì, đọctụng, biên chép, giải thuyết. Lúc tôi giảng thuyết cho chúngsanh, nguyện cho thính gỉa đều kính tin không nghi, chẳng sanhác tâm đối với tôi.

Nguyệncho tôi thà nghe pháp ít mà hiểu được nhiều nghĩa vị, chẳngmuốn nghe nhiều mà chẳng rõ nghĩa lý.

Nguyệnlà thầy của tâm mình, chớ chẳng bị tâm sai sử. Thân ,khẩu, ý, ba nghiệp chẳng giao tiếp với kẻ ác, điều ác.Có thể làm cho tất cả chúng sanh được an lạc. Giới hạnhnơi thân cũng như trí huệ nơi tâm đều vững chắc như núikhông bị lay động. Vì muốn thọ trì chánh pháp vô thượngnên chẳng lẫn tiếc thân mạng và tài sản. Chẳng đem vậtbất tịnh làm phước nghiệp. Tâm không tà vạy. Tự sốngvới chánh mạng. Nếu thọ ơn thời nhớ mãi, trả nhiều hơnthọ. Biết rành những sự nghiệp thế gian ; hiểu rành ngônngữ của các địa phương, của mọi loài chúng sanh.

Đọctụng biên chép mười hai bộ kinh không hề nhàm mõi biếnlười.

Nếucó chúng sanh không thích nghe kinh, thời tôi tìm phương tiệntiếp dẫn cho họ ưa nghe kinh.

Tôithường nói lời diệu hòa, miệng không tuyên điều xấuác.

Chúngbất hòa, tôi làm cho họ hòa hiệp.

Ngườilo sợ, tôi làm cho họ được vững lòng.

Thờikỳ đói kém, tôi làm cho mọi người được no đủ. Đờitật bịnh thời tôi sẽ làm vị đại lương y tự có đủtài bảo cũng như thuốc men, làm cho người bịnh đều đượclành bịnh.

Kiếpbinh đao, tôi sẽ có thế lực trừ dứt hết sự tương tàntương hại.

Tôisẽ làm cho chúng sanh khỏi các điều kinh sợ như bị giết,bị bắt giam nhốt đánh đập, những nạn về nước lụt,hỏa hoạn, nạn vua chúa, nạn giặc cướp, sự nghèo khốn,phá giới, danh xấu, ác đạo.

Vớicha mẹ sư trưởng tôi rất kính mến, với kẻ thù nghịchtôi khởi lòng từ.

Tôithường tu tập sáu chánh niệm, môn không tam muội, mườihai nhơn duyên, qúan sanh diệt vô thường, sở tức, thiên hạnh,phạm hạnh, thánh hạnh, Kim Cang Tam Muội, Thủ Lăng Nghiêmđịnh. Nơi không có ngôi Tam Bảo, nguyện tôi được tâm tịchtịnh, nếu lúc thân tôi bị phải sự rất khổ, nguyện khônghư mất tâm Bồ Đề vô thượng. Chẳng sanh lòng tri túc đốivới Thanh Văn Bích Chi Phật.

Chỗkhông ngôi Tam Bảo tôi thường xuất gia trong hàng ngoại đạođể phá tà kiến của họ, đặng pháp tự tại, đặngtâm tự tại, nơi pháp hữu vi thấy rõ sự lỗi lầm.

Nguyệntôi sợ sệt đạo quả nhị thừa như người tiếc thân sợchết.

Nguyệntôi vì chúng sanh nên thích ở trong ba ác đạo như chúng sanhthích ở cõi trời Đao Lợi.

Nguyệntôi vì mỗi mỗi chúng sanh mà chịu khổ địa ngục trong vôlượng kiếp chẳng sanh lòng hối hận.

Nguyệntôi thấy người khác được lợi ích chẳng sanh lòng ganhghét, thường có lòng tùy hỉ như chính mình được.

Nếugặp ngôi Tam Bảo, nguyện tôi sẽ đem y phục đồ uống ăn,thuốc men đồ nằm nhà cửa đèn sáng hoa hương kỹ nhạc,phan lọng, bảy báu cúng dường.

Nếuthọ giới pháp của Phật nguyện tôi giữ gìn bền chắc trọnchẳng sanh lòng hủy phạm. Nếu nghe khổ hạnh khó làm củaBồ Tát, trong lòng vui mừng chẳng hối hận.
Tựbiết những việc đời trước trọn chẳng gây nghiệp thamsân si. Chẳng vì quả báo mà chứa nhóm nghiệp nhơn. Đốivới sự vui hiện tại chẳng sanh lòng tham đắm.

NầyThiện nam tử !Nếu có người phát được những nguyện nhưvậy thời gọi là Bồ Tát trọn chẳng thối thất tâm BồĐề, cũng gọi là thí chủ có thể thấy đức Như Lai, thấyrõ Phật tánh, có thể điều phục chúng sanh độ khỏisanh tử, có thể hộ trì chánh pháp vô thượng, có thể đượcđầy đủ sáu môn Ba La Mật.

NầyThiện nam tử ! Do nghĩa nầy nên tâm bất thối chẳng gọilà Phật tánh !

NầyThiện nam tử ! Ông chẳng nên vì tâm có thối chuyển mà chorằng các chúng sanh không có Phật tánh. Thí như có hai ngườiđều nghe phương khác có núi Thất Bảo, trong núi có suốinước trong vị ngọt. Nếu ai đến được núi ấy thời vĩnhviễn khỏi sự nghèo khốn. Ai uống được nước suối ấythời sống lâu muôn tuổi. Chỉ vì đường sá xa xôi hiểmtrở nhiều tai nạn. Hai người ấy đều muốn cùng nhau đimột người sắm sửa các thứ vật cần dùng đi đường,một người thời đi tay không cùng nhau đồng tiến về hướngnúi báu. Dọc đường gặp người mang nhiều của báu đi ngượcchiều. Hai người hỏi rằng : Xin hỏi ông xứ đó thiệt cónúi bảy báu ư ? Đáp rằng : Thiệt có núi báu, chính tôiđã được bảo vật và được uống nước suối ngọt. Chỉlo rằng đường xa hiểm trở, trộm cướp quá nhiều, hầm hố gai chông, lại thêm thiếu nước, thiếu cỏ. Muônngàn người đi ít người đến được.

Nghekhách nói một người ăn năn cho rằng đường sá gian nan khốnkhổ như vậy, vô lượng người đi không mấy người đượcđến, tôi làm thế nào có thể đến được núi báu. Hiệntại sản nghiệp của tôi cũng tạm đủ dùng. Nếu gắng gượngđi hoặc có thể chẳng toàn thân mạng. Thân mạng đã chẳngcòn, còn mong gì được trường thọ.

Mộtngười nói rằng : Có người đến được thời tôi cũng cóthể đến được. Tôi quyết đến núi báu lượm lấy bảovật cùng uống nước suối ngọt, nếu chẳng toại nguyệncó chết cũng cam lòng.

Lúcđó hai người, một thời ăn năn trở về, một thời tiếntới núi báu. Người sau nầy đến được núi kia, uống nướcsuối ngọt, mang nhiều bảo vật trở về nhà, dùng của ấyphụng dưỡng cha mẹ cung cấp họ hàng thân thuộc.

Bấygiờ người ăn năn thối vế trước kia thấy kết quả tốtđẹp của người nầy trong lòng phát nhẫn : Anh ấy mang đượcbảo vật về nhà, tại sao ta cứ ở mãi bên đây mà chẳngdám đi ? Liền sắm sửa hành trang đến thẳng núi báu.

NầyThiện nam tử ! Núi báu kia dụ cho Đại Niết Bàn. Nước suốingọt dụ cho Phật tánh. Hai người kia dụ cho hai vị Bồ Tátsơ phát tâm. Con đường hiểm ác dụ cho sanh tử. Người đingược chiều gặp dọc đường dụ cho đức Phật Thế Tôn.Trộm cướp dụ cho tứ ma. Hầm hố gai chông dụ cho các phiềnnão. Không nước không cỏ dụ cho chẳng tu tập đạo BồĐề. Người nghe khó ăn năn trở về dụ cho Bồ Tát thốichuyển. Người dũng mãnh thẳng tiến dụ cho Bồ Tát bấtthối.

NầyThiện nam tử ! Phật tánh của chúng sanh thường trụ chẳngbiến đổi. Như con đường hiểm trở kia không ai có thểbảo rằng, vì có người ăn năn trở lại mà làm cho con đườngthành vô thường. Phật tánh cũng như vậy, trong đạo BồĐề trọn không có sự thối thất. Như người ăn năn kiathấy bạn mình đặng của báu mang về nhà giàu có tự tạicúng dường cha mẹ cung cấp thân thuộc, an vui sung sướng.

Dođó bèn phát tâm thẳng đến núi báu chẳng tiếc thân mạngBồ Tát thối chuyển cũng như vậy.

NầyThiện nam tử ! Tất cả chúng sanh quyết định sẽ đượcthành vô thượng Bồ Đề. Do nghĩa nầy nên trong kinh Phậtnói tất cả chúng sanh nhẫn đến kẻ tạo tội ngũ nghịch,phạm tứ trọng và nhứt xiển đề đều có Phật tánh.

SưTử Hống Bồ Tát bạch rằng : “Thế Tôn ! Bồ Tát thế nàocó thối cùng chẳng thối ?”

_ NầyThiện nam tử ! Nếu có Bồ Tát tu tập nghiệp nhơn ba mươihai tướng tốt của Như Lai thời được gọi là bực bấtđộng chuyển, là thương xót tất cả chúng sanh, gọi là hơntất cả hàng Thanh Văn Duyên Giác, là bực A Bệ Bạt Trí.

NầyThiện nam tử ! Nếu Đại Bồ Tát trì giới chẳng lay động,tâm bố thí chẳng dời đổi, lời nói chơn thật như núiTu Di, nghiệp duyên trên đây được tướng tốt dưới bànchưn đầy bằng.

NếuĐại Bồ Tát ở nơi cha mẹ, Hòa Thượng, Sư Trưởng nhẫnđến các loài súc sanh, đem của cải đúng pháp cúng dườngcung cấp, do nghiệp duyên nầy được tướng tốt dưới lòngbàn chưn có tướng thiên bức luân.

NếuĐại Bồ Tát chẳng sát sanh chẳng trộm cướp, đối vớicha mẹ sư trưởng thường có lòng hoan hỷ, do nghiệp duyênnầy được thành ba tướng tốt : Một là ngón tay dài vót,hai là gót chân dài, ba là thân mình vuông thẳng, ba tướngtốt nầy đồng do một nghiệp duyên.

NếuĐại Bồ Tát tu tập tứ nhiếp pháp để nhiếp thủ chúngsanh, do nghiệp duyên nầy được tướng tốt ngón tay có mànglưới như ngỗng chúa trắng.

NếuĐại Bồ Tát lúc cha mẹ sư trưởng có bịnh khổ, tự taytắm rửa lau chùi dắt đở thoa bóp, do nghiệp nầy đượctướng tốt, tay chưn dịu dàng.

NếuĐại Bồ Tát trì giới nghe pháp, cùng bố thí không nhàm chán,do nghiệp duyên nầy được tướng tốt mắt cá lóng đốtđều no đủ, lông trong thân đều xoắn lên trên.

NếuĐại Bồ Tát chuyên tâm nghe pháp và diễn thuyết chánh pháp,do nghiệp duyên nầy được tướng tốt đùi vế như nai chúa.

NếuĐại Bồ Tát đối với chúng sanh chẳng có lòng tổn hại,ăn uống biết đủ thường ưa bố thí khám bịnh, cung cấpthuốc men do nghiệp duyên nầy được tướng tốt, thân hìnhtròn đủ như cây Ni Câu Đà, lúc đứng hai tay dài quá đầugối, đỉnh đầu có nhục kế vô kiến đảnh tướng.

NếuĐại Bồ Tát thấy người gặp sự kinh sợ liền cứu hộcho, thấy người lõa lồ rách rưới thời bố thí y phụcdo nghiệp duyên nầy được tướng tốt mã âm tàng.

NếuĐại Bồ Tát gần gũi người trí xa lìa kẻ ngu, vui vẻ hỏiđáp quét dọn đường đi, do nghiệp nầy da thứa mịn màng,lông trên thân xoay về phía hữu.

NếuĐại Bồ Tát thường dùng y phục đồ uống ăn đồ nằmthuốc men hương hoa đèn đuốc bố thí cho người, do nghiệpnầy đặng thân màu vàng ròng thường có ánh sáng chói rỡ.

NếuĐại Bồ Tát lúc bố thí những vật báu quý có thể đemcho chẳng tiếc chẳng nghĩ là phước điền hay chẳng phảiphước điền, do nghiệp duyên nầy được tướng tốt bảychỗ trên thân được no đủ.

NếuĐại Bồ Tát lúc bố thí lòng chẳng nghi ngờ, do nghiệp duyênnầy được tiếng nói dịu dàng.

NếuĐại Bồ Tát đúng như pháp làm ra của cải đem bố thí,do nghiệp duyên nầy được tướng tốt nơi thân chỗ xươngthiếu đều đầy đủ thân như sư tử vương, cánh tay thondài.

NếuĐại Bồ Tát xa lìa lưỡng thiệt ác khẩu và tâm giận hờn,do nghiệp duyên nầy đủ bốn mươi cái răng trong trắngsạch sẽ, bằng thẳng khít khao.

NếuĐại Bồ Tát có lòng đại từ bi đối với chúng sanh do nghiệpduyên nầy được tướng hai răng nanh tốt.

NếuĐại Bồ Tát thường phát nguyện : Có người đến cầu xinthời cấp cho theo ý của họ xin, do nghiệp duyên nầy đượcgò má như sư tử.

NếuĐại Bồ Tát cung cấp đồ uống ăn theo sở thích của chúngsanh do nghiệp duyên nầy được tướng tốt trong cổ họngthường rịn chất cam lộ thượng vị.

NếuĐại Bồ Tát tự thật hành mười điều lành cùng giáo hóangười, do nghiệp duyên nầy được tướng tốt lưỡi rộngdài.

NếuĐại Bồ Tát chẳng rao nói lỗi xấu của người chẳng hủybáng chánh pháp, do nghiệp duyên nầy đặng tướng tốt tiếngphạm âm.

NếuĐại Bồ Tát thấy kẻ thù nghịch thời sanh lóng hoan hỷ,do nhơn duyên nầy được tướng tốt, tròng mắt màu xanh biếc.

NếuĐại Bồ Tát chẳng ẩn che tài đức của người mà phô dươngđiều hay của mình, do nghiệp duyên nầy được tướng tốtbạch hào.

NầyThiện nam tử ! Nếu Đại Bồ Tát tu tập nghiệp duyên ba mươihai tướng tốt như vậy thời được chẳng thối chuyển tâmBồ Đề.

