KINH ÐẠI BÁTNIẾT BÀN
DịchTừ Hán Sang Việt: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
TịnhXá Minh Ðăng Quang, Hoa Kỳ Xuất Bản 1990
XXVI
PHẨMDI GIÁO THỨ HAI MƯƠI SÁULúcbấy giờ Đức Phật bảo An Nan và đại chúng : Sau khi ta diệtđộ, hàng tứ chúng phải siêng hộ trì kinh Đại Bát NiếtBàn của ta. Trong vô lượng vô số kiếp ta tu tập pháp ĐạiNiết Bàn khó đặng nầy, nay đã giải thuyết rõ ràng chođại chúng.
Cácngười nên biết pháp Đại Niết Bàn nầy là bảo tạng KimCang thường , lạc, ngã, tịnh hoàn toàn viên mãn của tấtcả chư Phật. Tất cả chư Phật đều ở nơi pháp Đại NiếtBàn nầy mà nhập Niết Bàn. Pháp nầy là pháp tối hậu rốtráo chí lý cùng tột không thiếu sót. Chư Phật đều phóngxả thân mạng nơi đây, do đó nên gọi là Đại Niết Bàn.
Đạichúng muốn đặng chơn thật báo ân Phật, mau chứng Bồ Đề,được chư Phật rờ đầu, đời đời sanh ra chẳng mất chánhniệm, thập phương chư Phật thường hiện trước mình ngàyđêm giữ gìn làm cho tất cả mọi người được pháp xuấtthế, thời phải siêng năng tu tập kinh Đại Niết Bàn nầy.
Phậtbảo A Nan : Lúc ta chưa thành Phật thị hiện vào trong phápngoại đạo của Uất Đầu Lam Phất, tu học tứ thiền bátđịnh.
Từkhi ta thành Phật đến nay bác bỏ những pháp ấy khuyến dụlần lần các phái ngoại đạo, cuối cùng đến ông Tu BạtĐà La, cho họ đều vào Phật Đạo.
ĐứcNhư Lai dùng đuốc đại trí đốt tràng tà kiến, như đemlá cỏ khô ném vào trong ngọn lửa lớn.
NầyA Nan ! Nay những người dòng Thích Ca ta rất lo nghĩ đến họ.Sau khi ta nhập Niết Bàn, ông phải siêng năng đem điều lànhdạy răn, hàng quyến thuộc của ta, hết lòng dạy dỗ chohọ được diệp pháp. Chớ để họ phóng dật tán tâm chơibời hoặc theo tà pháp.
Ngườichưa thoát khỏi sự thống khổtrong ba cõi phải sớm cầugiải thoát. Phải lo sợ chốn ngũ trược ái dục nầy, mộtkhi mất thân người rất khó được lại, trọn đời phảithường soi xét. Khó lấy tình để cầu thoát khỏi quỉ vôthường.
Phảithương xót chúng sanh, chớ giết hại dầu là côn trùng nhỏnhít.
Thânnghiệp thanh tịnh thường sanh cõi tốt đẹp. Khẩu nghiệpthanh tịnh xa lìa những lỗi ác . Chớ ăn thịt, chớ uốngrượu.
Điềuphục con rắn tâm cho nó vào đạo quả.
Phảisuy nghĩ kỹ nghiệp nhơn thiện ác cảm báo tốt xấu. Nhơnquả trong ba đời tuần hoàn chẳng mất, như bóng theo hình.Đời nầy luống qua về sau ăn năn không kịp.
GiờNiết Bàn đã đến, ta tóm tắt dạy bảo như vậy.
A Nannghe lời Phật dạy, thân thể rung tâm động, buồn khóc nghẹnngào, mê muội té xuống trước mặt Phật như người chết.
Lúcđó ngài A Nâu La Đà an ủi A Nan rằng : “ Đâu nên quá sầukhổ như vậy ! Đã đến giờ Đức Như Lai nhập Niết Bàn,ngày nay dầu có Phật, sáng mai thời đã không. Ông y theo lờitôi để thưa hỏi Đức Như Lai bốn điều.
_ Saukhi Phật nhập Niết Bàn Lục Quần Tỳ Kheo làm việc ô thagia, cùng Xa Nặc ác tánh, các Tỳ Kheo làm thế nào để cùnghọ cộng trụ và chỉ dạy họ ?
ĐứcNhư Lai còn thời dùng Phật làm Thầy, Đức Như Lai đã diệtđộ rồi lấy gì để làm Thầy ?
_ LúcPhật còn nương nơi Phật mà trụ, Như Lai đã diệt độ nươnggì để trụ ?
_ Saukhi Phật diệt độ, lúc kết tập pháp tạng, đầu các kinhphải để những lời gì ?
A Nannhư ở trong mộng nghe ngài A Nâu Lâu Đà khuyên bảo hỏi Phậtbốn điều. Lần lần được tỉnh ngộ chẳng xiết buồnthảm, A Nan đem bốn điều trên hỏi Phật.
ĐứcNhư Lai bảo A Nan : “ Sao lại quá buồn khổ như vậy ! ChưPhật thuyết pháp giáo hóa việc làm đã xong, theo phải vềnơi đây.
Lànhthay ! Lành thay ! Bốn điều ông vừa hỏi, là lời hỏi tốihậu, có lợi ích lớn cho tất cả thế gian. Các ông lóngnghe và khéo suy nghĩ ghi nhớ.
Saukhi Phật nhập Niết Bàn, Tỳ Kheo Xa Nặc tâm tánh sẽ lầnlần điều phục nhu hòa bỏ ác tánh cũ.
NầyA Nan ! Ông Nan Đà trước kia rất nặng ái dục, tánh rấtxấu ác, Đức Như Lai dùng thiện phương tiện chỉ dạy choông ấy được lợi ích vui mừng. Phật rõ biết căn tánhcủa ông ấy, dùng huệ bát nhã mà giảng thuyết mười hainhơn duyên : Chính là vô minh duyên hành, hành duyên thức, nhẫnđến lão tử ưu bi khổ não, đều là rừng bụi vô minh yêughét, tất cả hành khổ đầy tràn trong ba cõi, chạy khắptrong lục đạo. Cội gốc sự khổ từ vô minh khởi lên. Dùnghuệ bát nhã hiển bày tánh tịnh, quán sát kỹ cội gốc thờidứt được tội lỗi trong ba cõi. Vì cội gốc vô minh dứtnên vô minh dứt, vô minh dứt thời hành dứt, nhẫn đến lãotử ưu bi khổ não đều dứt.
Lúcđược quán niệm nầy nhiếp tâm đứng dừng thời đượcnhập Tam Muội, do sức Tam Muội được nhập sơ thiền lầnlượt nhập tứ thiền không rời chánh niệm luôn tu tập nhưvậy, rồi sau tự sẽ được chứng thượng quả thoát khỏikhổ trong ba cõi Nan Đà Tỳ Kheo, tin sâu lời dạy của Phật,siêng năng tu tập trong một ít lâu được chứng quả A LaHán.
NầyA Nan ! Sau khi ta nhập Niết Bàn, các ông nên y theo giáo phápchánh quán của ta mà chỉ dạy cho Lục Quần cùng Xa Nặc,hết lòng nương theo chánh pháp thanh tịnh nầy, tự sẽ đượcchứng thượng quả.
NầyA Nan ! Phải biết rằng đều do nơi vô minh mà tăng trưởngcây sanh tử trong ba cõi, nên mãi trôi chìm trong ái hà, chịukhổ mãi dưới vực tối tăm, vòng quanh cột sanh tử. Sáuthức là nhánh, vọng niệm là gốc, lượn sóng vô minh xúckhiến tâm thức dạo chơi theo lục trần, sanh mầm các sựkhổ não. Vô minh nó tự tại như vua, không ai chế ngự được.Do đây nên ta nói ông chủ vô minh niệm niệm làm hại, chúngsanh chẳng hay biết, mãi luân chuyển trong sanh tử.
NầyA Nan ! Tất cả chúng sanh vì vô minh nầy mà khởi những thamái, bị ngã kiến che đậy, tám muôn bốn ngàn phiềnnão sai sử thân họ, làm cho thân tâm họ tan vỡ không đượctự tại.
NầyA Nan ! Nếu vô minh dứt thời ba cõi đều hết, nên gọi làngười xuất thế.