NầyThiện nam tử ! Tất cả chúng sanh chẳng thể nghĩ bàn. Cảnhgiới và nghiệp quả của chư Phật và Phật tánh cũng chẳngthể nghĩ bàn. Vì bốn pháp nầy đều là thường, vì thườngtrụ nên chẳng thể nghĩ bàn. Tất cả chúng sanh vì phiềnnão che đậy nên gọi là thường. Vì dứt phiền não thườngnên gọi là vô thường. Nếu nói rằng tất cả chúng sanhlà thường, cớ gì lại tu tập tám thánh đạo ? Tu tập đểdứt các sự khổ, các sự khổ nếu đã dứt thời gọilà vô thường, sự vui được hưởng thọ thời gọi là thường.Do đây nên ta nói tất cả chúng sanh bị phiền não che đậymà chẳng thấy được Phật tánh, vì chẳng thấy nên chẳngđược Niết Bàn.

SưTử Hống Bồ Tát bạch rằng : “ Thế Tôn ! Như lời Phậtnói tất cả các pháp có hai tbứ nhơn là chánh nhơn và duyênnhơn. Do hai nhơn nầy lẽ ra không có trói buộc không có giảithoát : Thân ngũ ấm nầy niệm niệm sanh diệt, nó đã sanhdiệt thời có gì là trói buộc và giải thoát.

BạchThế Tôn ! Nhơn thân ngũ ấm nầy mà sanh thân ngũ ấm sau.Thân nầy tự diệt chẳng đến thân kia nhưng có thể sinhngũ ấm kia. Như do hột sanh mọng, hột chẳng đến mọng ,dầu hột chẳng đến mọng mà có thể sanh mọng. Chúng sanhcũng như vậy, thế nào có trói buộc và giải thoát ?

Phậtnói : “ Nầy Thiện nam tử ! Lóng nghe ! Lóng nghe ! Ta sẽ vìông phân biệt giải thuyết. Như người lúc chết rất khổquyến thuộc bao quanh kêu khóc than thở, người nầy sợ hảichẳng biết cầu cứu với ai, dầu có năm giác quan mà khônghay không biết, tay chưn run giựt, không thể tự chủ, thânthể lành lạnh sắp hết hơi nóng, thấy những tướngnghiệp báo thiện ác đã tạo từ trước. Như mặt trời sắplặn, thời bóng của núi gò ngã về hướng đông, không baogiờ trở qua Tây. Nghiệp quả của chúng sanh cũng như vậy,lúc thân ngũ ấm nầy diệt thời ngũ ấm kia liền nối sanh.Như đèn cháy lên thời bóng tối mất. Đèn tắt, thời bóngtối hiện ra. Như ấn sáp in vào đất sét, ấn cùng đấtsét hiệp, ấn rã, lằn chữ nổi lên, mà ấn sáp nầy chẳngbiến nơi đất sét, lằn chữ chẳng phải từ đất sét ra,cũng chẳng phải chỗ khác đến, do ấn làm nhơn duyên màsanh lằn chữ. Ngũ ấm hiện tại diệt, thân trung ấm liềnsanh. Ngũ ấm hiện tại nầy trọn chẳng biến làm thân trungấm, thân trung ấm chẳng phải tự sanh, cũng chẳng từ nơikhác đến, do thân hiện tại mà sanh thân trung ấm. Như ấnsáp in nơi đất sét, ấn rã lằn chữ thành, danh từ dầukhông sai khác mà thời tiết đều riêng khác. Do đây nên tanói thân trung ấm chẳng phải nhục nhãn thấy được, thiênnhãn mới ngó thấy. Thân trung ấm nầy có ba cách ăn : Tưthực, xúc thực, ý thực. Thân trung ấm có hai thứ : Mộtlà nghiệp quả lành, hai là nghiệp quả ác. Do nghiệp lànhnên được giác quán lành, do nghiệp ác nên được giác quánác. Lúc cha mẹ giao hội phán hiệp theo nhơn duyên của nghiệpmà đến chỗ thọ sanh. Đối với mẹ sanh lòng thương, đốivới cha sanh lòng sân. Lúc tinh của cha chảy ra cho rằng làcủa mình, sanh lòng vui mừng. Do nhơn duyên của ba thứ phiềnnão nầy, thân trung ấm diệt mà sanh, thân ngũ ấm sau. Nhưấn sáp in vào đất sét ấn hư lằn chữ thành.

Lúcsanh ra những căn thân có đầy đủ cùng chẳng đủ. Ngườicăn đầy đủ thấy sắc thời sanh lòng tham, vì tham nên gọilà ái. Do hư dối mà sanh lòng tham, vì tham nên gọi là vôminh. Do nhơn duyên tham ái và vô minh nên những cảnh giớixem thấy thảy đều điên đảo : Vô thường thấy là thường,vô ngã thấy là ngã, vô lạc thấy là lạc, bất tịnh thấylà tịnh. Do bốn thứ điên đảo nầy nên gây tạo nhữnghạnh nghiệp thiện ác.
Phiềnnão gây ra nghiệp, nghiệp sanh ra phiền não, đây gọi là hệphược. Do nghĩa nầy nên gọi là ngũ ấm sanh.

Ngườinầy nếu được gần gũi chư Phật, đệ tử của Phật cùngnhững thiện tri thức thời được nghe được học mườihai bộ kinh. Do nghe pháp nên quán những cảnh giới lành. Doquán cảnh giới lành nên được trí huệ lớn, đây gọi làchánh tri kiến. Vì được chánh tri kiến nên sanh lòng hốihận đối với sanh tử. Do tâm hối hận nầy nên chẳng ưathích sanh tử , vì chẳng ưa thích nên phá được lòng tham,vì phá lòng tham nên tu tám thánh đạo, do tu tám thánh đạonên được không sanh tử, vì không sanh tử nên gọi là đượcgiải thoát. Như lửa chẳng gặp củi gọi đó là tắt. Vìtắt diệt sanh tử nên gọi là diệt độ. Do nghĩa nầy nêngọi là thân ngũ ấm diệt.

SưTử Hống Bồ Tát bạch rằng : “ Trong hư không chẳng cógai thế nào nói rằng nhổ ? Ngũ ấm không cột trói thế nàogọi rằng hệ phược ?”

Phậtnói : “ Nầy Thiện nam tử ! Vì xiềng xích phiền não tróibuộc ngũ ấm, lìa ngũ ấm rồi thời không có phiền não riêng,lìa phiền não rồi thời không có ngũ ấm riêng.

Nhưcột chống đỡ nóc nhà, lìa nhà thời không cột, lìa cộtthời không nhà. Thân ngũ ấm của chúng sanh cũng như vậy: Vì có phiền não gọi là hệ phược, vì không phiền nãonên gọi là giải thoát.

Nhưnắm tay, chắp tay, cột gút, ba thứ hiệp tan sanh diệt khôngcó thứ gì riêng. Ngũ ấm của chúng sanh cũng như vậy : Vìcó phiền não gọi là hệ phược, vì không phiền não gọilà giải thoát.

Nhưnói danh sắc hệ phược chúng sanh, cũng gọi là chúng sanhhệ phược danh sắc.

SưTử Hống Bồ Tát bạch rằng : “ Thế Tôn ! Như con mắt chẳngtự thấy, ngón tay chẳng tự chạm, dao chẳng tự cắt, thọchẳng tự thọ sao đức Thế Tôn lại nói rằng danh sắc hệphược danh sắc ? Vì nói danh sắc thời chính là chúng sanhcòn nói chúng sanh thời chính là danh sắc. Nếu nói danhsắc hệ phược chúng sanh thời là danh sắc hệ phược danhsắc.

Phậtnói : “ Nầy Thiện nam tử ! Như lúc hai tay chắp lại, thờikhông có cái gì khác đến chắp. Danh cùng sắc cũng như vậy.Do đây nên ta nói danh sắc hệ phược chúng sanh. Nếurời danh sắc thời được giải thoát. Vì thế nên ta nóichúng sanh giải thoát.

SưTử Hống Bồ Tát bạch rằng : “ Thế Tôn !Nếu có danh sắclà hệ phược, các vị A La Hán chưa rời danh sắc, lẽ racũng là hệ phược !”

Phậtnói : “ Nầy Thiện nam tử ! Có hai thứ giải thoát : Mộtlà tử đoạn, hai là quả đoạn”.

Tửđoạn là dứt phiền não. Các vị A La Hán đã dứt phiềnnão, các kiết sử đã phá hư, nên tử kiết sử dứt chẳnghệ phược được. Vì A La Hán chưa dứt quả nên gọi làquả hệ phược. Các vị A la Hán chẳng thấy Phật tánh. Vìchẳng thấy nên chẳng được vô thượng Bồ Đề. Do đâynên có thể gọi là quả hệ phược mà chẳng được gọilà danh sắc hệ phược.

NầyThiện nam tử ! Như thắp đèn, lúc dầu chưa hết thời ánhlửa chẳng tắt. Nếu đã hết dầu, thời lửa quyết phảitắt. Dầu là dụ cho phiền não. Đèn là dụ cho chúng sanh.Vì dầu phiền não nên chúng sanh chẳng nhập Niết Bàn. Nếudứt hết phiền não, thời tất nhập Niết Bàn.

_ BạchThế Tôn ! Đèn cùng dầu tánh cách riêng khác còn chúng sanhvà phiền não thời không phải như vậy : Chúng sanh là phiềnnão, cũng như phiền não là chúng sanh. Chúng sanh gọi là ngũấm, chính ngũ ấm gọi là chúng sanh. Ngũ ấm gọi là phiềnnão, cũng như phiền não gọi là ngũ ấm. Sao đức Như Lailại dụ như đèn ?

_ NầyThiện nam tử ! Có tám thứ ví dụ : Một là thuận dụ,hai là nghịch dụ, ba là hiện dụ, bốn là phi dụ, năm làtiên dụ, sáu là hậu dụ, bảy là tiên hậu dụ, tám là biếndụ.

Thếnào là thuận dụ ?

Nhưtrong kinh nói : Trời mưa lớn mương rãnh đều đầy nước,vì mương rãng đầy nước nên hố nhỏ đầy, vì hố nhỏđầy nên hố lớn đầy, vì hố lớn đầy nên suối nhỏđầy, vì suối nhỏ đầy nên suối lớn đầy, vì suối lớnđầy nên ao nhỏ đầy, vì ao nhỏ đầy nên ao lớn đầy,vì ao lớn đầy nên sông nhỏ đầy, vì sông nhỏ đầy nênsông lớn đầy, vì sông lớn đầy nên biển lớn đầy.

Phápvỏ của đức Như Lai cũng như vậy, làm cho chúngsanh đầy đủ giới hạnh ! Vì giới đầy đủ nên tâm chẳnghối hận được đầy đủ : Vì tâm chẳng hối hận đầynên lòng hoan hỷ đầy đủ, vì lòng hoan hỷ đầy nên sự viễn ly đầy đủ, vì sự viễn ly đầy nên sự an ổn đượcđầy đủ, vì sự an ổn đầy nên chánh định đầy đủ,vì chánh tri kiến đầy nên sự nhàm lìa đầy đủ, vì yểmly đầy nên sự quở trách đầy đủ, vì sự quở trách đầynên giải thoát đầy đủ, vì giải thoát đầy nên Niết Bànđầy đủ. Đây gọi là thuận dụ vậy.

Thếnào là nghịch dụ ?

Biểnlớn là nguồn chính là sông lớn ; sông lớn có nguồnchính là sông nhỏ, sông nhỏ có nguồn chính là ao lớn, aolớn có nguồn chính là ao nhỏ, ao nhỏ có nguồn chính làsuối lớn, suối lớn có nguồn chính là suối nhỏ, suốinhỏ có nguồn chính là hồ lớn, hồ lớn có nguồn chínhlà hồ nhỏ, hồ nhỏ có nguồn chính là mương rãnh, mươngrãnh có nguyồn chính là mưa to.

Cũngvậy, Niết Bàn có nguồn chính là giải thoát : Giải thoáttừ quở trách, quở trách từ yểm ly, yểm ly từ chánh trikiến, chánh tri kiến từ chánh định, chánh định từ an ổn, an ổn từ viễn ly, viễn ly từ hoan hỷ, hoan hỷ từ chẳnghối hận, chẳng hối hận từ trì giới, sự trì giới bắtnguồn từ nơi pháp võ của đức Như Lai. Đây gọi là nghịchdụ vậy.

Thếnào là hiện dụ ?

Nhưnói tâm tánh của chúng sanh như khỉ, vượn. Tánh của khỉ,vượn bỏ cái nầy liền bắt cái kia. Cũng vậy, tâm tánhcủa chúng sanh bắt lấy lục trần không lúc nào tạm dừng.Đây gọi là hiện dụ vậy.

Thếnào là phi dụ ?

Nhưxưa kia ta bảo vua Ba Tư Nặc : Đại Vương ! Có người thântín từ bốn phương đến báo với nhà vua rằng có bốn hònnúi lớn từ bốn phương đến muốn hại nhơn dân. Nếu nghenhư vậy Đại Vương sẽ lập kế gì ?

_ Vuađáp : Bạch Thế Tôn ! Nếu có như vậy thời không còn cóchỗ trốn tránh, chỉ phải chuyên tâm trì giới bố thí.

_ Takhen rằng : Lành thay ! Đại vương ! Ta nói bốn hòn núi làsanh lão bịnh tử của chúng sanh. Bốn sự khổ đó thườngđến bức não chúng sanh, sao Đại vương chẳng trì giới bốthí ? _ Vua đáp : Bạch Thế Tôn ! Trì giới bố thí đượcquả báo gì ? Ta nói : Trì giới bố thí sẽ được hưởngsự vui sướng ở cõi trời cõi người . _ Vua nói : Bạch Thế
Tôn! Cây Ni Câu Đà trì giới bố thí cũng được hưởng phướcư ? _ Ta nói cây ni câu đà chẳng thể trì giới bố thí,nếu có nó có thể làm được thời cũng được hưởng phướcnhư người. Đây gọi là phi dụ.

Thếnào là Tiên dụ ? Trong kinh nói : Như có người ưa thích hoađẹp, lúc hái lấy bị nước cuốn trôi, chúng sanh cũng vậyvì tham ái ngũ dục mà bị sanh tử. Đây gọi là Tiên dụ.

Thếnào là hậu dụ ?

Nhưkinh pháp cú nói :

Chớkhinh tội nhỏ,
Cholà không hại.
Giọtnước dầu ít,
Lầnđầy lu lớn.

Đâygọi là hậu dụ.

Thếnào là Tiên hậu dụ ?

Vínhư cây chuối có trái thời chết. Người ngu được lợidưỡng cũng như vậy. Như con la có thai thời mạng sống chẳngcòn lâu. Đây là Tiên hậu dụ.

Thếnào là biến dụ ?

Nhưtrong kinh nói Trời Đao Lợi có cây Ba Lợi Chất Đa, gốc nósâu năm do diên, cao một trăm do diên, nhánh lá bủa ra bốnphía năm mươi do diên, lúc lá chín thời màu vàng, chư Thiênxem thấy sinh lòng vui mừng. Lá nầy chẳng bao lâu rơi rụng.Chư Thiên thấy lá rụng lại sanh lòng vui mừng. Nhánh câychẳng bao lâu sẽ đổi sắc, chư Thiên thấy nhánh đổi sắclại sanh lòng vui mừng. Nhánh nầy chẳng bao lâu sẽ sanh nụtròn chư Thiên thấy nụ sanh lòng vui mừng. Những nụ nầychẳng bao lâu sẽ dài nhọn, chư Thiên lại sanh lòng vui mừng.Những nụ dài nhọn nầy chẳng bao lâu sẽ nở ra, lúc nụnở hơi thơm khắp năm mươi do diên, chiếu sáng tám mươido diên. Lúc đó chư Thiên ba tháng mùa hạ chơi vui dưới câynầy.

NầyThiện nam tử ! Hàng đệ tử của ta cũng như vậy. Lá sắcvàng dụ cho đệ tử của ta có tâm niệm muốn xuất gia. Lárụng dụ cho đệ tử của ta cạo bỏ râu tóc. Nhánh cây đổisắc dụ cho đệ tử của ta bạch tứ yết ma thọ giới cụtúc. Mới sanh nụ tròn dụ cho đệ tử của ta phát tâm BồĐề, nụ nhọn dài dụ cho Thập Trụ Bồ Tát thấy đượcPhật tánh. Nở xòe ra dụ cho Bồ Tát được vô thượngBồ Đề. Mùi thơm dụ cho vô lượng chúng sanh thọ trì cấmgiới, chiếu sáng dụ cho Như Lai danh hiệu vô ngại cùng khắpmười phương. Ba tháng mùa hạ dụ cho ba môn chánh định.Chư Thiên chơi vui dụ cho chư Phật ở nơi Đại Niết Bànđược thường, lạc, ngã, tịnh. Đây gọi là biến dụ.

NầyThiện nam tử ! Phàm dẫn ví dụ bất tất phải lấy trọnhết, hoặc lấy phần ít, hoặc lấy phần nhiều, hoặc lấyhoàn toàn. Như nói gương mặt của Phật như mặt trăng tròn,đây gọi là lấy phần ít.

Vínhư có người chưa bao giờ thấy sữa, hỏi người khác rằng: Sữa là giống gì ? Đáp : Như nước, mật, vỏ ốc ; nướcthời là tướng ướt, mật thời vị ngọt, vỏ ốc thờilà màu sắc. Dầu dẫu ba thí dụ nhưng chưa phải thiệt làsữa. Ta nói ví dụ cái đèn đem dụ cho chúng sanh cũng nhưvậy. Ta nói lìa nước thời không có con sông, chúng sanh cũngvậy lìa năm ấm thời không còn là chúng sanh. Như ngoài thùng,gọng, trục, bánh, căm thời không còn có cái xe. Chúng sanhcũng như vậy.

NầyThiện nam tử ! Nếu muốn đem pháp hiệp với ví dụ cái đènkia, thời nên lóng nghe : Tim đèn dụ cho hai mươi lăm cõi,dầu dụ cho tham ái, ánh sáng dụ cho trí huệ, trừ bóng tốidụ cho phá vô minh, hơi nóng dụ cho thánh đạo. Như đèn hếtdầu thời ngọn lửa tắt, chúng sanh hết tham ái thời thấyPhật tánh, tuy có danh sắc nhưng chẳng hệ phược được,tuy ở trong hai mươi lăm cõi nhưng chẳng bị các cõi làm nhiễmô.

BạchThế Tôn ! Ngũ ấm của chúng sanh rỗng không chẳng có gì,ai lãnh thọ giáo pháp tu tập đạo hạnh ?

NầyThiện nam tử ! Tất cả chúng sanh đều có niệm tâm, huệtâm, phát tâm, tinh tấn tâm, tín tâm, định tâm. Những tâmnhư vậy dầu niệm niệm diệt nhưng vẫn tương tợ tươngtục chẳng dứt nên gọi là tu hành.

_ BạchThế Tôn ! Những tâm như vậy đều niệm niệm diệt, niệmniệm diệt nầy cũng là tương tợ, tương tục, thời thếnào có sự tu tập ?

_ NầyThiện nam tử ! Như ngọn đèn dầu niệm niệm diệt mà cóánh sáng trừ bóng tối. Như chúng sanh ăn uống dầu niệmniệm diệt nhưng cũng làm cho người đói bụng no. Như thuốchay dầu niệm niệm diệt nhưng cũng có thể làm cho bịnh đượclành. Như ánh sáng mặt trời mặt trăng dầu niệm niệm diệtnhưng cũng có thể làm cho cỏ cây sanh sống.

Ôngnói niệm niệm diệt thế nào tu tập ?

NầyThiện nam tử ! Vì tâm nối luôn chẳng dứt nên gọi là tutập thêm lên. Như người đọc tụng kinh sách, những chữnhững câu đọc tụng chẳng đồng một thời gian : Chữ trướcchẳng đến giữa, chữ giữa chẳng đến sau, người đọccùng với chữ và tâm tướng tất cả đều niệm niệm diệt,do vì tập lâu mà được thông thuộc.

NầyThiện nam tử ! Như thợ kim hoàn từ lúc ban đầu tập nghềnhẫn đến đầu bạc, dầu niệm niệm diệt trước chẳngđến sau, nhưng do tích tập nên nghề giỏi khéo, do đây đượcgọi là thợ kim hoàn khéo. Đọc tụng kinh sách cũng nhưvậy.

Nhưhột giống kia, đất chẳng bảo rằng ngươi phải sanh mầm,vì tánh tự nhiên nên mầm tự mọc lên, nhẫn đến bông cũngchẳng bảo ngươi nên thành trái, vì tánh tự nhiên mà tráitự thành. Chúng sanh tu hành cũng như vậy.

Vínhư đếm số một chẳng đến hai, hai chẳng đến ba, dầuniệm niệm diệt mà đếm đến ngàn muôn chúng sanh tu hànhcũng như vậy.

Nhưngọn đèn niệm niệm diệt, ngọn trước diệt chẳng bảongọn sau sanh. Như con nghé sanh ra bèn tìm sữa bú, trí khôntìm sữa thiệt không ai dại dầu niệm niệm diệt mà trướcthời đói thời lúc sau được no. Do đây nên biết rằng trướcvà sau chẳng giống nhau thời lẽ ra chẳng sai khác.

Chúngsanh tu hành cũng như vậy, lúc mới tu dầu chưa tăng tiếnnhưng vì tu tập lâu thời có thể phá hoại tất cả phiềnnão.

SưTử Hống Bồ Tát bạch rằng : “ Thế Tôn ! Như lời Phậtnói người được chúng quả Tu Đà Hoàn rồi, dầu thácsanh cõi nước hung ác, vẫn trì giới chẳng sát sanh trộmcướp, dâm dật, vọng ngữ, uống rượu. Thân ngũ ấm củaTu Đà Hoàn đã diệt chết ở đây chẳng qua đến nơi cõinước hung ác, người tu hành cũng chẳng đến cõi nước hungác, nếu là tương tợ thời cớ sao chẳng sanh nơi cõi nướctịnh diệu ? Nếu thân ngũ ấm ở cõi nước hung ác chẳngphải là ngũ ấm của Tu Đà Hoàn, do đâu mà được chẳnggây tạo nghiệp ác ?

_ NầyThiện nam tử ! Vị Tu Đà Hoàn dầu thác sanh cõi nước hungác nhưng vẫn chẳng mất danh hiệu Tu Đà Hoàn, thân ngũ ấmthời chẳng tương tợ, nên ta dẫn con nghé làm dụ vị TuĐà Hoàn dầu thác sanh cõi nước hung ác, do đạo lực nênchẳng gây tạo nghiệp ác.

Nhưnúi Hương Sơn có Sư Tử chúa, do đây nên tất cả loài phicầm tẩu thú không dám đến gần núi nầy. Có lúc Sư Tửchúa đây đến trong núi Tuyết, tất cả chim thú cũng vẫnchẳng đến gần núi Hương Sơn. Vị Tu Đà Hoàn cũng như vậy,dầu chẳng tu hành nhưng do đạo lực nên chẳng gây tạo nghiệpác.

Vínhư có người uống chất cam lộ, chất cam lộ nầy dầu đãtiêu hoá mất, nhưng thế lực có thể làm cho người uốngchẳng già chẳng chết.

Nhưnúi Tu Di có vị thuốc thượng diệu tên là Lăng Già Lợi,người uống vị thuốc nầy dầu niệm niệm diệt, nhưng donăng lực của thuốc làm cho người uống chẳng bao giờ phảibịnh khổ.

Nhưchỗ ngự của Chuyển Luân Vương, dầu vua chẳng ngự nơiđó nhưng không ai dám đến gần, đây là do oai lực của vua.Vị Tu Đà Hoàn cũng như vậy, dầu sanh nơi cõi nước hungác, chẳng tu hành nhưng do đạo lực nên chẳng gây tạo nghiệpác.

Thânngũ ấm Tu Đà Hoàn chết mất ở đây, dầu sanh ngũ ấm khác,nhưng vẫn chẳng mất ngũ ấm Tu Đà Hoàn.

Vínhư chúng sanh vì muốn được trái được hột nên đối vớihột giống ra công săn sóc vun phân bón tưới, chưa gặp đượctrái được hột mà hột giống lại đã hư diệt, dầu vậynhưng cũng được gọi là nhơn hột giống mà được trái.Ngũ ấm của Tu Đà Hoàn cũng như vậy.

Nhưcó người sản nghiệp to tát, chỉ có một đứa con trai chếtsớm, người con nầy cũng có một đứa con trai ở xứ khác.Lúc người giàu có nầy qua đời đứa cháu nội nghe tin bèntrở về lãnh lấy sản nghiệp, dầu mọi người đều biếttài sản đó chẳng phải của nó làm ra, nhưng không ai ngăntrở, vì nó là một họ, cháu ruột của phú ông. Ngũ ấmcủa Tu Đà Hoàn cũng như vậy.

SưTử Hống Bồ Tát bạch rằng : “ Thế Tôn ! Như bài kệ củaPhật nói :

TỳKheo nếu tu tập.
Giớiđịnh và trí huệ,
Nênbiết là bất thối,
Gầnđến Đại Niết Bàn.

BạchThế Tôn ! Thế nào là tu giới ? Thế nào là tu định ? Thếnào là tu huệ ?

Phậtnói : “ Nầy Thiện nam tử ! Nếu có người trì giới chỉvì muốn tư lợi hưởng thọ sự vui cõi trời, cõi người,mà chẳng vì độ thoát tất cả chúng sanh, chẳng vì ủnghộ chánh pháp vô thượng, chỉ vì lợi dưỡng, sợ ba ácđạo, vì sống lâu, sắc đẹp, sức mạnh, an ổn, vô ngạibiện, vì sợ luật pháp của vua, vì sợ tiếng xấu, vì sựnghiệp thế gian, vì những việc như trên mà hộ trì giớiluật thời chẳng được gọi là tu tập giới luật.

Thếnào gọi là chơn thiệt tu tập giới luật ? Lúc trì giớinếu vì độ thoát tất cả chúng sanh, vì hộ trì chánh phápđể độ người chưa được độ, khai ngộ người chưa tỏngộ, quy y người chưa quy y, người chưa nhập Niết Bàn làmcho được nhập, lúc tu tập như vậy chẳng thấy giới, chẳngthấy giới tướng, chẳng thấy người trì, chẳng thấy quảbáo, chẳng tìm xem hủy phạm. Nếu có thể được như vậythời mới gọi là tu tập giới luật.

Thếnào gọi là tu tập chánh định ? Lúc tu tam muội, vì tự độ,vì lợi dưỡng, mà chẳng vì chúng sanh, chẳng vì hộ pháp,vì thấy những lỗi tham dục ăn uống, vì thấy những cănnam nữ chín lỗ bất tịnh, vì tranh đấu cãi cọ đánh đâm,giết hại lẫn nhau. Nếu vì những việc nầy mà tu tam muội,đây thời chẳng gọi là tu tập tam muội.

Thếnào gọi là chơn thật tu tam muội ? Nếu tu tập tam muội làvì chúng sanh, đối với chúng sanh có tâm bình đẳng, vì làmcho chúng sanh được pháp bất thối, được thánh tâm, đượcđại thừa, vì muốn hộ trì pháp vô thượng, khiến cho chúngsanh chẳng thối tâm Bồ Đề, làm cho chúng sanh được ThủLăng Nghiêm tam muội, được Kim Cang tam muội, được Đà LaNi, được tứ vô ngại, được thấy Phật tánh. Lúc thậthành chẳng thấy tam muội, chẳng thấy tướng tam muội,chẳng thấy người tu, chẳng thấy quả báo. Nếu có thểnhư vậy thời gọi là tu tập chánh định.

Thếnào gọi là tu tập trí huệ ? Nếu có người tu hành suy nghĩnhư vầy : Nếu tôi tu tập trí huệ nầy thời được thoátkhỏi ba ác đạo ? Ai có thể làm lợi ích cho tất cả chúngsanh ? Ai có thể ở trong đường sanh tử mà độ mọi người? Phật xuất hiện ra đời khó gặp như hoa Ưu Đàm, nay tôicó thể dứt phiền não kiết sử được quả giải thoát,nên tôi phải siêng năng tu hành trí huệ, để sớm dứt phiềnnão mau được giải thoát. Tu tập như vậy chẳng được gọilà tu tập trí huệ.

Thếnào gọi là chơn thật tu tập trí huệ ? Người trí nếu quansát sự khổ sanh lão bịnh tử, tất cả chúng sanh bị vôminh che đậy, chẳng biết tu tập đạo vô thượng. Nguyệnthân tôi nhận lấy khổ não thay thế chúng sanh. Bao nhiêu nhữngsự bần cùng hạ tiện phá giới, những nghiệp tham sân sicủa chúng sanh, nguyện tất cả đều đến nhóm chất trênthân tôi. Nguyện cho chúng sanh chẳng tham đắm, chẳng bịdanh sắc trói buộc mau thoát khỏi sanh tử, chỉ để mộtthân tôi ở nơi sanh tử chẳng mõi nhàm. Nguyện cho tất cảchúng sanh đều được vô thượng Bồ Đề. Lúc tu tập nhưvậy chẳng thấy trí huệ, chẳng thấy tướng trí huệ, chẳngthấy người tu, chẳng thấy quả báo, đây thời gọi là tutập trí huệ.

NầyThiện nam tử ! Người tu tập giới định huệ như vậy thờigọi là Bồ Tát. Người không thể tu tập giới định huệnhư vậy thời gọi là Thanh Văn.

Thếnào lại gọi là tu tập giới hạnh ?Nếu có thể phá hoạimười sáu ác luật nghi của tất cả chúng sanh : Một là vìlợi mà nuôi dê, trừu cho mập để bán, hai là vì lợi muadê trừu để làm thịt, ba là vì lợi nuôi heo cho mập đểbán, bốn là vì lợi mua heo để làm thịt, năm là vì lợinuôi bò con cho mập để bán, sáu là vì lợi mua bò để làmthịt, bảy là vì lợi nuôi gà cho mập để bán, tám là vìlợi mua gà để làm thịt, chín là câu cá, mười là thợsăn, mười một là cướp giựt, mười hai là thái thịt, mườiba là lưới chim, mười bốn là lưỡng thiệt, mười lăm làlính giữ ngục, mười sáu là bùa chú bắt rồng. Có thểvì chúng sanh mà dứt hẳng mười sáu nghiệp ác như vậy thờigọi là tu tập giới hạnh.