NầyA Nan ! Nếu có thể quán sát kỹ mười hai nhơn duyên rốtráo không có ngã, sâu vào nơi bổn tánh thanh tịnh, thời cóthể xa lìa ngọn lửa lớn ba cõi.
NầyA Nan ! Đức Như Lai là đấng chơn ngữ nói lời thành thật,đây là lời phó chúc tối hậu, các ông phải y theo tu hành.
NầyA Nan ! Ông hỏi sau khi Phật diệt độ lấy gì làm Thầy ?âNên biết giới Ba La Đề Mộc Xoa là Đại Sư của các ông.Nương theo đó tu hành thời có thể được định huệ xuấtthế.
NầyA Nan ! Ông hỏi sau khi Phật nhập Niết Bàn nương gì đểtrụ ? Phải nương pháp tứ niệm xứ mà trụ : Quán sáttánh tướng của thân đồng như hư không gọi là thân niệmxứ, quán sát sự cảm thọ chẳng ở trong, chẳng ở ngoài,chẳng ở chặn giữa, gọi là thọ niệm xứ, quán sát tâmchỉ có danh tự tánh danh tự rời rạc gọi là tâm niệm xứ,quán sát pháp thiện chẳng thể được pháp bất thiện cũngchẳng thể được gọi là pháp niệm xứ. Tất cả ngườitu hành phải nương theo pháp tứ niệm xứ nầy mà trụ.
NầyA Nan ! Ông hỏi sau khi Như Lai diệt độ lúc kết tập pháptạng, đầu tất cả kinh để những lời gì ?
NầyA Nan ! Sau khi Như Lai diệt độ lúc kết tập pháp tạng đầutất cả kinh nên để như vầy : “ Như thị ngã văn nhứtthời Phật trụ mỗ phương mỗ xứ, cùng hàng tứ chúng mànói kinh nầy “.
A Nanlại bạch Phật : Lúc Phật ở đời, hoặc sau khi Phật nhậpNiết Bàn, có tín tâm đàn việt đem vàng bạc bảy báu cùngtất cả đồ cần dùng dưng cúng cho Như Lai thời phải xửtrí thê nào ?
Phậtnói : Lúc Phật còn, những vật cúng dường Phật, thời chúngTăng nên biết. Sau khi Phật diệt độ những vật cúng dườngPhật, thời nên dùng tạo tượng Phật và tạo y của Phật,phan lọng bảy báu, sắm các thứ hương dầu bông để cúngdường Phật. Trừ việc cúng dường Phật ngoài ra chẳng đượcdùng. Người lạm dụng thời phạm tội lấy trộm vật củaPhật.
A Nanlại bạch : Lúc Phật còn có người đem vàng bạc bảy báuđiện đường phòng nhà y phục đồ uống ăn tất cả đồcần dùng, hoặc vợ con tôi tớ mà cung kính cúng dường NhưLai. Sau khi Phật nhập diệt nếu có người đem những vậtnhư trên mà cung kính cúng dường tượng Phật. Bạch ThếTôn ! Phước đức của hai người nầy ai nhiều hơn ?
Phậtnói : Vì đều cung kính cúng dường cả nên phước đức củahai người được đồng nhau. Dầu Phật diệt độ nhưng phápthân vẫn thường còn, nên cung kính cúng dường được phướcvẫn đồng như Phật hiện tại.
A Nanlại bạch ; Lúc Phật hiện tại nếu có người đem nhữngvật như trên cung kính cúng dường Phật, sau khi Như Lai nhậpNiết Bàn, nếu có người đem những vật như trên cung kínhcúng dường toàn thân Xá Lợi, phước đức của hai ngườinầy, ai nhiều hơn ?
Phậtnói : Hai người nầy được phước đồng nhau công đức rộnglớn vô lượng vô biên nhẫn đến hết khổ, phước đó chẳnghết.
A Nanlại bạch : Lúc Phật hiện tại, nếu có người cung kínhcúng dường Phật như trên, sau khi Phật nhập Niết Bàn nếucó người cung kính cúng dường nửa thân Xá Lợi ai đượcphước nhiều hơn ?
Phậtnói : Vì hai người đều cung kính cúng dường nên đượcphước đồng nhau phước đức nầy vô lượng vô biên.
NầyA Nan ! Nhẫn đến cung kính cúng dường một phần tư Xá Lợi,một phần tám , một phần trăm, một phần ngàn, một phầnmuôn, một phần hằng hà sa, hoặc chừng bằng hột cải, ngườinầy được phước cũng đồng như người cung kính cúng dườngĐức Như Lai hiện tại.
A Nannên biết rằng hoặc Phật hiện tại hoặc đã nhập NiếtBàn, nếu có người cung kính cúng dường lễ bái tán thán,được phước đức đồng nhau không khác.
Phậtbảo A Nan cùng đại chúng : Sau khi ta nhập Niết Bàn, tấtcả chúng sanh hoặc thiên thượng hay nhơn gian , được XáLợi của ta mà vui mừng thương cảm cung kính lễ bái cúngdường thời được vô lượng vô biên công đức.
NầyA Nan ! Nếu thấy Xá Lợi của Như Lai thời là thấy Phật,thấy Phật là thấy Pháp, thấy Pháp là thấy Tăng, thấy Tănglà thấy Niết Bàn.
A Nannên biết rằng do nhơn duyên trên đây mà Tam Bảo thườngtrụ không biến đổi, có thể làm chỗ quy y cho tất cả chúngsanh.
A Nanbạch Phật : Sau khi Như Lai nhập Niết Bàn, tất cả đạichúng y theo phép tắc nào để trà tỳ thân Như Lai để đượcXá Lợi cung kính cúng dường.
Phậtnói : “ Khi ta nhập Niết Bàn rồi, đại chúng nên y theo phươngpháp trà tỳ Chuyển Luân Thánh Vương.”
A Nanbạch Phật : “ Pháp tắc trà tỳ Chuyển Luân Thánh Vươngnhư thế nào ?”
Phậtnói : Sau khi Chuyển Luân Thánh Vương mạng chung, đình thi hàibảy ngày mới để vào quan tài vàng, rồi lấy dầu thơm vidiệu đổ đầy quan tài đậy lại thật kín. Đủ bảy ngàyđem thi hài ra, dùng nước thơm tắm rửa, đốt hương thơmcúng dường. Dùng bông Đâu La Miên bao khắp thân thể, sauđó dùng ngàn bức bạch điệp tốt đẹp vô giá thứ tựvấn chồng lên nhau khắp thi hài của Luân Vương. Vấn xongđổ dầu thơm đầy trong kim quan rồi mới để thi hài LuânVương vào. Đậy kín quan tài xong, chở trên xe thất bảo,bốn mặt treo các chuỗi ngọc, dùng châu báu trang nghiêm xeấy, vô số phan lọng bằng châu báu tốt đẹp giăng treo trênxe. Đốt hương thơm , trổi đại nhạc để cúng dường. Sauđó dùng thuần những gỗ thơm cùng những dầu thơm mà tràtỳ. Trà tỳ xong hốt lấy Xá Lợi, xây tháp thất bảo giữađường ngã tư trong thành, bốn phía tháp có bốn cửa an tríXá Lợi trong đó, để cho tất cả mọi người đồng chiêmngưỡng.