Thếnào là tu định ? Có thể dứt tất cả tam muội thế gian,như vô thân tam muội có thể làm cho chúng sanh có tâm điênđảo cho là Niết Bàn, cùng những tam muội hữu biên tâm,vô biên tâm, tịnh tụ, thế biên, thế đoạn, thế tánh, thếtrượng phu, phi tưởng, phi phi tưởng, những môn định nầycó thể làm chúng sanh có tâm điên đảo cho là Niết Bàn.Nếu có thể dứt hẳn những tam muội như vậy thời gọilà tu tập chánh định.

Thếnào gọi là tu tập trí huệ ? Có thể phá những ác kiếncủa thế gian.

Tấtcả chúng sanh đều có ác kiến : Chấp sắc là ngã là ngãsở, trong sắc có ngã, trong ngã có sắc, nhẫn đến chấpthức cũng như vậy. Thường tức là ngã, sắc diệt ngã còn.Sắc tức là ngã sắc diệt ngã cũng diệt. Lại có ngườicho rằng : Tác giả là ngã, thọ giả là sắc. Lại có ngườinói : Tác giả là sắc, thọ giả là ngã. Lại có người nói: Không tác giả, không thọ giả, tự sanh, tự diệt đềuchẳng phải nhơn duyên. Lại có người nói : Không tác giả, không thọ giả, đều là Tự Tại Thiên chỗ tạo ra. Lạicó người nói : Không tác giả, không thọ giả, tất cả đềudo thời tiết làm ra. Lại có người nói : Không tác giả,không thọ giả. Địa, thủy, hỏa , phong, không, năm đạinầy gọi là chúng sanh.

Nếucó thể phá hoại những ác kiến của chúng sanh như vậy thờigọi là tu tập trí huệ.

NầyThiện nam tử ! Tu tập giới hạnh để cho thân được tịchtịnh. Tu tập chánh định để cho tâm được tịch tịnh.Tu tập trí huệ để phá trừ lòng nghi. Phá trừ lòng nghilà để tu tập Phật đạo. Người tu tập Phật đạo là đểđược thấy Phật tánh. Thấy Phật tánh để được vô thượngBồ Đề. Được vô thượng Bồ Đề thời được vô thượngĐại Niêt Bàn. Được Đại Niết Bàn để dứt tất cả sanhtử, tất cả phiền não, tật cả cõi, tất cả đế củatất cả chúng sanh. Dứt sanh tử nhẫn đến dứt tất cảđế là để được thường, lạc, ngã tịnh vậy.

SưTử Hống Bồ Tát bạch rằng : “ Thế Tôn ! Như lời Phậtnói nếu bất sanh bất diệt gọi là Đại Niết Bàn, thờisanh cũng là bất sanh bất diệt như vậy, cớ sao chẳng đượcgọi là Niết Bàn ?

NầyThiện nam tử ! Đúng như lời của ông nói. Sanh dầu cũnglà bất sanh bất diệt nhưng có thỉ có chung.

_ BạchThế Tôn ! Pháp sanh tử nầy cũng là vô thỉ vô chung. Nếulà vô thỉ vô chung thời gọi là thường, thường trụ tứclà Niết Bàn, cớ sao chẳng gọi sanh tử là Niết Bàn ?

_ NầyThiện nam tử ! Pháp sanh tử nầy đều có nhơn có quả, vìcó nhơn quả nên chẳng được gọi là Niết Bàn. Thể tánhcủa Niết Bàn vốn không nhơn quả.

_ BạchThế Tôn ! Luận về Niết Bàn cũng có nhơn quả như bài kệcủa Phật nói :

Từnhơn nên sanh cõi trời,
Từnhơn mà đọa ác đạo,
Từnhơn nên được Niết Bàn,
Dođây nên đều có nhơn.

Xưakia Phật bảo các Tỳ Kheo : Nay ta sẽ nói đạo quả của SaMôn. Nói là Sa Môn đó nghĩa là người có thể tu tập hoàntoàn đạo hạnh giới định huệ, đạo hạnh nầy là bátthánh đạo. Quả của Sa Môn chính là Niết Bàn.

BạchThế Tôn ! Niết Bàn như vậy há chẳng phải là quả ư ? Cớsao hôm nay đức Phật nói rằng thể của Niết bàn không nhơn, không quả?

NầyThiện nam tử ! Ta tuyên nói nhơn của Niết Bàn chính là Phậttánh, tánh của Phật tánh chẳng sanh Niết Bàn, nên ta nóiNiết Bàn không có nhơn. Vì có thể phá phiền não nên gọilà quả Đại Niết Bàn. Niết Bàn nầy chẳng từ nơi đạohạnh sanh ra nên gọi là không có quả. Do đây nên Niết Bànlà không nhơn, không quả.

_Bạch Thế Tôn ! Phật tánh của chúng sanh là chung cóhay là riêng có ? Nếu là chung có thời một người lúc đượcvô thượng Bồ Đề lẽ ra tất cả chúng sanh cũng đồng được.Như hai mươi người đồng có một kẻ oán thù, nếu mộtngười trừ được kẻ thù, thời mười chín người kia cũngđồng hết người thù. Phật tánh cũng như vậy, lúc mộtngười đặng thời lẽ ra những người khác cũng đồng đặng.

Nếumỗi chúng sanh riêng có Phật tánh thời Phật tánh là vô thường,vì có thể tính đếm được. Nhưng Phật nói : Phật tánhcủa chúng sanh chẳng phải một chẳng phải hai. Nếu là riêngcó, thời lẽ ra chẳng nên nói rằng chư Phật bình đẳng,cũng chẳng nên nói rằng Phật tánh như hư không.

_ NầyThiện nam tử ! Phật tánh của chúng sanh chẳng một chẳnghai. Chư Phật bình đẳng, dường như hư không. Tất cả chúngsanh đồng chung có đó. Nếu người có thể tu bát thánh đạo,nên biết người nầy được thấy rõ.

NầyThiện nam tử ! Trên núi Tuyết có thứ cỏ tên nhẫn nhục,nếu bò ăn cỏ nầy thời sanh ra chất đề hồ, Phật tánhcủa chúng sanh cũng như vậy.

_ BạchThế Tôn ! Cỏ nhẫn nhục đó là một hay là nhiều ? Như làmột, bò ăn thời hết. Nếu là nhiều sao Phật lại nói Phậttánh của chúng sanh cũng như vậy ?

NhưPhật nói : Nếu có người tu tập bát thánh đạo thời đượcthấy Phật tánh. Lời đây chẳng đúng nghĩa, vì thánh đạonếu là một như cỏ nhẫn nhục thời lẽ ra phải hết.Nếu thánh đạo có hết, thời một người tu xong những ngườikhác không có phần. Thánh đạo nếu là nhiều, thời thếnào nói rằng tu tập đầy đủ, cũng chẳng được gọi làtác bà nhã trí.

_ NầyThiện nam tử ! Như đường bằng thẳng, tất cả chúng sanhđồng đi trên đường không chướng ngại nhau. Giữa đườngcó cây to bóng mát, người đi đường nghỉ ngơi dưới bóngcây. Bóng cây nầy vẫn thường như vậy, chẳng biến đổi,chẳng hư mất, cũng chẳng ai mang đi.

Đườngbằng thẳng dụ cho chánh đạo, bóng mát dụ cho Phật tánh.

Vínhư thành lớn chỉ có một cửa, dầu đông người đồngdo một cửa nầy ra vào nhưng đều không chướng ngại, cũngkhông ai phá hoại hoặc mang đem đi.

Vínhư cây cầu nhiều người đi trên đó cũng không chướngngại không ai phá hoại mang đi.

Vínhư lương y trị đủ các chúng bịnh, không ai cấm ngăn lươngy nầy trị người đây bỏ người kia.

Thánhđạo và Phật tánh cũng như vậy.

BạchThế Tôn ! Những điều dụ của Phật dẫn ra đây, theo nghĩathời chẳng phải. Vì người trước ở trên đường thờitrở ngại cho người đi sau, sao lại nói là không chướngngại. Những điều dụ khác cũng như vậy.

Thánhđạo cùng Phật tánh nếu là như vậy, thời lúc một ngườitu hành lẽ ra trở ngại những người khác.

NầyThiện nam tử ! Như lời ông vừa gạn hỏi, xét nơi nghĩathời chẳng tương ưng. Những điều dụ của ta dẫn ra làdụ phần ít chẳng phải dụ tất cả.

NầyThiện nam tử ! Con đường ở đời thời có chướng ngại,kia khác với đây, không có bình đẳng. Đạo vô lậu thờichẳng như vậy, có thể làm cho chúng sanh không có chướngngại, luôn bình đẳng không hai, không có kia đây sai khác.Thánh đạo như vậy có thể làm liễu nhơn cho Phật tánh củatất cả chúng sanh, mà chẳng làm sanh nhơn. Như ngọn đènsáng soi rõ các đồ vật.

NầyThiện nam tử ! Tất cả chúng sanh đều đồng vô minh làmnhơn duyên cho hành nghiệp. Không thể nói rằng một ngườivô minh làm nhơn duyên cho hành nghiệp rồi những người kháclẽ ra không có. Tất cả chúng sanh đều có vô minh làm nhơnduyên cho hành nghiệp, do đây nên nói rằng mười hai nhơnduyên tất cả đều bình đẳng.

Chúngsanh tu hành đạo vô lậu cũng như vậy, đồng dứt phiềnnão tứ sanh, các cõi các đường, do nghĩa nầy nên gọi làbình đẳng. Những người đã chứng được, kia đây thấybiết không có chướng ngại, nên được gọi là tát bà nhãtrí.

_ BạchThế Tôn ! Tất cả chúng sanh chẳng phải đồng một thân: Hoặc là thân người, thân súc sanh, thân ngạ quỉ, thânđịa ngục, những thân sai khác như vậy tại sao nói rằngPhật tánh là một ?

_ NầyThiện nam tử ! Như có người để chất độc trong sữa, sữathành lạc nhẫn đến thành đề hồ, danh tự dầu biến đổinhưng chất độc chẳng mất, nếu uống đề hồ cũng có thểbị độc mà chết, thật ra chẳng để độc trong đề hồ.

Phậttánh của chúng sanh cũng như vậy dầu ở trong thân sai kháccủa năm loài, nhưng Phật tánh nầy vẫn thường trụ duy nhứtkhông biến đổi.

_ BạchThế Tôn ! trong mười sáu nước lớn, có sáu thành lớn :Thành Xá Bà Đề, thành Bà Chỉ Đa, thành Chiêm Bà, thành TỳXá Ly, thành Ba La Nại, thành Vương Xá, tại sao đức Như Laibỏ những thành lớn ấy mà đến nơi thành Câu Thi Na nhỏhẹp xấu xa nầy để nhập Niết Bàn ?

_ NầyThiện nam tử ! Ông chẳng nên nói rằng thành Câu Thi Na lànhỏ hẹp xấu xa, mà nên nói rằng thành nầy có nhiều côngđức trang nghiêm tốt đẹp, vì chỗ nầy là chỗ mà chư Phậtvà Bồ Tát thường đi đến. Như nhà của người dân hèn,nếu có vua đi qua, thời nên tán thán nhà nầy là phước đứctrang nghiêm, nên nhà vua mới ngự giá đến.

Nhưngười bịnh nặng uống chất thuốc dơ xấu, uống xong bịnhliền lành, thời nên vui mừng khen ngợi thuốc nầy là rấthay, rất tốt, chữa lành được bịnh của tôi.

Nhưngười đi ghe ở trong biển lớn, bị ghe hư chìm nhơn ôm tửthi mà được vào bờ, đã đến bờ rồi thời nên vui mừngkhen ngợi rằng tôi nhờ tử thi nầy mà được an ổn.

ThànhCâu Thi Na nầy cũng như vậy, là chỗ đi của chư Phật BồTát, sao ông lại nói rằng là chỗ hẹp nhỏ xấu xa.

NầyThiện nam tử ! Ta nhớ thuở xa xưa cách đây hằng hà sa kiếp.Kiếp ấy hiệu là Thiện Giác. Lúc đó có vị Thánh Vươnghọ Kiều Thi Ca, bảy báu, ngàn con đều đầy đủ. Vua nầylà người ban đầu xây dựng thành trì nơi đây, ngang rộngđều mười hai do diên, bảy báu trang nghiêm, có nhiều consông, nước sông trong sạch nhu nhuyễn ngon ngọt : Sông Ni LiênThiền, sông Y La Bạt Đề, sông Hy Liên Thiền, sông Y Sưu MạcHoàn, sông Tỳ Bà Xá Na. Tất cả có năm trăm con sông nhưvậy. Hai bên bờ sông cây cối rậm rạp, hoa trái sum sê. Ngườithời ấy sống lâu vô lượng. Vua Chuyển Luân Thánh Vươngqua khỏi trăm năm bèn xướng lên rằng : Như lời Phật nóitất cả pháp đều vô thường, nếu ai có thể tu tập mườipháp lành thời dứt được sự vô thường khổ não ấy. Toànthể nhơn dân nghe Thánh Vương truyền ra như vậy, đều phụngtrì mười pháp lành. Thuở đó ta nghe danh hiệu của Phật,suy nghĩ tu tập mười pháp lành, ban đầu phát tâm vô thượngBồ Đề. Ta phát Bồ Đề tâm rồi lại đem pháp lành nầychỉ dạy vô lượng vô biên chúng sanh, giảng nói tất cảpháp đều vô thường biến hoại.

Docớ trên đây nên hôm nay ta ở nơi chỗ nầy tiếp tục giảngnói các pháp đều vô thường biến hoại, chỉ có thân củaPhật là pháp thường trụ. Ta nhớ việc đời trước nênđến nơi đây để nhập Niết Bàn, cũng là muốn đền đápơn đời trước chính tại chỗ nầy ta thật hành pháp lànhphát tâm Bồ Đề. Vì thế nên trong kinh ta nói : Quyến thuộccủa ta thọ ơn đều có thể báo đáp.

NầyThiện nam tử ! Thuở xưa lúc chúng sanh tuổi thọ vô lượng,thời thành nầy hiệu là Câu Xa Bạt Đề, ngang rộng năm mươido diên. Thuở ấy trong Diêm Phù Đề người ở khít nhau. Cóvua Chuyển Luân Thánh Vương hiệu là Thiện Kiến, thất bảovà ngàn con đều đầy đủ, cai trị khắp bốn cõi. Vị TháiTử thứ nhứt xuất gia tu hành được thành Bích Chi Phật.Thánh Vương thấy Thái Tử của mình thành Bích Chi Phật oaiđức trang nghiêm, thần thông hi hữu, liền vất bỏ ngôi vuanhư nhổ bỏ nước mũi dãy, xuất gia nơi rừng Ta La nầy,trải qua tám muôn năm tu tập từ tâm, tám muôn năm tu tậpbi tâm, tám muôn năm tu tập hỷ tâm, tám muôn năm tu tập xảtâm.

NầyThiện nam tử ! Nên biết rằng Thánh Vương Thiện Kiến thuởxưa chính là thân của ta. Do đây nên ngày nay ta thườngưa thích thật hành bốn pháp nầy, bốn pháp nầy gọi làchánh định. Do nghĩa nầy nên thân Như Lai là thường , lạc,ngã, tịnh.

NầyThiện nam tử ! Vì cớ trên đây nên hôm nay ta đến nơi thànhCâu Thi Na nầy ở trong rừng Ta La Song Thọ mà nhập tam muộichánh định.