NầyA Nan ! Chuyển Luân Thánh Vương kia do chút ít phước đứcđược nối ngôi vua, chưa thoát khỏi ba cõi, còn đủ ngũdục thê thiếp, ác kiến tham, sân, si, tất cả phiền nãokiết sử chưa dứt được một mảy. Sau khi mạng chung màthế gian còn theo cách thức như vậy, dựng tháp cúng dườngđể mọi người chiêm ngưỡng, huống là Đức Như Lai đãtrải qua vô lượng, vô biên, vô số kiếp bỏ hẳn ngũ dục,tinh tấn thật hành tất cả khổ hạnh xuất thế của BồTát, đã thành tựu đạo hạnh thậm thâm vi diệu thanh tịnh,giới, định, huệ, giải thoát, giải thoát tri kiến, sáu mônBa La Mật, tu tập thập lực, đại bi, bốn vô sở úy, ba môngiải thoát, mười tám đại không, lục thông, ngũ nhãn, bamươi bảy phẩm, mười tám bất cộng, ba mươi hai tướngtốt, tám mươi vẻ đẹp, thọ mạng của tất cả chư Phật,tất cả cõi Phật thanh tịnh, tất cả pháp thành tựu chúngsanh, tất cả khổ hạnh khó làm, tất cả nhiếp luật nghigiới, tất cả nhiếp thiện pháp giới, tất cả nhiếp chúngsanh giới, tất cả công đức, tất cả trí huệ, tất cảtrang nghiêm, tất cả đại nguyện, tất cả phương tiện,tất cả trí huệ phước đức chẳng thể nghĩ bàn như vậy,đều đã thành tựu đầy đủ, dứt trừ tất cả ác, dứttrừ tất cả phiền não, dứt trừ tất cả phiền não tậpkhí, thông đạt tứ đế thập nhị nhơn duyên, nơi cội BồĐề hàng phục bốn ma thành tựu nhứt thiết chủng trí. Đượctất cả chư Phật xướng lời khen lành thay ! Lành thay ! Đồnglấy nước trí pháp tánh, rưới trên đỉnh pháp thân, mớithành vô thượng Bồ Đề. Do nhơn duyên như vậy nên nay tahiệu là Thiên Nhơn Sư thập lực đẳng giác, Thế Tônvô thượng, nhơn gian thiên thượng không ai bằng, bình đẳngxem chúng sanh như La Hầu La, do đó ta hiệu là Như Lai,Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ,Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, ThiênNhơn Sư, Phật Thế Tôn.
Duyêngiáo hóa thế gian đã xong, ta vì chúng sanh ên hôm nay thịhiện nhập Niết bàn. Vì muốn cho chúng sanh khắp được cúngdường, nên ta theo pháp thế gian như vua Chuyển Luân, mà tẩntáng cùng trà tỳ.
Tứchúng nhơn thiên đem Xá Lợi của Như Lai đựng trong bình thấtbảo xây dựng tháp thất bảo để cúng dường Xá Lợi, cóthể làm cho chúng sanh được công đức lớn, lìa khổ ba cõiđến vui Niết Bàn.
NầyA Nan ! Hàng tứ chúng xây tháp thất bảo cúng dường Xá Lợicủa Phật rồi, lại nên xây ba thứ tháp để cúng dường: Tháp Bích Chi Phật, tháp A La hán, tháp Chuyển Luân ThánhVương, vì muốn cho mọi người biết chỗ quy y vậy.
A Nanbạch Phật : Đức Như Lai ra đời thương xót chúng sanh, hiểnbày thập lực, đại bi, bốn vô sở úy, ba môn giải thoát,tứ đế, mười hai nhơn duyên, tám thứ phạm âm vang rềnba cõi, từ quang ngũ sắc soi khắp lục đạo, tùy thuận tâmnghiệp của chúng sanh mà chuyển pháp luân, có người chứngđược bốn quả của nhị thừa tu tập, hoặc chứng đạoDuyên Giác vô lậu vô vi, hoặc nhập lực Bồ Tát bất diệtbất sanh, hoặc được vô lượng Đà La Ni, hoặc được ngũnhãn, hoặc được lục thông, hoặc thoát ba ác đạo, hoặcra khỏi tám nạn, hoặc lìa khổ trời người ba cõi. Đứctừ thanh tịnh của Như Lai, pháp môn giải thoát củaNhư Lai đều chẳng thể nghĩ bàn.
Saukhi nhập diệt, hàng tứ chúng dựng tháp bảy báu cúng dườngXá Lợi được công đức lớn, có thể làm cho chúng sanh thoátkhổ ba cõi, được chánh giải thoát. Do nhơn duyên nầy nênkhi Phật nhập Niết Bàn, tất cả thế gian vì báo đáp từân vô lượng của Phật mà xây tháp thất bảo để cúng dườngXá Lợi, theo lẽ phải như vậy. Ba thứ pháp kia có nhữnglợi ích gì đối với chúng sanh mà đức Phật bảo dựngtháp cúng dường ?
Pậtnói : “ Bích Chi Phật tỏ ngộ nhơn duyên của các pháp chứngnhập pháp tánh, đã thoát tất cả khổ hoạn trong tam giới,có thể làm phước điền cho nhơn thiên. Do đây nên xây thápcúng dường Bích Chi Phật được phước đức kế nơi sựcúng dường Như Lai, có thể làm cho chúng sanh đều đượcdiệu quả.
NầyA Nan ! A La Hán kia đối với ba cõi đã hết sanh tử chẳngthọ thân đời sau, phạm hạnh đã lập có thể làm phướcđiền cho thế gian, nên xây tháp cúng dường được phướcđức kế sự cúng dường Bích Chi Phật, cũng làm cho chúngsanh được nhơn duyên giải thoát.
NầyA Nan ! Chuyển Luân Thánh Vương dầu chưa dứt phiền não, chưagiải thoát ba cõi, nhưng do phước đức mà cai trị bốn thiênhạ, đem pháp thập thiện giáo hóa nhơn dân, là bực tôn kínhcủa mọi người, nên tứ chúng dựng tháp cúng dường, đượcphước đức cũng là vô lượng .”
A Nanbạch Phật : “ Sau khi Phật nhập Niết Bàn, hàng tứ chúngnên làm lễ trà tỳ đức Như Lai tại chỗ nào ?”
Phậtnói : “ Sau khi ta nhập Niết Bàn, nếu tứ chúng làm lễ tràtỳ ở trong thành Câu Thi Na nầy, người trong thành tất tranhgiành đánh đập nhau, và cũng làm cho tất cả mọi ngườiđược phước chẳng đồng nhau. Nên tứ chúng phải làm lễtrà tỳ ở ngoài thành, cho mọi người đều bình đẳng đượcphước.”
A Nanbạch Phật : “ Trà tỳ xong, tứ chúng dùng bình báu đểđựng Xá Lợi, thời nên dựng tháp thất bảo ở tại chỗnào để cho tất cả mọi người đều được cung kính cúngdường ?”
Phậtnói : “ Nên ở trong thành Câu Thi Na, nơi ngã tư đường màxây tháp cao mười ba từng, trước pháp có tướng pháp luân,phan lọng, lan can đều bằng thất bảo, bốn mặt tháp đềumở một cửa, từng lớp cửa nẻo xứng nhau an trí bình báuđựng Xá Lợi của Như Lai trong đó cho tất cả trời ngườichiêm ngưỡng cúng dường.
Thápcủa Bích Chi Phật nên mười một từng . Tháp của A La Hánnên bốn từng. Cũng đều dùng các thứ báu mà trang nghiêm.
Thápcủa Chuyển Luân Vương cũng xây bằng bảy báu nhưng khôngcó từng cấp, vì Luân Vương chưa thoát khổ sanh tử trongba cõi.”
A NâuLâu Đà bạch Phật : Khi trà tỳ xong, tất cả Trời ngườicùng bốn bộ chúng phân chia Xá Lợi của Phật như thế nào?
Phậtnói : “ Nên dùng tâm bình đẳng phân chia Xá Lợi của Phậtkhắp ba cõi để tất cả thế gian đều được cúng dường.”
ThiênĐế Thích Đề Hoàn Nhơn bạch Phật : “ Nay tôi xin cung kínhthỉnh nửa thân Xá Lợi của Như Lai để cúng dường.”
Phậtbảo Thiên Đế : “ Đức Như Lai bình đẳng xem chúng sanhnhư La Hầu La, ông chẳng nên thỉnh nửa thân Xá Lợi. Nayta cho ông một cái răng nanh Xá Lợi hàm trên bên hữu, cóthể xây tháp cúng dường ở trên Trời, làm cho ông đượcphước đức vô tận.”
Lúcđó tất cả đại chúng Trời người buồn thương rơi lệkhông tự dằn được.
ĐứcThế Tôn bảo khắp đại chúng : “ Khi Phật nhập Niết Bànrồi, đại chúng chớ quá sầu não. Vì dầu Phật nhập NiếtBàn mà Xá Lợi vẫn thường còn để cúng dường. Lại cónhững pháp bảo vô thượng, tạng Tu Đa La, tạng Tỳ NạiDa, tạng Ma Ha Đạt Ma, do đây Tam Bảo và tứ đế vẫn thườngtrụ ở thế gian, làm chỗ quy y cho chúng sanh. Vì cúng dườngXá Lợi tức là Phật Bảo, thấy Phật Bảo là thấy phápthân, thấy pháp thân là thấy hiền thánh ,thấy hiền thánhlà thấy tứ đế, thấy tứ đế là thấy Niết Bàn. Do đâynên biết rằng Tam Bảo thường trụ không biến đổi, cóthể làm chỗ quy y cho thế gian.
Đạichúng chớ quá sầu khổ. Nay ta ở đây sắp nhập Niết Bàn.Trong những pháp : Quy y, giới luật, thường, vô thường, TamĐảo, tứ đế, lục độ, mười hai nhơn duyên v.v…, nếuai có điều chi nghi phải mau thưa hỏi, đây là lời hỏi rốtráo cuối cùng để sau khi Phật nhập Niết Bàn không còn nghihối.”
ĐứcPhật phổ cáo trong đại chúng ba lần như vậy.
Tấtcả đại chúng không ai thưa hỏi, vì ai nấy đều thông đạthiểu rõ không còn nghi ngờ.
ĐứcThế Tôn khen rằng : Lành thay ! Lành thay Đại chúng đãcó thể thông đạt các pháp không còn nghi ngờ như nướcsạch rửa hết bụi nhơ nơi thân. Đại chúng phải tinh tấnsớm được giải thoát, chớ sầu não mê muội loạn tâm.
Lúcđó Đức Thế Tôn ngồi trên tòa Sư Tử, lấy tay vàng vạchy tăng già lê để lộ ngực huỳnh kim cho đại chúng thấyrồi bảo rằng : Tất cả đại chúng Trời người nên chítâm nhìn xem sắc thân hùynh kim của Như Lai !
Đạichúng chiêm ngưỡng sắc thân vàng ròng của Phật thảy đềusung sướng như Tỳ Kheo nhập đệ tam thiền.
Sauđó Đức Thế Tôn phóng vô lượng vô biên trăm ngàn muônức ánh sáng Đại Niết Bàn chiếu khắp tất cả thế giớimười hương, che khuất ánh sáng của tất cả mặt trời mặttrăng.
Phóngánh sáng trên đây rồi Đức Phật bảo đại chúng : Mọingười nên biết rằng Đức Như Lai vì tất cả đại chúngmà cần khổ trong nhiều kiếp, đến chặt tay chơn lóc da thịt,đại bi đại nguyện thành bực vô thượng chánh giác nơiđời ngũ trược nầy, được sắc thân Kim Cang bất hoạiđủ ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, vô lượngánh sáng chiếu khắp tất cả. Ai thấy được hình, gặp đượcánh sáng của Phật, đều được giải thoát cả.
Nầyđại chúng ! Phật ra đời rất khó gặp khó thấy như hoaƯu Đàm. Đại chúng gặp ta đây là lần sau cùng, đối vớithân nầy chớ để luống qua. Do sức thệ nguyện mà ta sanhnơi cõi uế ác nầy. Duyên giáo hóa đã hòan tất, nay ta muốnnhập Niết Bàn. Đại chúng nên chí thành nhìn xem sắc thânhùynh kim của ta, cố gắng tu tập nghiệp thanh tịnh như vậy,đời vị lai sẽ được quả báo nầy.
ĐứcThế Tôn ba phen ân cần khuyên bảo như vậy, đồng thời bàythân chơn kim cho đại chúng thấy.
Sauđó Đức Phật từ trên giường thất bảo sư tử bay lênhư không cao bằng một cây Đa La, bảo một lần rằng : “Ta sắp nhập Niết Bàn, đại chúng nhìn xem sắc thân huỳnhkim của ta !”
Lầnlượt đức Phật bay trên cao bằng bảy cây Đa La, bảy lầnbảo rằng : Ta sắp nhập Niết Bàn, đại chúng nên chí tâmnhìn xem sắc thân huỳnh kim của ta !
Từhư không xuống ngồi trên giường sư tử Đức Phật lạibảo : Ta sắp nhập Niết Bàn, đại chúng nên chí tâm nhìnxem sắc thân huỳnh kim của ta !
ĐứcThế Tôn từ trên giường sư tử lại bay lên hư không caobằng một cây Đa La, thời một lần bảo đại chúng, lầnlượt bay cao bằng bảy cây Đa La, bảy lần bảo rằng : Tasắp nhập Niết Bàn, đại chúng nên chí tâm nhìn xem sắcthân huỳnh kim của ta !
Từhư không xuống ngồi trên giường sư tử Đức Phật lạikêu đại chúng mà bảo rằng: Ta sắp nhập Niết Bàn, đạichúng nên chí tâm nhìn xem sắc thân huỳnh kim của ta!
Lầnthứ ba, Đức Thế Tôn cũng từ trên giường sư tử bay lênhư không cao bằng bảy cây Đa La, đồng thời cũng bảy lầnbảo đại chúng như vậy. Từ hư không xuống ngồi trên giừơngthất bảo Đức Phật lại bảo : Ta sắp nhập Niết Bàn ,đại chúng nên chí tâm nhìn xem nơi sắc thân của ta !
ĐứcPhật hai mươi bốn lần ân cần bảo đại chúng như vậy,rồi lại bảo rằng : Ta sắp nhập Niết Bàn, đại chúng nênchí tâm nhìn xem sắc thân vô úy Kim Cang bất hoại của tarất khó gặp gỡ như hoa Ưu Đàm, như người quá khát gặpnước trong mát thời uống đến no không còn khao khát, đạichúng cũng phải như vậy, nên chí tâm chiêm ngưỡng sắc thâncủa Như Lai lần sau cùng, sau lần thấy nầy không còn thấylại nữa. Đại chúng nên chiêm ngưỡng cho thỏa mãn đểvề sau khỏi ăn năn.
Saukhi ta nhập Niết Bàn, đại chúng phải tinh tấn tu hành sớmra khỏi ba cõi, chớ có giãi đãi phóng dật tán tâm.
Lúcđó tất cả đại chúng Trời người trong tất cả thế giớimười phương được gặp ánh sáng Niết Bàn, được chiêmngưỡng đúc Phật đều được giải thoát. Những chúng sanhđược gặp được thấy đều được dứt hẳn tam đồ bátnạn, bốn tội trọng, năm tội nghịch, đến tất cả phiềnnão đều dứt hẳn không còn thừa.
Saukhi lộ bày sắc thân huỳnh kim cho tứ chúng chiêm ngưỡngvà ân cần khuyến cáo xong, Đức Thế Tôn kéo y tăng già đắplại như cũ.
NầyThiện-nam-tử ! Như nơi ngã tư đường có người đựng đầyđồ ăn thơm ngon trong chậu, trong bát, bày ra để bán. Cóngười khách từ xa đến quá đói, thấy đồ ăn ấy thơmngon, liền hỏi đây là vật gì ? Người bán nói : Đây làđồ ăn thơm ngon, nếu ai ăn thứ nầy, thời đặng sắc tốt,sức mạnh, có thể hết đói, hết khát và đặng thấy chưThiên. Nhưng chỉ có một tai hại là sẽ chết. Ngườikhách nghe xong nghĩ rằng : Nay tôi chẳng dùng sắc đẹp, sứcmạnh, thấy chư Thiên, vì tôi chẳng muốn chết. Nghĩ xonghỏi rằng : Ăn vật thực nầy nếu phải chết sao ông lạiđem bán.
Ngườibán đáp : Những người có trí không ai bằng lòng mua. Chỉcó kẻ ngu, chẳng biết việc nầy, họ tham ăn nên họ trảgiá đắt cho tôi.
NầyThiện-nam-tử ! Đại-Bồ-Tát cũng như vậy, chẳng nguyệnsanh cõi trời, đặng sắc đẹp, đặng sức mạnh, thấy chưThiên, vì sanh cõi trời chẳng khỏi những khổ não. Kẻ phàmphu ngu si sanh chỗ nào cũng đều tham luyến vì họ chẳng thấygìa, bệnh, chết.
NầyThiện-nam-tử ! Ví như cây độc, gốc rễ cũng có thể giếtngười, thân cây, vỏ, bông, trái, hột đều cũng có thểgiết người. Tất cả thân ngũ ấmtrong hai mươi lăm cõi đềucó thể hại chúng sanh cũng như vậy.
NầyThiện-nam-tử ! Ví như phân nhơ, nhiều hay ít đều hôi cả.Cũng vậy, thọ sanh dầu sống lâu tám muôn tuổi hay mườituổi cũng đều khổ não cả.