NầyThiện nam tử ! Ta nhớ thuở xưa cách đây vô lượng kiếp,thành nầy hiệu là Ca Tỳ La Vệ, trong thành có vua hiệu làBạch Tịnh, phu nhơn hiệu là Ma Da, vua chỉ có một Thái Tutên là Tất Đạt Đa. Lúc đó Thái Tử chẳng học với Thầy,tự mình tư duy tu tập chứng được vô thượng Bồ Đề.Có hai người đệ tử : Xá Lợi Phật và Đại Mục KiềnLiên. Đệ tử thị giả tên là A Nan. Đức Thế Tôn ấyở trong rừng Song Thọ diễn nói kinh Đại Niết bàn.

Lúcđó ta được dự pháp hội, nghe Phật nói chúng sanh đềucó Phật tánh. Nghe xong ta liền được bực bất thối chuyển,liền phát nguyện rằng. Nguyện đời vị lai lúc tôi đượcthành Phật, cha, mẹ, cõi nước, danh hiệu, đệ tử ,thịgiả, thuyết pháp giáo hóa, tất cả đều đồng như đứcThế Tôn. Do nhơn duyên phát nguyện thuở xưa, nên hôm nay tađến nơi đây diễn nói kinh Đại Niết Bàn.

NầyThiện nam tử ! Lúc ta mới xuất gia chưa được vô thượngBồ Đề, vua Tần Bà Ta La sai sứ đến thưa với ta rằng :Thái Tử Tất Đạt Đa nếu làm Thánh Vương thời tôi sẽlà hạng thần thuộc. Nếu Thái Tử xuất gia được vô thượngBồ Đề, xin trước đến nơi thành Vương Xá để thuyếtpháp độ người và thọ sự cúng dường của tôi : Lúc đóta yên lặng nhận lời thỉnh của vua Tần Bà Ta La.

NầyThiện nam tử ! Lúc ta mời được vô thượng Bồ Đề, bènđi về hướng nước Kiệt Xà. Lúc đó nơi sông Y Liên Thiềncó nhà Bà La Môn họ Ca Diếp cùng năm trăm đệ tử ở bênsông cầu đạo vô thượng. Ta vì người nầy nên đến thuyếtpháp. Ca Diếp nói : Thưa Cù Đàm ! Nay tôi đã già một trămhai mươi tuổi, trong nước Ma Già Đà, tất cả nhơn dân cùngvua Tần Bà Ta La, đều cho rằng tôi đã chứng quả A La Hán.Nếu nay tôi ở trước Cù Đàm mà nghe pháp thời tất cảmọi người sẽ sanh lòng nghi ngờ. Trông mong Cù Đàm mau đichỗ khác. Nếu mọi người biết rõ rằng công đức củaCù Đàm hơn tôi, thời chúng tôi sẽ mất sự cúng dường.

Lúcđó ta đáp rằng : Nầy ông Ca Diếp. Nếu ông chẳng tôn trọngta, chẳng thích ta ở đây, xin cho ta nghỉ nhờ một đêm sángsớm sẽ đi.

CaDiếp nói : Thưa Cù Đàm, tôi không có lòng gì khác, thậtra tôi rất kính mến Cù Đàm. Ngặt vì chỗ ở của tôi cómột con rồng độc tánh nó hung dữ, sợ rằng nó làm hạiCù Đàm.

Tanói : Ông Ca Diếp ! Độc trong các thứ độc không gì hơnba thứ độc, nay ta đã dứt, tất cả thứ độc trong đờita đều chẳng sợ.

CaDiếp lại nói : Nếu Cù Đàm không sợ xin mời đến ở.

Lúcđó ta có ý vì Ca Diếp mà hiện mười tám môn thần biến.Ca Diếp cùng năm trăm đệ tử thấy thần thông nghe ta thuyếtpháp đều chứng quả A La Hán.

Lúcđó Ca Diếp lại có hai người em : Già Da Ca Diếp, Na ĐềCa Diếp. Hai người nầy có năm trăm đệ tử , nghe ta thuyếtpháp cũng đều chứng quả A La Hán.

Lúcđó trong thành Vương Xá, hàng lục sư ngoại đạo nghe việcnầy, liền sanh lòng rất ác đối với ta. Lúc đó ta nhậnlấy lời thỉnh của vua Tần Bà Ta La đi đến thành VươngXá. Giữa đường gặp vua cùng trăm ngàn người đón rước.Ta vì đại chúng nầy thuyết pháp. Tám muôn sáu ngàn chư Thiêncõi dục phát tâm vô thượng Bồ Đề. Mười hai muôn ngườiđi theo vua Tần Bà Ta La được quả Tu Đà Hoàn. Vô lượngchúng sanh thành tựu nhẫn tâm.

Saukhi ta vào thành, độ ông Xá Lợi Phất và Đại Mục KiềnLiên cùng hai trăm năm mươi đệ tử của hai người, đềukhiến bỏ tâm ngoại đạo theo ta xuất gia. Ta liền ở nơithành Vương Xá nhận lấy sự cúng dường của vua Tần BàTa La. Hàng lục sư ngoại đạo hợp nhau qua ở nơi thành XáVệ.

Trongthành Xá Vệ có một Trưởng giả tu Tu Đạt Đa, nhơn việchỏi vợ cho con nên đến thành Vương Xá, ngụ ở nhà củatrưởng giả San Đàn Na. Giữa đêm Trưởng giả dạy bảocác quyến thuộc lo quét rửa trần thiết nhà cửa cùng sắmsửa những thức ăn uống.

ÔngTu Đạt Đa nghĩ rằng : Nhà nầy hoặc sắp sửa thỉnh vua,hay có lễ gả cưới hội hè gì chăng ? Ông đem ý mình nghĩmà hỏi Trưởng giả San Đàn Na. Được biết sáng ngày sẽthỉnh Phật cùng giáo hội chư Tăng đến phó trai.

ÔngTu Đạt Đa nghe đến danh hiệu Phật, cả mình rởn ốc, liềnhỏi rằng thế nào gọi là Phật ? Trưởng giả đáp : Ôngchẳng biết ư ! Thành Ca Tỳ Đàm có Thái Tử Thích Cahiệu là Tất Đạt Đa, họ Cù Đàm, Phụ Vương là Bạch Tịnh.Lúc Thái Tử sanh ra, các nhà tướng sư bàn quyết định sẽđược làm Chuyển Luân Thánh Vương. Lớn lên Thái Tử bỏsự giàu sang mà xuất gia, không thầy được giác ngộ chứngvô thượng Bồ Đề, hết tham, sân, si, thường trụ khôngbiến đổi, chẳng sanh chẳng diệt, chẳng còn lo sợ. Đốivới chúng sanh tâm ngài bình đẳng thương đồng như cha mẹthương con một. Dầu cao thượng hơn tất cả mà ngài khôngkiêu mạn. Với người kính mến cũng như với người ghéthại, lòng ngài không phân biệt. Trí huệ thông suốt đốivới tất cả pháp không chướng ngại, đầy đủ mười trílực, bốn vô sở úy, năm trí, đại từ, đại bi và tứ niệmxứ, do đầy đủ những công đức trên đây nên hiệu làPhật. Vì sáng ngày đức Phật sẽ đến nhà tôi thọ trainên phải rộn ràng lo sắp đặt chẳng rỗi rảnh tiếp đãinhau.

TuĐạt Đa nói : Lành thay ! Thưa trưởng giả ! Đức Phật thậtlà công đức vô thượng, hiện nay Phật ngự tại đâu ?

Trưởnggiả đáp : Hiện nay Phật đang ở tại Trúc Lâm Tịnh xá nơithành Vương Xá nầy.

Lúcđó ông Tu Đạt Đa nhứt tâm nghĩ tưởng đến công đứccủa chư Phật. Bổng nhiên có ánh sáng như ban ngày chiếuđến. Ông liền theo ánh sáng đi đến cửa thành, do thầnlực của Phật nên cửa thành tự mở. Ra khỏi cửa thànhbên đường có miếu thờ trời, ông Tu Đạt Đa vô miễu lễcúng. Lúc đó trời tối lại như cũ, ông sanh lòng sợ sệtbèn muốn trở về nhà ngủ. Trên cửa thành có Thiên Thầnbảo Tu Đạt Đa rằng : Nếu ông đến chỗ đức Như Lai thờisẽ được nhiều lợi ích lành tốt.

ÔngTu Đạt Đa thưa với thiên thần thế nào là lợi ích lànhtốt ?

ThiênThần đáp : Nầy Trưởng giả ! Giả sử có người đem trămxe châu báu vàng bạc cùng voi ngựa và mỹ nữ, nhà cửa chạmtrổ tốt đẹp, mâm vàng đựng lúa bạc, mâm bạc đựng lúavàng, mỗi thứ đều đủ số một trăm, đem tất cả nhữngthứ trên đây bố thí cho một người, lần lượt bố thíkhắp tất cả người trong Diêm Phù Đề. Công đức bố thínầy chẳng bằng có người phát tâm bước một bước đếnchỗ Như Lai.

TuĐạt Đa hỏi : Ngài là ai ?

Đáprằng : Nầy Trưởng giả ! Tôi là Thắng Tướng Bà LaMôn, bạn cũ của ông. Lúc còn sống, tôi thấy ngài Xá LợiPhất và ngài Mục Kiền Liên sanh lòng hoan hỷ cung kính, dođó được sanh làm Thái Tử của Tỳ Sa Môn Thiên Vương, cóbổn phận hộ trì thành Vương Xá nầy. Chỉ do cung kính ngàiXá Lợi Phất và ngài Đại Mục Kiền Liên mà tôi còn đượcthân trời tốt đẹp thế nầy, huống là được thấy đứcNhư Lai để đảnh lễ cúng dường !

Trưởnggiả Tu Đạt Đa liền thẳng đường đến chỗ Phật, từxa thấy Phật đi kinh hành thân chiếu sáng màu vàng, ông liềnđến đảnh lễ dưới chơn Phật. Lúc đó đức Phật vì ôngmà thuyết pháp. Sau khi nghe pháp, Trưởng giả Tu Đạt Đa chứngđặng quả Tu Đà Hoàn. Ông lại thỉnh Phật đến thành XáVệ để giáo hoá mọi người.

ĐứcPhật hỏi : “ Nước Xá Vệ của ông có Tinh Xá có thể dungnạp giáo hội của ta chăng ?” Tu Đạt Đa thưa : “Nếu đức Phật xót thương hứa khả, tôi xin tận lực vềnước lo xây dựng. Ông lại bạch cùng Phật từ nào tớigiờ tôi chưa hiểu cách thức kiến trúc Tinh Xá. Mong đứcPhật cử một vị đến Xá Vệ chỉ bày cách thức cho.

ĐứcPhật liền sai ngài Xá Lợi Phất theo Trưởng giả Tu ĐạtĐa qua thành Xá Vệ.

Vềđến Xá Vệ, Trưởng giả Tu Đạt Đa thỉnh ngài Xá LợiPhất chọn khu đất xứng đáng để lập Tinh Xá. Ngài XáLợi Phất chọn được khu vườn của Kỳ Đà Thái Tử. Trưởnggiả Tu Đạt Đa liền vào cung thưa với Thái Tử xin nhườngkhu vườn ấy để mình lập Tinh Xá thỉnh Phật về ở.

TháiTử đáp rằng : Tôi không bán vườn, hoặc giả có đem vànglót khắp mặt đất ta sẽ đổi cho.

Trưởnggiả Tu Đạt Đa mừng rỡ thưa rằng : “ Khu vườn ấy sẽthuộc về tôi, Thái Tử sẽ lấy vàng.”

TháiTử nói ta không bán vườn.

Trưởnggiả Tu Đatï Đa thưa nếu Thái Tử không bằng lòng xin đếnquan đoán sự để giải quyết.

Quanđoán sự bảo rằng : “ Cứ theo lời của Thái Tử và Trưởnggiả giao ước với nhau thời vườn thuộc về Trưởng giả,Thái Tử lấy vàng.”

Trưởnggiả Tu Đạt Đa liền cho voi ngựa chở vàng đến lót, trongmột ngày lót gần khắp cả vườn chỉ còn năm trăm bước.

TháiTử nói : “ Nếu Trưởng giả hối hận thời tùy ý trảvườn lại tôi”.

Trưởnggiả thưa : “ Tôi chẳng hối hận, tôi đương suy nghĩ coikho vàng nào đủ lót khoảng đất còn lại.

TháiTử nghĩ rằng : “ Có lẽ đức Phật thiệt là đấng Phápvương vô thượng, nên khiến ông nầy không tiếc vàng nhưvậy. Thái Tử liền bảo Trưởng giả Tu Đạt Đa thôi đừngđem vàng lót nữa, tôi xin dâng hết đất vườn, và tự xâydựng cửa ngõ lầu, để đức Như Lai thường do nơi đó màra vào.

Sauđó Thái Tử Kỳ Đà xây dựng cửa ngõ lầu. Trưởng giảTu Đạt Đa trong bảy ngày dựng xong ba trăm căn phòng lớn,sáu mươi ba tòa thiền, phòng tịch tịnh, cùng nhà mùa đông,nhà mùa hạ, nhà trù, nhà tắm, chỗ rửa chân, nhà đại tiểutiện, tất cả cơ sở đều đầy đủ. Trưởng giả tay bưnglư hương quỳ hướng về thành Vương Xá mà bạch rằng :Tinh Xá xây dựng đã xong, ngưỡng mong đức Như Lai xót thươngvì chúng sanh mà nhận ở nơi Tinh Xá nầy.

Lúcđó đức Phật ở thành Vương Xá rõ biết tâm niệm củaTrưởng giả Tu Đạt Đa, liền cùng đại chúng rời thànhVương Xá đến nước Xá Vệ. Trưởng giả đem tất cả giừơngnhà đã xây dựng phụng thí nơi Phật. Phật nhận lấy rồicùng chúng tăng ở lại Tịnh xá Kỳ Hoàn.

Lúcđó hàng lục sư ngoại đạo sanh lòng tật đố, họp nhauđến ra mắt vua Ba Tư Nặc mà tâu rằng : “ Tâu Đại Vương,dất nước của Đại Vương nhàn tịnh bằng thẳng, thiệtđáng chỗ cho người xuất gia ở tu, nên chúng tôi mới đếncư ngụ. Đại Vương đem phép nước cai trị ngăn trừ sựtai hoạn cho nhơn dân. Nay có Sa Môn Cù Đàm tuổi đã nhỏ.Học lực lại kém, đạo thuật không có gì, nay đến ở nơithành Xá Vệ nầy, dùng ảo thuật phỉnh gạt nhơn dân, nóirằng các pháp đều vô thường, là khổ , là không, là vôngã, là không tác giả, là không thọ giả. Trong kinh của đạochúng tôi có đoạn nói rằng qua khỏi ngàn năm có một ngườiyêu thuật huyễn hóa ra đời : Lời trên đây chính là ứngchỉ Sa Môn Cù Đàm vậy. Cúi mong Đại Vương cho phép chúngtôi cùng Sa Môn Cù Đàm so sánh đạo lực. Nếu Cù Đàm hơnchúng tôi, chúng tôi sẽ qui thuộc về Cù Đàm. Nếu chúngtôi hơn Cù Đàm, thời họ phải qui thuộc về chúng tôi.

Vuabảo : “ Nầy các Đại Đức ! Các ông đều có phương pháptu hành riêng, có chỗ ở riêng. Tôi biết chắc rằng đứcNhư Lai không làm trở ngại các ông.

Sáunhà ngoại đạo tâu rằng : “ Tâu Đại vương ! Sa Môn CùĐàm đối với chúng tôi có nhiều sự trở ngại, họ dùngảo thuật gạt gẫm dụ dỗ nhơn dân, làm cho mọi ngườiqui phục theo họ đã hết. Xin Đại vương theo lẽ công bìnhcho phép chúng tôi cùng sa Môn Cù Đàm so sánh đạo lực.

Vuanói : “ Nầy các Đại Đức ! Bởi các ông chưa biết đạolực thần thông cao cả của đức Như Lai nên mới nài so sánh.Sợ rằng các ông chẳng bằng được.

_ TâuĐại Vương ! Nay có lẽ Đại Vương đã mắc ảo thuật củaSa Môn Cù Đàm. Ngưỡng mong Đại Vương xét kỹ lại, chấpthuận lời yêu cầu của chúng tôi.

_ Đượclắm ! Được lắm ! Ta chấp thuận lời yêu cầu của cácông

Sáunhà ngoại đạo cùng đồ chúng vui mừng tạ ơn vua mà luivề.

NầyThiện-nam-tử ! Như nơi ngã tư đường có người đựng đầyđồ ăn thơm ngon trong chậu, trong bát, bày ra để bán. Cóngười khách từ xa đến quá đói, thấy đồ ăn ấy thơmngon, liền hỏi đây là vật gì ? Người bán nói : Đây làđồ ăn thơm ngon, nếu ai ăn thứ nầy, thời đặng sắc tốt,sức mạnh, có thể hết đói, hết khát và đặng thấy chưThiên. Nhưng chỉ có một tai hại là sẽ chết. Ngườikhách nghe xong nghĩ rằng : Nay tôi chẳng dùng sắc đẹp, sứcmạnh, thấy chư Thiên, vì tôi chẳng muốn chết. Nghĩ xonghỏi rằng : Ăn vật thực nầy nếu phải chết sao ông lạiđem bán.

Ngườibán đáp : Những người có trí không ai bằng lòng mua. Chỉcó kẻ ngu, chẳng biết việc nầy, họ tham ăn nên họ trảgiá đắt cho tôi.

NầyThiện-nam-tử ! Đại-Bồ-Tát cũng như vậy, chẳng nguyệnsanh cõi trời, đặng sắc đẹp, đặng sức mạnh, thấy chưThiên, vì sanh cõi trời chẳng khỏi những khổ não. Kẻ phàmphu ngu si sanh chỗ nào cũng đều tham luyến vì họ chẳng thấygìa, bệnh, chết.

NầyThiện-nam-tử ! Ví như cây độc, gốc rễ cũng có thể giếtngười, thân cây, vỏ, bông, trái, hột đều cũng có thểgiết người. Tất cả thân ngũ ấmtrong hai mươi lăm cõi đềucó thể hại chúng sanh cũng như vậy.

NầyThiện-nam-tử ! Ví như phân nhơ, nhiều hay ít đều hôi cả.Cũng vậy, thọ sanh dầu sống lâu tám muôn tuổi hay mườituổi cũng đều khổ não cả.

NầyThiện-nam-tử ! Ví như hầm sâu nguy hiểm, lấy cỏ che trênmiệng hầm, bờ bên kia của hầm có mạch cam-lồ, ngườinào được ăn chất cam lồ, sẽ sống lâu ngàn năm không bệnhtật, an ổn , khoan khoái. Kẻ ngu si tham chất cam lồ, chẳngbiết dưới đó có hầm sâu, bèn chạy đến lấy, chẳng ngờtrật chơn té xuống hầm mà chết. Người trí biết sự nguyhiểm, nên không đến lấy chất cam-lồ.

Đại-Bồ-Tátcũng như vậy còn chẳng muốn nhận lấy vật thực thượngdiệu cõi trời huống là tong loài người. Kẻ phàm phu bènở nơi địa ngục nuốt hoàn sắt, huống là thức ăn thượngdiệu cõi trời cõi người mà có thể chẳng ăn.

NầyThiện-nam-tử ! Do những điều thí dụ như vậy, ngoài ra cònvô lượng thí dụ khác, nên biết thọ sanh thiệt là rấtkhổ.

Đâygọi là Đại-Bồ-Tát trụ nơi kinh Đại-thừa Đại-Niết-Bànquán sát sanh là khổ.

NầyThiện-nam-tử ! Đại-Bồ-tát trụ nơi kinh Đại-thừa Đại-Niết-Bànquán sát lão là khổ như thế nào ?

Sựgià yếu hay làm ho hen, ngăn nghẹn hơi, đưa lên, có thể làmmất sức mạnh, trí nhớ kém, sự tráng kiện không còn, mấtsự an vui thơ thới, khoan khoái. Tuổi già hay làm lưng còm,mỏi nhọc, lười biếng, bị người khi dể.

NầyThiện-nam-tử ! Ví như hoa sen nở tốt đầy trong ao nướcrất đáng ưa thích, gặp trận mưa đá, tất cả đều hưnát. Cũng vậy, tuổi già có thể phá hoại tráng kiện, sắcđẹp.

NầyThiện-nam-tử ! Ví như quốc vương có một trí thần dùngbinh giỏi. Có vua nước địch chống cự chẳng thuận hảo.Quốc vương sai trí thần đem binh qua đánh, bắt vua nướcnghịch mang về dưng cho quốc vương. Cũng vậy, tuổi già bắtđược tráng kiện, sắc đẹp đem giao cho tử vương.

NầyThiện-nam-tử ! Ví như trục xe đã gãy, xe đó không còn dùngđược. Cũng vậy, già suy thời không còn dùng được vàoviệc gì.

NầyThiện-nam-tử ! Như nhà giàu to có nhiều của báu : Vàng ,bạc, lưu ly, san hô, hổ phách, xa cừ, mã não. Có bọn cướpnếu vào đặng nhà đó thời có thể cướp giựt hết cả.Cũng vậy, tuổi tráng kiện và sắc đẹp thường bị giặcgià suy cướp giựt.

Nầythiện-nam-tử ! Ví như người nghèo tham thức ăn ngon, y phụcmịn màng, dầu có hy vọng nhưng không thể được. Cũng vậy,tuổi già suy dầu có tâm than, muốn hưởng thọ ngũ dụcsung sướng mà chẳng thể đặng.

NầyThiện-nam-tử ! Như con rùa ở trên đất cao lòng nó thườngnghĩ đến nước. Cũng vậy, người đời đã già suy khô héomà lòng họ thường nhớ tưởng những khoái lạc ngũ dụcthuở tráng kiện.

Nầythiện-nam-tử ! Như mùa thu ai cũng ưa ngắm hoa sen nở, đếnkhi hoa tàn héo, mọi người đều không thích. Cũng vậy, sựtráng kiện, sắc đẹp mọi người đều ưa thích, đến khigià suy ai cũng nhàm ghét.

Nầythiện-nam-tử ! Ví như cây mía, sau khi bị ép, bã xác khôngcòn vị ngọt. Cũng vậy, tráng kiện sắc đẹp đã bị giàép, thời không có ba thứ vị : Một là vị xuất gia, hai làvị đọc tụng, ba là vị tọa thiền.

NầyThiện-nam-tử ! Ví như mặt trăng tròn ban đêm thời tỏ sáng,ban ngày thời không như vậy. Cũng vậy, tráng kiện thời hìnhmạo nở nang xinh đẹp, già thời suy yếu, thân thể và tinhthần kém suy.

NầyThiện-nam-tử ! ví như có nhà vua thường dùng chánh pháp caitrị nhơn dân, chơn thật, không lừa dối, từ bi ưa bố thí.Thuở đó nhà vua bị nước địch xâm lăng đánh bại, bènlưu vong đến nước khác. Nhơn dân trong nước kia thấy nhàvua đều cảm thương nói rằng : Đại-vương ngày trước dùngchánh pháp trị nước chẳng uổng lạm bá tánh, thế sao naylại lưu vong đến đây. Cũng vậy, loài người đã bị giàsuy làm bại hoại, thời thường tán thán sự nghiệp đã làmthuở tráng kiện.

NầyThiện-nam-tử ! Ví như tim đèn dầu nhờ mỡ dầu nhưng mỡdầu sẽ hết, thế chẳng lâu dài. Cũng vậy, thân ngườidầu nhờ cậy sự tráng kiện, nhưng tráng kiện phải trảiqua già suy, đâu còn được dùng lâu.

NầyThiện-nam-tử ! Ví như con sông cạn khô không có thể lợiích cho ngưới, cho phi nhơn, chim thú. Cũng vậy, thân ngườibị già suy khô héo, không còn làm được việc gì, chẳngthể có lợi ích.

NầyThiện-nam-tử ! Ví như cây cheo leo bờ sông, nếu gặp gióto, ắt sẽ đổ ngã. Như vậy đến tuổi già ắt phải chết,thế chẳng thể còn được.

NầyThiện-nam-tử ! Như trục xe đã gãy, không thể chở chuyên.Cũng vậy, già suy không thể học hỏi tất cả pháp lành.

NầyThiện-nam-tử ! Như trẻ thơ bị người khinh khi. Cũng vậy,già suy thường bị người khinh hủy.

NầyThiện-nam-tử ! Do những điều dụ như vậy cùng vô lượngthí dụ khác nên biết sự già thiệt là rất khổ.

Đâygọi là Đại-Bồ-Tát tu hành kinh Đại-thừa Đại-Niết-Bànquán sát già là khổ.

NầyThiện-nam-tử ! Đại-Bồ-Tát trụ nơi kinh Đại-thừa Đại-Niết-Bànquán sát bịnh khổ như thế nào ?

Vínhư mưa đá làm hại mạ lúa. Cũng vậy, tật bệnh có thểphá hoại tất cả những sự an ổn vui vẻ.

Nhưngười có oán thù , tâm thường lo rầu sợ sệt. Cũng vậy,tất cả chúng sanh thường bị bịnh khổ, lo rầu không yên.

Vínhư có người hình dung xinh đẹp, Vương-phi tâm dục yêu thương,sai sứ đòi đến để cùng giao thông. Vua bắt đặng, liềntruyền lịnh khoét một mắt,cắt một vành tai, chặt mộttay, một chân, bấy giờ người đó hình dung đổi khác bịngười nhờm gớm khinh rẻ. Cũng vậy, thân người trướcthời dung mạo tươi tốt, tai mắt đầy đủ, đã bị bịnhkhổ hành hạ, thời xấu xa bị người nhờm gớm.

Nhưcây chuối, cây tre, cây lau, cây la, hễ có con, có trái thìchết. Cũng vậy, người có bịnh thời chết.

Nhưvua Chuyển-Luân, đại thần, chủ binh thường làm tiền đạođi trước, nhà vua theo sau cũng như chúa cá, chúa kiến, chúaốc, chúa trâu, thương chủ, lúc ở trước chúng mà đi, thờitoàn chúng thảy đều đi theo không rời. Cũng vậy, sựchết thường theo sát bịnh khổ không rời.

NầyThiện-nam-tử ! Nhơn duyên của bịnh làm cho khổ não, rầulo, buồn than, thân tâm không an ổn. Hoặc bị kẻ giặc cướpbức hại, trái nổi bể hư, phá hoại cầu cống, đều cũngcó thể cướp giựt mạng sống. Bịnh lại có thể phá hoạisự tráng kiện, sắc đẹp, thế lực, an vui, mất lòng tàmquý, có thể làm cho thân tâm xót xa bức rức.

Donhững điều dụ đó và vô lượng thí dụ khác, nên biếtbịnh rất là khổ não.

Đâygọi là Đại-Bồ-Tát tu hành kinh Đại-thừa Đại-Niết-Bànquán sát bịnh khổ.

Nầythiện-nam-tử ! Thế nào là Đại-Bồ-Tát tu hành kinh Đại-thừaĐại- Niết-Bàn quán sát tử khổ ? Sự chết có thể đốtcháy tiêu diệt. Như hỏa tai khởi lên có thể đốt cháy tấtcả, chỉ trừ cõi trời nhị thiền trở lên, vì thế lựccủa hỏa tai chẳng đến được. Cũng vậy, sự chết có thểtiêu diệt tất cả, chỉ trừ Bồ-Tát trụ nơi Đại-thừaĐại-Niết-bàn vì thế lực của sự chết không đến được.

Nhưlúc thủy tai khởi lên, tất cả đều trôi, đều ngập,chỉ trừ cõi tam-thiền trở lên, vì thế lực của thủy taichẳng đến được. Cũng vậy, sự chết làm chìm mất tấtcả, chỉ trừ Bồ-Tát trụ nơi Đại-thừa Đại-Niết-Bàn.

Nhưlúc phong tai khởi lên, có thể thổi tan tất cả, chỉ trừcõi tứ thiền, vì thế lực của phong tai chẳng đến được.Cũng vậy, sự chết có thể tiêu diệt tất cả, chỉ trừBồ-Tát trụ nơi Đại-thừa Đại-Niết-Bàn.

Ca-Diếp-Bồ-Tátbạch Phật : “ Thế-Tôn ! Cõi Tứ-thiền kia do cớ gì màgió không thổi đến, nước chẳng ngập đến, lửa chẳngcháy đến ?”

_ NầyThiện-nam-tử ! Cõi Tứ-Thiền kia không có tất cả quá hoạntrong thân và ngoại cảnh.

CõiSơ- Thiền có quá hoạn : Trong có giác quán, ngoài có hỏatai.

CõiNhị-Thiền có quá hoạn : Trong có vui mừng, ngoài có thủytai.

CõiTam-Thiên có quá hoạn : Trong có hơi thở, ngoài có phong tai.

CõiTứ-Thiền trong ngoài đều không quá hoạn, nên ba thứ taihọa lớn chẳng thể đến được.

Đại-Bồ-Tátcũng như vậy, an trụ nơi Đại-thừa Đại-Niết-Bàn, trongngoài đều không tất cả quá hoạn, nên sự chết chẳng đếnđược.

Lạinầy Thiện-nam-tử : Như Kim-Súy-Điểu có thể nuốt, có thểtiêu tất cả loài rồng, cá và châu báu, vàng, bạc vân vân,chỉ trừ chất kim cương không tiêu được. Cũng vậy, sựchết có thể nuốt, có thể tiêu tất cả chúng sanh, chỉkhông tiêu được Đại-Bồ-tát trụ nơi Đại-Thừa Đại-Niết-Bàn.

Lạinầy Thiện-nam-tử ! Ví như những cỏ cây ở bờ sông, nướclụt dưng lên đều trôi theo dòng vào biển lớn, chỉ trừcây dương liễu, vì thứ cây nầy mềm dẽo. Cũng vậy, tấtcả chúng sanh đều trôi lăn vào biển chết, chỉ trừ Bồ-Táttrụ nơi Đại-thừa Đại-Niết-Bàn.