NầyThiện-nam-tử ! Ví như hầm sâu nguy hiểm, lấy cỏ che trênmiệng hầm, bờ bên kia của hầm có mạch cam-lồ, ngườinào được ăn chất cam lồ, sẽ sống lâu ngàn năm không bệnhtật, an ổn , khoan khoái. Kẻ ngu si tham chất cam lồ, chẳngbiết dưới đó có hầm sâu, bèn chạy đến lấy, chẳng ngờtrật chơn té xuống hầm mà chết. Người trí biết sự nguyhiểm, nên không đến lấy chất cam-lồ.
Đại-Bồ-Tátcũng như vậy còn chẳng muốn nhận lấy vật thực thượngdiệu cõi trời huống là tong loài người. Kẻ phàm phu bènở nơi địa ngục nuốt hoàn sắt, huống là thức ăn thượngdiệu cõi trời cõi người mà có thể chẳng ăn.
NầyThiện-nam-tử ! Do những điều thí dụ như vậy, ngoài ra cònvô lượng thí dụ khác, nên biết thọ sanh thiệt là rấtkhổ.
Đâygọi là Đại-Bồ-Tát trụ nơi kinh Đại-thừa Đại-Niết-Bànquán sát sanh là khổ.
NầyThiện-nam-tử ! Đại-Bồ-tát trụ nơi kinh Đại-thừa Đại-Niết-Bànquán sát lão là khổ như thế nào ?
Sựgià yếu hay làm ho hen, ngăn nghẹn hơi, đưa lên, có thể làmmất sức mạnh, trí nhớ kém, sự tráng kiện không còn, mấtsự an vui thơ thới, khoan khoái. Tuổi già hay làm lưng còm,mỏi nhọc, lười biếng, bị người khi dể.
NầyThiện-nam-tử ! Ví như hoa sen nở tốt đầy trong ao nướcrất đáng ưa thích, gặp trận mưa đá, tất cả đều hưnát. Cũng vậy, tuổi già có thể phá hoại tráng kiện, sắcđẹp.
NầyThiện-nam-tử ! Ví như quốc vương có một trí thần dùngbinh giỏi. Có vua nước địch chống cự chẳng thuận hảo.Quốc vương sai trí thần đem binh qua đánh, bắt vua nướcnghịch mang về dưng cho quốc vương. Cũng vậy, tuổi già bắtđược tráng kiện, sắc đẹp đem giao cho tử vương.
NầyThiện-nam-tử ! Ví như trục xe đã gãy, xe đó không còn dùngđược. Cũng vậy, già suy thời không còn dùng được vàoviệc gì.
NầyThiện-nam-tử ! Như nhà giàu to có nhiều của báu : Vàng ,bạc, lưu ly, san hô, hổ phách, xa cừ, mã não. Có bọn cướpnếu vào đặng nhà đó thời có thể cướp giựt hết cả.Cũng vậy, tuổi tráng kiện và sắc đẹp thường bị giặcgià suy cướp giựt.
Nầythiện-nam-tử ! Ví như người nghèo tham thức ăn ngon, y phụcmịn màng, dầu có hy vọng nhưng không thể được. Cũng vậy,tuổi già suy dầu có tâm than, muốn hưởng thọ ngũ dụcsung sướng mà chẳng thể đặng.
NầyThiện-nam-tử ! Như con rùa ở trên đất cao lòng nó thườngnghĩ đến nước. Cũng vậy, người đời đã già suy khô héomà lòng họ thường nhớ tưởng những khoái lạc ngũ dụcthuở tráng kiện.
Nầythiện-nam-tử ! Như mùa thu ai cũng ưa ngắm hoa sen nở, đếnkhi hoa tàn héo, mọi người đều không thích. Cũng vậy, sựtráng kiện, sắc đẹp mọi người đều ưa thích, đến khigià suy ai cũng nhàm ghét.
Nầythiện-nam-tử ! Ví như cây mía, sau khi bị ép, bã xác khôngcòn vị ngọt. Cũng vậy, tráng kiện sắc đẹp đã bị giàép, thời không có ba thứ vị : Một là vị xuất gia, hai làvị đọc tụng, ba là vị tọa thiền.
NầyThiện-nam-tử ! Ví như mặt trăng tròn ban đêm thời tỏ sáng,ban ngày thời không như vậy. Cũng vậy, tráng kiện thời hìnhmạo nở nang xinh đẹp, già thời suy yếu, thân thể và tinhthần kém suy.
NầyThiện-nam-tử ! ví như có nhà vua thường dùng chánh pháp caitrị nhơn dân, chơn thật, không lừa dối, từ bi ưa bố thí.Thuở đó nhà vua bị nước địch xâm lăng đánh bại, bènlưu vong đến nước khác. Nhơn dân trong nước kia thấy nhàvua đều cảm thương nói rằng : Đại-vương ngày trước dùngchánh pháp trị nước chẳng uổng lạm bá tánh, thế sao naylại lưu vong đến đây. Cũng vậy, loài người đã bị giàsuy làm bại hoại, thời thường tán thán sự nghiệp đã làmthuở tráng kiện.
NầyThiện-nam-tử ! Ví như tim đèn dầu nhờ mỡ dầu nhưng mỡdầu sẽ hết, thế chẳng lâu dài. Cũng vậy, thân ngườidầu nhờ cậy sự tráng kiện, nhưng tráng kiện phải trảiqua già suy, đâu còn được dùng lâu.
NầyThiện-nam-tử ! Ví như con sông cạn khô không có thể lợiích cho ngưới, cho phi nhơn, chim thú. Cũng vậy, thân ngườibị già suy khô héo, không còn làm được việc gì, chẳngthể có lợi ích.
NầyThiện-nam-tử ! Ví như cây cheo leo bờ sông, nếu gặp gióto, ắt sẽ đổ ngã. Như vậy đến tuổi già ắt phải chết,thế chẳng thể còn được.
NầyThiện-nam-tử ! Như trục xe đã gãy, không thể chở chuyên.Cũng vậy, già suy không thể học hỏi tất cả pháp lành.
NầyThiện-nam-tử ! Như trẻ thơ bị người khinh khi. Cũng vậy,già suy thường bị người khinh hủy.
NầyThiện-nam-tử ! Do những điều dụ như vậy cùng vô lượngthí dụ khác nên biết sự già thiệt là rất khổ.
Đâygọi là Đại-Bồ-Tát tu hành kinh Đại-thừa Đại-Niết-Bànquán sát già là khổ.
NầyThiện-nam-tử ! Đại-Bồ-Tát trụ nơi kinh Đại-thừa Đại-Niết-Bànquán sát bịnh khổ như thế nào ?
Vínhư mưa đá làm hại mạ lúa. Cũng vậy, tật bệnh có thểphá hoại tất cả những sự an ổn vui vẻ.
Nhưngười có oán thù , tâm thường lo rầu sợ sệt. Cũng vậy,tất cả chúng sanh thường bị bịnh khổ, lo rầu không yên.
Vínhư có người hình dung xinh đẹp, Vương-phi tâm dục yêu thương,sai sứ đòi đến để cùng giao thông. Vua bắt đặng, liềntruyền lịnh khoét một mắt,cắt một vành tai, chặt mộttay, một chân, bấy giờ người đó hình dung đổi khác bịngười nhờm gớm khinh rẻ. Cũng vậy, thân người trướcthời dung mạo tươi tốt, tai mắt đầy đủ, đã bị bịnhkhổ hành hạ, thời xấu xa bị người nhờm gớm.
Nhưcây chuối, cây tre, cây lau, cây la, hễ có con, có trái thìchết. Cũng vậy, người có bịnh thời chết.
Nhưvua Chuyển-Luân, đại thần, chủ binh thường làm tiền đạođi trước, nhà vua theo sau cũng như chúa cá, chúa kiến, chúaốc, chúa trâu, thương chủ, lúc ở trước chúng mà đi, thờitoàn chúng thảy đều đi theo không rời. Cũng vậy, sựchết thường theo sát bịnh khổ không rời.
NầyThiện-nam-tử ! Nhơn duyên của bịnh làm cho khổ não, rầulo, buồn than, thân tâm không an ổn. Hoặc bị kẻ giặc cướpbức hại, trái nổi bể hư, phá hoại cầu cống, đều cũngcó thể cướp giựt mạng sống. Bịnh lại có thể phá hoạisự tráng kiện, sắc đẹp, thế lực, an vui, mất lòng tàmquý, có thể làm cho thân tâm xót xa bức rức.