Lạinầy Thiện-nam-tử ! Như thần Na-La-Diên có thể hàng phụctất cả lực sĩ, chỉ trừ gió to, vì gió to vô ngại. Cũngvậy, sự chết có thể hàng phục tất cả chúng sanh, chỉtrừ Bồ-Tát trụ nơi Đại-thừa Đại-Niết-Bàn, vì bậcnầy vô ngại.

Lạinầy Thiện-nam-tử ! Ví như có người đối với kẻ thù giảlàm thân thiện, theo sát bên như bóng theo hình, chờ khi thuậntiện mà giết đó, nếu phòng bị chặt chẽ, thời ngườikia không hại được. Cũng vậy, sự chết luôn theo rình chúngsanh chờ dịp làm hại, chỉ không thể hại được bậc Đại-Bồ-Táttrụ nơi Đại-thừa Đại- niết-bàn, vì bậc Bồ-Tát nầychẳng phóng dật.

Lạinầy Thiện-nam-tử ! Ví như trời bỗng mưa kim cương xốixuống tất cả cỏ cây, núi rừng, đất cát, ngói, đá, vàng,bạc, lưu ly, cùng tất cả vật đều bị hư nát, chỉ kimcương chơn bảo không bị hư. Cũng vậy, sự chết đều cóthể phá hoại tất cả chúng sanh, chỉ trừ kim cương Bồ-Táttrụ nơi Đại-thừa Đại-Niết-Bàn.

Lạinầy Thiện-nam-tử ! Như Kim-súy-điểu có thể nuốt các loàirồng, chỉ không nuốt được rồng thọ Tam-quy-y. Cũng vậy,sự chết có thể nuốt tất cả chúng sanh, chỉ trừ Bồ-Táttrụ ba môn chánh định : Không, vô tướng vô nguyện.

Lạinầy Thiện-nam-tử ! Như độc rắn ma-la, khi rắn nầy cắnnhằm người, những chú hay, thuốc tốt đều không cứu được,chỉ có chú A-Kiệt Đa-Tinh là có thể chữa lành. Cũng vậy,sự chết tất cả phương thuốc đều không cứu được, chỉtrừ Bồ- Tát trụ nơi Đại-thừa Đại-Niết-Bàn.

Lạinầy Thiện-nam-tử ! Như có người bị nhà vua giận, có thểdùng lời dịu dàng khéo léo, dâng của cải châu báu mà đặngkhỏi tội. Sự chết không như vậy, dầu dùng lời nói dịudàng, tiền của châu báu để cống dưng cũng chẳng thoátkhỏi.

NầyThiện-nam-tử ! Luận về sự chết là chỗ hiểm nạn, khônggì giúp đỡ, đi đường xa xôi mà không bạn bè, ngày đêmđi luôn chẳng biết bờ mé, sâu thẳm tối tăm, không có đènđuốc, nó vào không có cửa nẻo mà có chỗ nơi, dầu khôngchỗ đau đớn nhưng chẳng thể chữa lành, nó qua không aingăn được, nó đến không thể thoát được, không phá pháchgì mà người thấy sầu khổ, nó không phải màu sắc xấuxa mà làm cho người kinh sợ. Nó ở bên thân người mà chẳnghay biết được.

NầyCa-Diếp Bồ-Tát, do những điều dụ đó cùng vô lượng thídụ khác, nên biết sự chết thật là rất khổ.

Đâygọi là Đại-Bồ-Tát tu hành kinh Đại-thừa Đại-Niết-Bànquán sát tử khổ.

NầyThiện-nam-tử! Thế nào là Đại-Bồ-Tát trụ nơi kinh Đại-thừa Đại-Niết-Bàn quán sát ái-biệt-ly khổ ? Ái biệt-ly nầy có thể làmcội gốc cho tất cả sự khổ. Như nói bài kệ rằng :

Nhơnái sanh lo, Nhơn ái sanh sợ, Nếu lìa sự ái, Nào lo nào sợ.

Vìái nên sanh sự lo khổ, vì lo khổ nên làm cho chúng sanh cógià suy. Ái- biệt-ly khổ là nói sự chết. Vì biệt-ly haysanh những sự khổ vi-tế, nay sẽ vì ông mà phân biệt rõràng.

NầyThiện-nam-tử ! Thuở quá khứ người sống vô lượng tuổi,có quốc vương tên là Thiện-Trụ nhà vua trị nước tám muônbốn ngàn năm. Trên đỉnh đầu của vua mọc lên một bứuthịt mềm nhuyễn như bông. Bứu ấy lần lần to lớn, khônglàm đau nhức. Mãn mười tháng, bứu ấy nứt ra, sanh mộtđồng tử hình dung đẹp lạ. Nhà vua vui mừng đặt tên làĐãnh-Sanh.

Thờigian sau vua Thiện-Trụ đem việc nước giao cho Thái-tử Đảnh-Sanh,tồi rời bỏ cung điện quyến thuộc vào núi tu hành. Ngàyrằm Thái-Tử Đảnh-Sanh lên ngôi, đương ở trên lầu caotắm gội trai giới, phương Đông liền có báu kim- luân, bánhxe vàng đủ một ngàn cây căm tự nhiên bay đến. Vua Đảnh-Sanhnghĩ rằng : Từng nghe Ngũ-Thông tiên nhơn nói : Nếu dòng vuaSát-Đế-Lợi ngày rằm ở trên lầu cao tắm gội trai giới,có báu kim luân đủ ngàn cây căm tự nhiên bay đến, thời nhà vua đó sẽ đặng làm Chuyển-Luân Thánh-Vương. Nay ta nênthí nghiệm. Nghĩ xong, vua Đảnh-Sanh tay tả bưng báu kim-luân,tay hửu cầm lư hương, qùy gối bên mặt mà phát thệ rằng: Nếu đây thiệt là báu kim-luân, thời nên bay đi như vuaChuyển-Luân Thánh-Vương thuở quá khứ. Nhà vua phát thệ vừaxong, thời báu kim-luân bay lên hư không, bay khắp mười phương,rồi trở về dừng lại trên tay tả vua Đảnh-Sanh. Nhàvua vui mừng biết chắc mình sẽ là Chuyển-Luân Thánh-Vương.

Sauđó không bao lâu, có tượng bảo xuất hiện, mình trắng nhưbạch liên-hoa, xinh đẹp, mạnh mẽ đôi ngà chấm đất. Vìmuốn thí nghiệm vua Đảnh-Sanh liền bưng lư hương quì gốibên hữu mà phát thệ rằng : Nếu thật là báu bạch tượngnên bay đi như thuở vua Chuyển-Luân Thánh-Vương quá khứ.Phát thệ xong, bạch tượng liền từ sáng đến chiều bayđi khắp tám phương, tột đến mé biển, rồi trở về cungvua. Kế đó lại có Mã-bửu xuất hiện, lông màu xanh biếcmướt đẹp, lông đuôi cùng gáy màu vàng ròng. Vì muốn thínghiệm vua Đảnh-Sanh tay bưng lư hương quì gối bên hữu phátthệ rằng : Nếu thiệt là Mã-bảo thời phải như củavua Chuyển-Luân Tánh-Vương thuở quá khứ. Phát thệ xong, từsáng đến chiều, Mã-bảo ấy đi khắp tám phương, đến mébiển rồi trở về cung vua.

Kếđó lại có Nữ-bảo xuất hiện xinh đẹp đệ nhứt, chơnlông thoảng mùi chiên đàn, hơi miệng thơm sạch như hoa senxanh, mắt sáng nhìn xa một do tuần, tai nghe, mũi ngữicũng xa như mắt, lưỡi rộng lớn le ra có thể trùm cả mặt,da mịn láng như lá đồng đỏ, rất thông minh có trí huệ,lời nói dịu dàng đối với tất cả mọi người. Tay ngườiấy lúc chạm đến áo của vua, liền biết thân vua khỏe mạnhhay bịnh hoạn, cũng biết những ý nghĩ của vua.

Kếđó trong cung vua tự nhiên có Ma-ni bảo châu lớn bằng bắpvế của người, màu thuần xanh, trong suốt, trong chỗ tốicó thể chiếu sáng một do tuần. Nếu trời mưa giọt lớnnhư trục xe, thế lực của bảo châu nầy có thể che mộtdo tuần, giọt mưa không rơi xuống được.

Sauđó, lại có Chủ- tạng thần hiện ra, cặp mắt có thể thấythấu những kho châu báu ở trong lòng đất, tùy ý vua muốnđều có thể dưng đủ. Vua Đảnh-Sanh muốn thí nghiệm bèncùng Chủ-tạng thần ngồi thuyền ra biển, vua bảo chủ-tạngthần : Nay ta muốn đặng châu báu. Chủ-tạng thần liền lấyhai tay quậy nước biển, đầu mười ngón tay liền hiện ramười kho châu báu lấy dưng cho vua tâu rằng : “Tùy ý nhàvua chọn dùng, còn thừa lại nên ném trả xuống biển.”

Kếđó lại có chủ-binh thần xuất hiện, thao lược đệ nhứt,điều khiển bốn binh chủng rất giỏi. Lúc vua cần binh thờihiện quân lính ra để dùng. Lúc chẳng dùng binh, thời quânlính ẩn mất. Xứ nào chưa hàng phục chủ binh thần nầycó thể làm cho hàng phục. Xứ nào đã hàng phục, thời đủsức giữ gìn.

Lúcđó vua Đảnh-Sanh tự biết là Chuyển-Luân -Vương, bèn bảocác quan :
“Cõi Diêm-Phù-Đề nầy an ổn giàu vui, nay bảy báu đã đủ,cả ngàn vương tử cũng đủ, giờ đây nên làm việc gì ?”

Cácquan tâu : “ Châu Phất-Bà-Đề phương Dông còn chưa qui thuận,đại vương nên đem binh qua chinh phục.”

VuaĐảnh-Sanh bèn cùng thất-bảo bay qua châu Phất-Bà-Đề, nhơndân trong châu đó đều vui mừng qui thuận.

Cácquan lại tâu nên chinh phục châu Cù-Đà-Ni ở phương Tây. Kế đó lại đến chinh phục châu Uất-Đơn-Việt. Sau khi chinhphục ba châu xong. Vua Đảnh-Sanh bảo các quan : “ Châu Nam-Diêm-Phù-Đềnày cùng ba châu đều an onå giàu vui, tất cả đều qui thuậnta, nay đây lại nên làm việc gì ?”

Cácquan tâu : “ Cõi trời Đao-Lợi tuổi thọ dài lâu , an ổn,khoái lạc, thân chư Thiên xinh đẹp hơn nhơn gian, cung điệnnhẫn đến giường ghế toàn bằng bảy báu, cậy phước trờichưa chịu đến qui phục, nay nên đem binh đánh dẹp.”

VuaĐảnh-Sanh lại cùng thất bảo bay lên cõi trời Đao-Lợi,trông thấy một cây màu xanh đậm bèn hỏi đại thần : Đólà cây gì ?

Đại-thầntâu : Cây ấy tên là Ba-Lợi-Chất-Đa-La, chư Thiên cõi Đao-Lợinầy đến ngày mùa hạ thường tựu hợp vui chơi dưới câyđó.

Lạitrông thấy màu trắng như bạch vân, vua Đảnh-Sanh hỏiđại thần chỗ đó là gì ? Đại-thần tâu đó là thiện-pháp-đường,chư thiên cõi Đao-Lợi thường nhóm nơi đó để bàn luậnnhững việc cõi trời cõi người.

Thiên-ChúaThích-Đề-Hoàn-Nhơn biết vua Đảnh-Sanh đã đến, liền ratiếp rước, cầm tay vào thiện-pháp-đường lên tòa mà ngồi.Hai vua hình dung tướng mạo giống nhau, chỉ có đôi mắt nhìnnháy là khác nhau.

Lúcđó vua Đảnh-Sanh nghĩ rằng : nay ta có thể đuổi thiên-chúanầy để ta ở đây làm thiên-vương.

Thiên-Đế-Thíchvốn thọ trì đọc tụng kinh điển Đại-thừa, thường vìchư Thiên giảng thuyết, chỉ chưa thông đạt hết thâm nghĩacủa kinh. Do thọ trì giảng thuyết Đại-thừa nên Thiên-Đếcó oai đức hơn.

Khivua Đảnh-Sanh khởi ác tâm đối với Thiên-Đế, tổn phướcliền tự rớt xuống Diêm-Phù-Đề, nhớ tiếc cõi trời lòngrất khổ não. Không bao lâu vua Đảnh-Sanh phải bịnhchết.

NầyThiện-nam-tử ! Thiên-Đế thuở đó chính là Phật Ca-Diếp,vua Đảnh-Sanh thời là tiền thân của ta.

NầyThiện-nam-tử ! Phải biết ái-biệt-ly như vậy rất là khổnão.

NầyThiện-nam-tử ! Đại-Bồ-Tát còn nhớ những trường hợpái-biệt-ly khổ thuở quá khứ, huống là Bồ-Tát trụ nơikinh Đại-Thừa Đại-Niết-Bàn mà nên chẳng quán sát sựái-biệt-ly khổ trong đời hiện tại !

NầyThiện-nam-tử ! Thế nào là Đại Bồ-Tát tu hành kinhĐại-thừa Đại- Niết-Bàn quán sát oán-tằng-hội khổ ?

Đại-Bồ-Tátnầy quán sát địa ngục, súc sanh, ngạ quỉ, loài người,trên trời đều có sự oán-tằng-hội-khổ như vậy.

Vínhư có người quán sát lao ngục giam nhốt, gông xiềng làrất khổ. Cũng vậy, Đại-Bồ-Tát quán sát năm loài chúngsanh đều là oán-tằng-hội-hiệp rất khổ sở.

Vínhư có người thường sợ kẻ oán thù, gông cùm, xiềng xích,nên bỏ cha mẹ, vợ con, quyến thuộc, cùng của báu sản nghiệpmà trốn lánh đi xa. Cũng vậy, Đại-Bồ-Tát sợ sanh tử,nên tu hành sáu môn Ba-La-Mật, chứng nhập Niết- Bàn. Đâygọi là Bồ-Tát tu hành Đại-thừa Đại-Niết-Bàn quán sátoán-tằng-hội khổ.

NầyThiện-nam-tử ! Thế nào là Đại-Bồ-Tát tu hành Đại-thừaĐại-Niết- Bàn quán sát cầu-bất-đắc khổ ?

Cầulà mong cầu tất cả , có hai thứ : Một là cầu pháp lành,hai là cầu pháp chẳng lành. Cầu pháp lành mà chưa đặngthời khổ, pháp ác muốn rời mà chưa rời được thời khổ.

Đâylà lược nói ngũ- ấm-thạnh khổ. Đây gọi là khổ đế.

Ca-diếpBồ-Tát bạch Phật : “ Thế-Tôn ! Như lời Phật nói, ngũấm thạnh khổ nghĩa đó chẳng phải. Vì như ngày trướcPhật bảo Thích-Ma-Nam : Nếu sắc là khổ, tất cả chúng sanhlẻ ra chẳng nên cầu sắc, nếu có người cầu thời chẳnggọi là khổ. Lại như Phật bảo các Tỳ-kheo thọ có ba thứ: Khổ thọ, lạc thọ, bất khổ bất lạc thọ. Lại như lúctrước đức Phật nói với các Tỳ-kheo : Nếu người nàocó thể tu hành pháp lành thời đặng thọ lạc. Lại như đứcPhật nói : Ở trong đường lành sáu căn lãnh thọ sáu cảnhvui : Mắt thấy sắc đẹp là vui, tai, mũi, lưỡi, thân nhẫnđến ý suy nghĩ pháp lành cũng như vậy.

NhưPhật từng nói kệ :

Trìgiới thời là vui, Thân chẳng thọ sự khổ. Ngủnghỉ đặng an ổn, Thức dậy lòng vui vẻ. Lúc nhậnlấy y thực, Đọc tụng và kinh hành, Ở riêng nơinúi rừng, Như vậy là rất vui. Nếu đối với chúngsanh, Ngày đêm tu lòng từ, Nhơn đây được thườngvui, Vì chẳng hại người khác. Ít muốn biết đủ vui, Học rộng biết nhiều vui, A-La-Hán không chấp, Cũnggọi là thọ vui, Các vị Đại Bồ-Tát, rốt ráođến bờ kia. Những việc làm đã xong, Đây gọilà rất vui.

Thế-Tôn! Trong các bộ kinh nói về tướng vui ý nghĩa như vậy. Thếnào tương ứng với nghĩa của Phật nói hôm nay ?

Phậtbảo Ca-Diếp Bồ-Tát : “ Lành thay ! Lành thay ! Ông khéocó thề thưa hỏi đức Như-Lai những nghĩa như vậy.

NầyThiện-nam-tử ! Tất cả chúng sanh đối với sự khổ hạnghạ tưởng lầm là vui. Vì thế nên nay ta nói tướng khổkhông khác với ngày trước đã nói.

Ca-DiếpBồ-Tát bạch Phật : “ Như lời Phật hỏi : Đối vớisự khổ hạng hạ tưởng cho là vui, thời sanh, lão, bệnh,tử hạng hạ cùng ái-biệt-ly, cầu-bất-đắc, oán- tằng-hội,ngũ-ấm-thạnh hạng hạ, những sự khổ như vậy lẽ ra cũngnên có vui.

Thế-Tôn! Sanh hạng hạ là ba ác thú, sanh hạng trung là loài người,sanh hạng thượng là trên trời.

Nếulại có người hỏi rằng : Nếu ở nơi sự vui hạng hạ tưởngcho là khổ, trong sự vui hạng trung tưởng cho là không khổkhông vui. Trong sự vui hạng thượng tưởng cho là vui, thờiphải trả lời thế nào ?

Thế-Tôn! Nếu trong sự khổ hạng hạ tưởng cho là vui, chưa thấycó người nào sẽ bị phạt đánh ngàn trượng, lúc mới đánhmột trượng đầu mà đã tưởng là vui. Nếu lúc đánhtrượng đầu chẳng tưởng là vui, thế sao nói rằng : Nơitrong sự khổ hạng hạ mà tưởng cho là vui ?”

Phậtbảo Ca-Diếp Bồ-Tát : “ Phải lắm ! Phải lắm ! Đúng nhưlời ông nói. Do nghĩa nầy nên không có tưởng là vui, vìnhư người tội kia sẽ bị phạt đánh ngàn trượng, khi bịđánh một trượng rồi liền đặng tha. Người nầy bèn sanhlòng vui. Vì thế nên biết rằng trong sự không vui lầm tưởnglà vui.”

Ca-DiếpBồ-Tát bạch Phật : Thế-Tôn ! Người đó chẳng vì bị đánhmột trượng mà sanh vui. Chính vì đặng tha mà sanh lòngvui.

_ NầyThiện-nam-tử ! Vì thế nên ta ngày trước nói với Thích-Ma-Namtrong ngũ ấm có vui, lời đó là đúng, thiệt chẳng phảimâu thuẩn vậy.

NầyThiện-nam-tử ! Có ba thọ và ba khổ. Ba thọ là : Lạc thọ,khổ thọ và bất khổ bất lạc thọ. Ba khổ là : Khổ-khổ,hành khổ, hoại khổ.

NầyT.hiện-nam-tử ! Khổ thọ chính là cả ba món khổ : Khổ-khổ,hành khổ và hoại khổ. Hai món thọ kia chính là hành khổvà hoại khổ. Do đây nên trong sanh tử thiệt có lạc thọ.Đại-Bồ-Tát thấy tánh khổ cùng tánh lạc chẳng rời lìanhau nên nói rằng tất cả đều khổ.

NầyThiện-nam-tử ! Trong sanh tử thiệt không có vui, vì chư Phật Bồ-Tát tùy thuận thế gian nên nói là có vui.

Ca-DiếpBồ-Tát bạch Phật : “ Thế-Tôn ! Chư Phật và Bồ-Tát nếutùy theo thế tục mà nói, thời là có hư vọng chăng ? NhưPhật thường nói, người tu hành pháp lành thời thọ quảbáo vui. Trì giới an vui thân chẳng thọ khổ, nhẫn đến việclàm đã xong đây là rất vui. Lời nói thọ vui trong các kinhnhư vậy, chừng có hư vọng chăng . Nếu là hư vọng, thờichư Phật Thế-tôn trong vô lượng trăm ngàn muôn ức a-tăng-kỳ-kiếptu hành đạo bồ-đề đã lìa vọng ngữ. Nay Phật nói nhưvậy ý nghĩa thế nào ?

_ NầyThiện-nam-tử ! Như bài kệ nói về những sự thọ lạc trướckia chính là cội gốc của đạo Bồ-Đề, cũng có thể trưởng-dưỡngvô thượng bồ-đề. Do nghĩa đó nên trong những kinh trướcnói tướng vui như vậy.

Vínhư trong thế gian những đồ cần dùng cho đời sống, cóthể làm nhơn cho sự vui, nên gọi là vui. Như nữ sắc, rượuuống, đồ ăn ngon, lúc khát được nước, lúc lạnh đượclửa, y phục, chuỗi ngọc, voi ngựa, xe cộ, tôi tớ, vàng,bạc, lưu ly, san hô, chơn châu, kho đựng lúa gạo, những vậtnhư vậy người đời cần dùng có thể làm nhơn cho sự vuinên gọi là vui.

NầyThiện-nam-tử ! Những vật như vậy cũng có thể sanh sự khổ.Nhơn nơi nữ sắc sanh sự khổ, lo, rầu, buồn, khóc nhẫnđến phải chết cho người nam. Nhơn nơi rượu, đồ ăn ngon,nhẫn đến lúa gạo cũng có thể làm cho người phải lo khổnhiều. Do nghĩa đó nên tất cả đều khổ không có tướngrốt ráo vui.

NầyThiện-nam-tử ! Đại-Bồ-Tát nơi tám điều khổ nầy, hiểurỏ là khổ nên không bị khổ.

NầyThiện-nam-tử ! Tất cả hàng Thanh-Văn, Duyên-Giác chẳng biếtnhơn của sự vui, nên Phật vì họ ở trong sự khổ hạnghạ nói có tướng vui. Chỉ có Bồ- Tát trụ nơi Đại-ThừaĐại-Niết-Bàn bèn có thể biết nhơn của sự khổ sự vuinầy.

NầyThiện-nam-tử ! Thế nào là Đại-Bồ-Tát trụ nơi Đại-ThừaĐại-Niết- Bàn quán sát tập đế ? Đại-Bồ-Tát quán sáttập đế là nhơn duyên ngũ ấm. Tập nghĩa là trở lại ái-luyếnnơi hữu. Ái có hai thứ : Một là ái thân mình, hai là áiđồ cần dùng. Lại có hai thứ : Năm thứ dục lạc, lúc chưađặng tâm luôn tìm cầu, đã tìm cầu đặng rồi luôn đắmtrước. Lại có ba thứ : dục ái, sắc ái, vô sắc ái. Lạicó ba thứ : Nghiệp nhơn duyên ái, phiền não nhơn duyên ái,khổ nhơn duyên ái. Người xuất gia có bốn thứ ái : Y phục,đồ ăn uống, đồ nằm, thuốc thang. Lại có năm thứ : Thamlam nơi ngũ ấm, tùy chỗ cần dùng tất cả đều tham ái toantính phân biệt vô-lượng vô-biên.

NầyThiện-nam-tử ! Ái có hai thứ : Một là thiện ái, hai là bấtthiện ái. Chỉ người ngu tìm cầu bất thiện ái. Cácvị Bồ-Tát cầu nơi thiện-ái. Thiện ái lại có hai thứ: Bất thiện và thiện. Cầu pháp Nhị-thừa gọi là bất thiện.Cầu pháp Đại- thừa gọi là thiện.

NầyThiện-nam-tử ! Kẻ phàm phu tham ái gọi là “ tập” chẳnggọi là “đế”. Sự ái của Bồ-Tát thời gọi là thậtđế chẳng gọi là tập, vì Bồ-Tát muốn độ chúng sanh nênthị hiện thọ sanh, chẳng phải vì tham ái mà thọ sanh.

Ca-DiếpBồ-Tát bạch Phật : Thế-Tôn ! Như trong các kinh khác đứcPhật vì chúng sanh mà nói nghiệp làm nhơn duyên, hoặc nóikiêu mạn, hoặc nói lục xúc, hoặc nói vô minh làm nhơn duyênmà có ngũ ấm xí-thạnh. Hôm nay do nghĩa gì đức Phậtnói bốn Thánh-Đế riêng lấy ái làm nhơn cho ngũ ấm.

Phậtkhen Ca-Diếp Bồ-Tát : “ Lành thay ! Lành thay ! Đúng như lờiông vừa nói, các nhơn duyên chẳng phải làm cũng chẳng phảinhơn, chỉ vì năm ấm cần phải nhơn nơi ái.

Vínhư quốc vương lúc đi tuần du các quan quyến thuộc thảyđều theo hầu. Cũng vậy, ái đi đến chỗ nào thời các kiếtsử cũng đi theo.

Vínhư y phục thấm mồ hôi, bụi bay đến liền bám dính. Cũngvậy, chỗ nào có ái những nghiệp kiết cũng ở nơi đó.

Vínhư đất ướt thời có thể mọc mầm. Cũng vậy, ái có thểsanh tất cả mầm nghiệp phiền não.

NầyThiện-nam-tử ! Đại Bồ-Tát trụ nơi Đại-thừa Đại-Niết-Bànquán sát kỹ ái nầy có chín thứ : Một là như thiếu nợ,hai là như vợ La-Sát, ba là như trong cọng hoa đẹp có rắnđộc vấn , bốn là như vật thực độc mà cố ăn đó, nămlà như dâm nữ, sáu là như hột ma-lâu-ca, bảy là như thịtthúi trong mụn nhọt, tám là như gió bão, chín là như sao chổi.

Nhưthiếu nợ là thế nào ! Ví như người nghèo cùng thiếu tiềncủa người khác, dầu đã trả nợ mà vẫn còn thiếu, nênbị giam nhốt chưa ra khỏi ngục. Hàng Thanh-Văn Duyên-Giácvì còn tập khí thừa của ái nên chẳng chứng đặng vô thượngbồ-đề.

Nhưvợ La-Sát là thế nào ? Ví như có người lấy gái La-Sátlàm vợ, gái La- Sát nầy hễ sanh con liền ăn thịt, ăn thịtcon đẻ hết lại ăn luôn thịt chồng. Ái cũng vậy, tùy ngườisanh thiện căn nó liền ăn, ăn hết thiện căn nó lại ănluôn cả người làm cho phải đọa địa ngục, súc sanh ngãquỉ. Chỉ trừ các vị Bồ-Tát.

Nhưcọng hoa đẹp có rắn độc vấn là thế nào ? Như có ngườithích hoa đẹp mà chẳng thấy cọng hoa có rắn độc, liềnđến ngắt hoa bị rắn cắn chết. Tất cả phàm phu tham đắmngũ dục mà chẳng thấy độc hại của ái, nên bị ái làmhại, sau khi chết đọa trong ba đường ác. Chỉ trừ các vịBồ-Tát.

Vậtthực độc mà cố ăn là thế nào ? Như có người cố ănvật thực độc, ăn xong đau bụng thổ tả mà chết. Chúngsanh trong ngũ đạo vì tham ái mà phải bị đọa trong ba đườngác. Chỉ trừ các vị Bồ-Tát.

Nhưdâm nữ là thế nào ? Ngư người ngu tư thông với dâm nữ,dâm nữ nầy thường dối phĩnh gạt đoạt hết tiền củarồi xua đuổi người ấy. Người ngu không có trí tuệ bịtham ái đoạt tất cả pháp lành rồi xua đuổi vào trong bađường ác. Chỉ trừ các vị Bồ-Tát.

Nhưhột ma-lâu-ca là thế nào ? Nếu chim ăn hột ma-lâu-ca, phẩnchim do gió thổi rớt dưới cây liền mọc lên đeo vấn câyto làm cho khô chết, tham ái ràng buộc phàm phu làm cho pháplành không tăng trưởng nhẫn đến khô diệt, sau khi chếtđọa vào ba đường ác. Chỉ trừ các vị đại Bồ-Tát.

Thịtthúi trong mụn nhọt như thế nào ? Như người bị ung nhọt,trong nhọt sanh thịt thúi, người bịnh nầy phải chuyên tâmchạy chữa, nếu chểnh mãng thời thịt thúi sanh trùng cóthể phải chết, ngũ ấm của phàm phu cũng như vậy, ái sanhtrong đó, phải nên siêng năng điều trị tham ái, nếu khôngđiều trị sẽ phải đọa trong ba đường ác. Chỉ trừ cácvị Bồ-Tát.

Nhưgió bão là thế nào ? Gió bão có thể làm lở núi ngãcây. Cũng vậy, tham ái sanh tâm ác đối với cha mẹ,có thể làm ngã trốc cội cây vô thượng Bồ- Đề của cácông Đại-Trí Xa-Lợi-Phất vân vân. Chỉ trừ các vị Bồ-Tát.

Nhưsao chổi là thế nào ? Như sao chổi mọc thời trong thiênhạ phải bịnh tật, đói kém, họa tai khổ sở. Cũng vậy,ái có thể dứt tất cả căn lành làm cho phàm phu cơ cùngthiếu thốn sanh bịnh phiền não lưu chuyển trong sanh tử mangnhiều sự khổ. Chỉ trừ các vị Bồ-Tát.

NầyThiện-nam-tử ! Đại-Bồ-Tát Đại-Thừa trụ nơi Đại-Niết-Bànquán sát tham ái có chín thứ như vậy.

Donghĩa trên đây, hàng phàm phu có khổ, không đế. Hàng Thanh-VănDuyên- Giác có khổ đế mà không chơn thật. Các vị Bồ-Táthiểu khổ không có khổ mà có chơn đế. Hàng phàm phu cótập không có đế. Hàng Thanh-Văn Duyên- Giác có tập có tậpđế. Các vị Bồ-Tát hiểu tập không có tập mà có chơnđế. Hàng Thanh- Văn Duyên-Giác có diệt mà chẳng phải chơn.Đại-Bồ-Tát có diệt có chơn đế. Hàng Thanh-Văn Duyên-Giáccó đạo mà chẳng phải chơn. Đại Bồ-Tát có đạo có chơnđế.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567