Donhững điều dụ đó và vô lượng thí dụ khác, nên biếtbịnh rất là khổ não.
Đâygọi là Đại-Bồ-Tát tu hành kinh Đại-thừa Đại-Niết-Bànquán sát bịnh khổ.
Nầythiện-nam-tử ! Thế nào là Đại-Bồ-Tát tu hành kinh Đại-thừaĐại- Niết-Bàn quán sát tử khổ ? Sự chết có thể đốtcháy tiêu diệt. Như hỏa tai khởi lên có thể đốt cháy tấtcả, chỉ trừ cõi trời nhị thiền trở lên, vì thế lựccủa hỏa tai chẳng đến được. Cũng vậy, sự chết có thểtiêu diệt tất cả, chỉ trừ Bồ-Tát trụ nơi Đại-thừaĐại-Niết-bàn vì thế lực của sự chết không đến được.
Nhưlúc thủy tai khởi lên, tất cả đều trôi, đều ngập,chỉ trừ cõi tam-thiền trở lên, vì thế lực của thủy taichẳng đến được. Cũng vậy, sự chết làm chìm mất tấtcả, chỉ trừ Bồ-Tát trụ nơi Đại-thừa Đại-Niết-Bàn.
Nhưlúc phong tai khởi lên, có thể thổi tan tất cả, chỉ trừcõi tứ thiền, vì thế lực của phong tai chẳng đến được.Cũng vậy, sự chết có thể tiêu diệt tất cả, chỉ trừBồ-Tát trụ nơi Đại-thừa Đại-Niết-Bàn.
Ca-Diếp-Bồ-Tátbạch Phật : “ Thế-Tôn ! Cõi Tứ-thiền kia do cớ gì màgió không thổi đến, nước chẳng ngập đến, lửa chẳngcháy đến ?”
_ NầyThiện-nam-tử ! Cõi Tứ-Thiền kia không có tất cả quá hoạntrong thân và ngoại cảnh.
CõiSơ- Thiền có quá hoạn : Trong có giác quán, ngoài có hỏatai.
CõiNhị-Thiền có quá hoạn : Trong có vui mừng, ngoài có thủytai.
CõiTam-Thiên có quá hoạn : Trong có hơi thở, ngoài có phong tai.
CõiTứ-Thiền trong ngoài đều không quá hoạn, nên ba thứ taihọa lớn chẳng thể đến được.
Đại-Bồ-Tátcũng như vậy, an trụ nơi Đại-thừa Đại-Niết-Bàn, trongngoài đều không tất cả quá hoạn, nên sự chết chẳng đếnđược.
Lạinầy Thiện-nam-tử : Như Kim-Súy-Điểu có thể nuốt, có thểtiêu tất cả loài rồng, cá và châu báu, vàng, bạc vân vân,chỉ trừ chất kim cương không tiêu được. Cũng vậy, sựchết có thể nuốt, có thể tiêu tất cả chúng sanh, chỉkhông tiêu được Đại-Bồ-tát trụ nơi Đại-Thừa Đại-Niết-Bàn.
Lạinầy Thiện-nam-tử ! Ví như những cỏ cây ở bờ sông, nướclụt dưng lên đều trôi theo dòng vào biển lớn, chỉ trừcây dương liễu, vì thứ cây nầy mềm dẽo. Cũng vậy, tấtcả chúng sanh đều trôi lăn vào biển chết, chỉ trừ Bồ-Táttrụ nơi Đại-thừa Đại-Niết-Bàn.
Lạinầy Thiện-nam-tử ! Như thần Na-La-Diên có thể hàng phụctất cả lực sĩ, chỉ trừ gió to, vì gió to vô ngại. Cũngvậy, sự chết có thể hàng phục tất cả chúng sanh, chỉtrừ Bồ-Tát trụ nơi Đại-thừa Đại-Niết-Bàn, vì bậcnầy vô ngại.
Lạinầy Thiện-nam-tử ! Ví như có người đối với kẻ thù giảlàm thân thiện, theo sát bên như bóng theo hình, chờ khi thuậntiện mà giết đó, nếu phòng bị chặt chẽ, thời ngườikia không hại được. Cũng vậy, sự chết luôn theo rình chúngsanh chờ dịp làm hại, chỉ không thể hại được bậc Đại-Bồ-Táttrụ nơi Đại-thừa Đại- niết-bàn, vì bậc Bồ-Tát nầychẳng phóng dật.
Lạinầy Thiện-nam-tử ! Ví như trời bỗng mưa kim cương xốixuống tất cả cỏ cây, núi rừng, đất cát, ngói, đá, vàng,bạc, lưu ly, cùng tất cả vật đều bị hư nát, chỉ kimcương chơn bảo không bị hư. Cũng vậy, sự chết đều cóthể phá hoại tất cả chúng sanh, chỉ trừ kim cương Bồ-Táttrụ nơi Đại-thừa Đại-Niết-Bàn.
Lạinầy Thiện-nam-tử ! Như Kim-súy-điểu có thể nuốt các loàirồng, chỉ không nuốt được rồng thọ Tam-quy-y. Cũng vậy,sự chết có thể nuốt tất cả chúng sanh, chỉ trừ Bồ-Táttrụ ba môn chánh định : Không, vô tướng vô nguyện.
Lạinầy Thiện-nam-tử ! Như độc rắn ma-la, khi rắn nầy cắnnhằm người, những chú hay, thuốc tốt đều không cứu được,chỉ có chú A-Kiệt Đa-Tinh là có thể chữa lành. Cũng vậy,sự chết tất cả phương thuốc đều không cứu được, chỉtrừ Bồ- Tát trụ nơi Đại-thừa Đại-Niết-Bàn.
Lạinầy Thiện-nam-tử ! Như có người bị nhà vua giận, có thểdùng lời dịu dàng khéo léo, dâng của cải châu báu mà đặngkhỏi tội. Sự chết không như vậy, dầu dùng lời nói dịudàng, tiền của châu báu để cống dưng cũng chẳng thoátkhỏi.
NầyThiện-nam-tử ! Luận về sự chết là chỗ hiểm nạn, khônggì giúp đỡ, đi đường xa xôi mà không bạn bè, ngày đêmđi luôn chẳng biết bờ mé, sâu thẳm tối tăm, không có đènđuốc, nó vào không có cửa nẻo mà có chỗ nơi, dầu khôngchỗ đau đớn nhưng chẳng thể chữa lành, nó qua không aingăn được, nó đến không thể thoát được, không phá pháchgì mà người thấy sầu khổ, nó không phải màu sắc xấuxa mà làm cho người kinh sợ. Nó ở bên thân người mà chẳnghay biết được.
NầyCa-Diếp Bồ-Tát, do những điều dụ đó cùng vô lượng thídụ khác, nên biết sự chết thật là rất khổ.
Đâygọi là Đại-Bồ-Tát tu hành kinh Đại-thừa Đại-Niết-Bànquán sát tử khổ.
NầyThiện-nam-tử! Thế nào là Đại-Bồ-Tát trụ nơi kinh Đại-thừa Đại-Niết-Bàn quán sát ái-biệt-ly khổ ? Ái biệt-ly nầy có thể làmcội gốc cho tất cả sự khổ. Như nói bài kệ rằng :
Nhơnái sanh lo, Nhơn ái sanh sợ, Nếu lìa sự ái, Nào lo nào sợ.
Vìái nên sanh sự lo khổ, vì lo khổ nên làm cho chúng sanh cógià suy. Ái- biệt-ly khổ là nói sự chết. Vì biệt-ly haysanh những sự khổ vi-tế, nay sẽ vì ông mà phân biệt rõràng.
NầyThiện-nam-tử ! Thuở quá khứ người sống vô lượng tuổi,có quốc vương tên là Thiện-Trụ nhà vua trị nước tám muônbốn ngàn năm. Trên đỉnh đầu của vua mọc lên một bứuthịt mềm nhuyễn như bông. Bứu ấy lần lần to lớn, khônglàm đau nhức. Mãn mười tháng, bứu ấy nứt ra, sanh mộtđồng tử hình dung đẹp lạ. Nhà vua vui mừng đặt tên làĐãnh-Sanh.
Thờigian sau vua Thiện-Trụ đem việc nước giao cho Thái-tử Đảnh-Sanh,tồi rời bỏ cung điện quyến thuộc vào núi tu hành. Ngàyrằm Thái-Tử Đảnh-Sanh lên ngôi, đương ở trên lầu caotắm gội trai giới, phương Đông liền có báu kim- luân, bánhxe vàng đủ một ngàn cây căm tự nhiên bay đến. Vua Đảnh-Sanhnghĩ rằng : Từng nghe Ngũ-Thông tiên nhơn nói : Nếu dòng vuaSát-Đế-Lợi ngày rằm ở trên lầu cao tắm gội trai giới,có báu kim luân đủ ngàn cây căm tự nhiên bay đến, thời nhà vua đó sẽ đặng làm Chuyển-Luân Thánh-Vương. Nay ta nênthí nghiệm. Nghĩ xong, vua Đảnh-Sanh tay tả bưng báu kim-luân,tay hửu cầm lư hương, qùy gối bên mặt mà phát thệ rằng: Nếu đây thiệt là báu kim-luân, thời nên bay đi như vuaChuyển-Luân Thánh-Vương thuở quá khứ. Nhà vua phát thệ vừaxong, thời báu kim-luân bay lên hư không, bay khắp mười phương,rồi trở về dừng lại trên tay tả vua Đảnh-Sanh. Nhàvua vui mừng biết chắc mình sẽ là Chuyển-Luân Thánh-Vương.
Sauđó không bao lâu, có tượng bảo xuất hiện, mình trắng nhưbạch liên-hoa, xinh đẹp, mạnh mẽ đôi ngà chấm đất. Vìmuốn thí nghiệm vua Đảnh-Sanh liền bưng lư hương quì gốibên hữu mà phát thệ rằng : Nếu thật là báu bạch tượngnên bay đi như thuở vua Chuyển-Luân Thánh-Vương quá khứ.Phát thệ xong, bạch tượng liền từ sáng đến chiều bayđi khắp tám phương, tột đến mé biển, rồi trở về cungvua. Kế đó lại có Mã-bửu xuất hiện, lông màu xanh biếcmướt đẹp, lông đuôi cùng gáy màu vàng ròng. Vì muốn thínghiệm vua Đảnh-Sanh tay bưng lư hương quì gối bên hữu phátthệ rằng : Nếu thiệt là Mã-bảo thời phải như củavua Chuyển-Luân Tánh-Vương thuở quá khứ. Phát thệ xong, từsáng đến chiều, Mã-bảo ấy đi khắp tám phương, đến mébiển rồi trở về cung vua.
Kếđó lại có Nữ-bảo xuất hiện xinh đẹp đệ nhứt, chơnlông thoảng mùi chiên đàn, hơi miệng thơm sạch như hoa senxanh, mắt sáng nhìn xa một do tuần, tai nghe, mũi ngữicũng xa như mắt, lưỡi rộng lớn le ra có thể trùm cả mặt,da mịn láng như lá đồng đỏ, rất thông minh có trí huệ,lời nói dịu dàng đối với tất cả mọi người. Tay ngườiấy lúc chạm đến áo của vua, liền biết thân vua khỏe mạnhhay bịnh hoạn, cũng biết những ý nghĩ của vua.
Kếđó trong cung vua tự nhiên có Ma-ni bảo châu lớn bằng bắpvế của người, màu thuần xanh, trong suốt, trong chỗ tốicó thể chiếu sáng một do tuần. Nếu trời mưa giọt lớnnhư trục xe, thế lực của bảo châu nầy có thể che mộtdo tuần, giọt mưa không rơi xuống được.
Sauđó, lại có Chủ- tạng thần hiện ra, cặp mắt có thể thấythấu những kho châu báu ở trong lòng đất, tùy ý vua muốnđều có thể dưng đủ. Vua Đảnh-Sanh muốn thí nghiệm bèncùng Chủ-tạng thần ngồi thuyền ra biển, vua bảo chủ-tạngthần : Nay ta muốn đặng châu báu. Chủ-tạng thần liền lấyhai tay quậy nước biển, đầu mười ngón tay liền hiện ramười kho châu báu lấy dưng cho vua tâu rằng : “Tùy ý nhàvua chọn dùng, còn thừa lại nên ném trả xuống biển.”
Kếđó lại có chủ-binh thần xuất hiện, thao lược đệ nhứt,điều khiển bốn binh chủng rất giỏi. Lúc vua cần binh thờihiện quân lính ra để dùng. Lúc chẳng dùng binh, thời quânlính ẩn mất. Xứ nào chưa hàng phục chủ binh thần nầycó thể làm cho hàng phục. Xứ nào đã hàng phục, thời đủsức giữ gìn.
Lúcđó vua Đảnh-Sanh tự biết là Chuyển-Luân -Vương, bèn bảocác quan :
“Cõi Diêm-Phù-Đề nầy an ổn giàu vui, nay bảy báu đã đủ,cả ngàn vương tử cũng đủ, giờ đây nên làm việc gì ?”
Cácquan tâu : “ Châu Phất-Bà-Đề phương Dông còn chưa qui thuận,đại vương nên đem binh qua chinh phục.”
VuaĐảnh-Sanh bèn cùng thất-bảo bay qua châu Phất-Bà-Đề, nhơndân trong châu đó đều vui mừng qui thuận.
Cácquan lại tâu nên chinh phục châu Cù-Đà-Ni ở phương Tây. Kế đó lại đến chinh phục châu Uất-Đơn-Việt. Sau khi chinhphục ba châu xong. Vua Đảnh-Sanh bảo các quan : “ Châu Nam-Diêm-Phù-Đềnày cùng ba châu đều an onå giàu vui, tất cả đều qui thuậnta, nay đây lại nên làm việc gì ?”
Cácquan tâu : “ Cõi trời Đao-Lợi tuổi thọ dài lâu , an ổn,khoái lạc, thân chư Thiên xinh đẹp hơn nhơn gian, cung điệnnhẫn đến giường ghế toàn bằng bảy báu, cậy phước trờichưa chịu đến qui phục, nay nên đem binh đánh dẹp.”
VuaĐảnh-Sanh lại cùng thất bảo bay lên cõi trời Đao-Lợi,trông thấy một cây màu xanh đậm bèn hỏi đại thần : Đólà cây gì ?
Đại-thầntâu : Cây ấy tên là Ba-Lợi-Chất-Đa-La, chư Thiên cõi Đao-Lợinầy đến ngày mùa hạ thường tựu hợp vui chơi dưới câyđó.
Lạitrông thấy màu trắng như bạch vân, vua Đảnh-Sanh hỏiđại thần chỗ đó là gì ? Đại-thần tâu đó là thiện-pháp-đường,chư thiên cõi Đao-Lợi thường nhóm nơi đó để bàn luậnnhững việc cõi trời cõi người.
Thiên-ChúaThích-Đề-Hoàn-Nhơn biết vua Đảnh-Sanh đã đến, liền ratiếp rước, cầm tay vào thiện-pháp-đường lên tòa mà ngồi.Hai vua hình dung tướng mạo giống nhau, chỉ có đôi mắt nhìnnháy là khác nhau.
Lúcđó vua Đảnh-Sanh nghĩ rằng : nay ta có thể đuổi thiên-chúanầy để ta ở đây làm thiên-vương.
Thiên-Đế-Thíchvốn thọ trì đọc tụng kinh điển Đại-thừa, thường vìchư Thiên giảng thuyết, chỉ chưa thông đạt hết thâm nghĩacủa kinh. Do thọ trì giảng thuyết Đại-thừa nên Thiên-Đếcó oai đức hơn.
Khivua Đảnh-Sanh khởi ác tâm đối với Thiên-Đế, tổn phướcliền tự rớt xuống Diêm-Phù-Đề, nhớ tiếc cõi trời lòngrất khổ não. Không bao lâu vua Đảnh-Sanh phải bịnhchết.
NầyThiện-nam-tử ! Thiên-Đế thuở đó chính là Phật Ca-Diếp,vua Đảnh-Sanh thời là tiền thân của ta.
NầyThiện-nam-tử ! Phải biết ái-biệt-ly như vậy rất là khổnão.
NầyThiện-nam-tử ! Đại-Bồ-Tát còn nhớ những trường hợpái-biệt-ly khổ thuở quá khứ, huống là Bồ-Tát trụ nơikinh Đại-Thừa Đại-Niết-Bàn mà nên chẳng quán sát sựái-biệt-ly khổ trong đời hiện tại !
NầyThiện-nam-tử ! Thế nào là Đại Bồ-Tát tu hành kinhĐại-thừa Đại- Niết-Bàn quán sát oán-tằng-hội khổ ?
Đại-Bồ-Tátnầy quán sát địa ngục, súc sanh, ngạ quỉ, loài người,trên trời đều có sự oán-tằng-hội-khổ như vậy.
Vínhư có người quán sát lao ngục giam nhốt, gông xiềng làrất khổ. Cũng vậy, Đại-Bồ-Tát quán sát năm loài chúngsanh đều là oán-tằng-hội-hiệp rất khổ sở.
Vínhư có người thường sợ kẻ oán thù, gông cùm, xiềng xích,nên bỏ cha mẹ, vợ con, quyến thuộc, cùng của báu sản nghiệpmà trốn lánh đi xa. Cũng vậy, Đại-Bồ-Tát sợ sanh tử,nên tu hành sáu môn Ba-La-Mật, chứng nhập Niết- Bàn. Đâygọi là Bồ-Tát tu hành Đại-thừa Đại-Niết-Bàn quán sátoán-tằng-hội khổ.
NầyThiện-nam-tử ! Thế nào là Đại-Bồ-Tát tu hành Đại-thừaĐại-Niết- Bàn quán sát cầu-bất-đắc khổ ?
Cầulà mong cầu tất cả , có hai thứ : Một là cầu pháp lành,hai là cầu pháp chẳng lành. Cầu pháp lành mà chưa đặngthời khổ, pháp ác muốn rời mà chưa rời được thời khổ.
Đâylà lược nói ngũ- ấm-thạnh khổ. Đây gọi là khổ đế.
Ca-diếpBồ-Tát bạch Phật : “ Thế-Tôn ! Như lời Phật nói, ngũấm thạnh khổ nghĩa đó chẳng phải. Vì như ngày trướcPhật bảo Thích-Ma-Nam : Nếu sắc là khổ, tất cả chúng sanhlẻ ra chẳng nên cầu sắc, nếu có người cầu thời chẳnggọi là khổ. Lại như Phật bảo các Tỳ-kheo thọ có ba thứ: Khổ thọ, lạc thọ, bất khổ bất lạc thọ. Lại như lúctrước đức Phật nói với các Tỳ-kheo : Nếu người nàocó thể tu hành pháp lành thời đặng thọ lạc. Lại như đứcPhật nói : Ở trong đường lành sáu căn lãnh thọ sáu cảnhvui : Mắt thấy sắc đẹp là vui, tai, mũi, lưỡi, thân nhẫnđến ý suy nghĩ pháp lành cũng như vậy.
NhưPhật từng nói kệ :
Trìgiới thời là vui, Thân chẳng thọ sự khổ. Ngủnghỉ đặng an ổn, Thức dậy lòng vui vẻ. Lúc nhậnlấy y thực, Đọc tụng và kinh hành, Ở riêng nơinúi rừng, Như vậy là rất vui. Nếu đối với chúngsanh, Ngày đêm tu lòng từ, Nhơn đây được thườngvui, Vì chẳng hại người khác. Ít muốn biết đủ vui, Học rộng biết nhiều vui, A-La-Hán không chấp, Cũnggọi là thọ vui, Các vị Đại Bồ-Tát, rốt ráođến bờ kia. Những việc làm đã xong, Đây gọilà rất vui.
Thế-Tôn! Trong các bộ kinh nói về tướng vui ý nghĩa như vậy. Thếnào tương ứng với nghĩa của Phật nói hôm nay ?
Phậtbảo Ca-Diếp Bồ-Tát : “ Lành thay ! Lành thay ! Ông khéocó thề thưa hỏi đức Như-Lai những nghĩa như vậy.
NầyThiện-nam-tử ! Tất cả chúng sanh đối với sự khổ hạnghạ tưởng lầm là vui. Vì thế nên nay ta nói tướng khổkhông khác với ngày trước đã nói.
Ca-DiếpBồ-Tát bạch Phật : “ Như lời Phật hỏi : Đối vớisự khổ hạng hạ tưởng cho là vui, thời sanh, lão, bệnh,tử hạng hạ cùng ái-biệt-ly, cầu-bất-đắc, oán- tằng-hội,ngũ-ấm-thạnh hạng hạ, những sự khổ như vậy lẽ ra cũngnên có vui.
Thế-Tôn! Sanh hạng hạ là ba ác thú, sanh hạng trung là loài người,sanh hạng thượng là trên trời.
Nếulại có người hỏi rằng : Nếu ở nơi sự vui hạng hạ tưởngcho là khổ, trong sự vui hạng trung tưởng cho là không khổkhông vui. Trong sự vui hạng thượng tưởng cho là vui, thờiphải trả lời thế nào ?
Thế-Tôn! Nếu trong sự khổ hạng hạ tưởng cho là vui, chưa thấycó người nào sẽ bị phạt đánh ngàn trượng, lúc mới đánhmột trượng đầu mà đã tưởng là vui. Nếu lúc đánhtrượng đầu chẳng tưởng là vui, thế sao nói rằng : Nơitrong sự khổ hạng hạ mà tưởng cho là vui ?”
Phậtbảo Ca-Diếp Bồ-Tát : “ Phải lắm ! Phải lắm ! Đúng nhưlời ông nói. Do nghĩa nầy nên không có tưởng là vui, vìnhư người tội kia sẽ bị phạt đánh ngàn trượng, khi bịđánh một trượng rồi liền đặng tha. Người nầy bèn sanhlòng vui. Vì thế nên biết rằng trong sự không vui lầm tưởnglà vui.”
Ca-DiếpBồ-Tát bạch Phật : Thế-Tôn ! Người đó chẳng vì bị đánhmột trượng mà sanh vui. Chính vì đặng tha mà sanh lòngvui.
_ NầyThiện-nam-tử ! Vì thế nên ta ngày trước nói với Thích-Ma-Namtrong ngũ ấm có vui, lời đó là đúng, thiệt chẳng phảimâu thuẩn vậy.
NầyThiện-nam-tử ! Có ba thọ và ba khổ. Ba thọ là : Lạc thọ,khổ thọ và bất khổ bất lạc thọ. Ba khổ là : Khổ-khổ,hành khổ, hoại khổ.
NầyT.hiện-nam-tử ! Khổ thọ chính là cả ba món khổ : Khổ-khổ,hành khổ và hoại khổ. Hai món thọ kia chính là hành khổvà hoại khổ. Do đây nên trong sanh tử thiệt có lạc thọ.Đại-Bồ-Tát thấy tánh khổ cùng tánh lạc chẳng rời lìanhau nên nói rằng tất cả đều khổ.
NầyThiện-nam-tử ! Trong sanh tử thiệt không có vui, vì chư Phật Bồ-Tát tùy thuận thế gian nên nói là có vui.
Ca-DiếpBồ-Tát bạch Phật : “ Thế-Tôn ! Chư Phật và Bồ-Tát nếutùy theo thế tục mà nói, thời là có hư vọng chăng ? NhưPhật thường nói, người tu hành pháp lành thời thọ quảbáo vui. Trì giới an vui thân chẳng thọ khổ, nhẫn đến việclàm đã xong đây là rất vui. Lời nói thọ vui trong các kinhnhư vậy, chừng có hư vọng chăng . Nếu là hư vọng, thờichư Phật Thế-tôn trong vô lượng trăm ngàn muôn ức a-tăng-kỳ-kiếptu hành đạo bồ-đề đã lìa vọng ngữ. Nay Phật nói nhưvậy ý nghĩa thế nào ?
_ NầyThiện-nam-tử ! Như bài kệ nói về những sự thọ lạc trướckia chính là cội gốc của đạo Bồ-Đề, cũng có thể trưởng-dưỡngvô thượng bồ-đề. Do nghĩa đó nên trong những kinh trướcnói tướng vui như vậy.
Vínhư trong thế gian những đồ cần dùng cho đời sống, cóthể làm nhơn cho sự vui, nên gọi là vui. Như nữ sắc, rượuuống, đồ ăn ngon, lúc khát được nước, lúc lạnh đượclửa, y phục, chuỗi ngọc, voi ngựa, xe cộ, tôi tớ, vàng,bạc, lưu ly, san hô, chơn châu, kho đựng lúa gạo, những vậtnhư vậy người đời cần dùng có thể làm nhơn cho sự vuinên gọi là vui.
NầyThiện-nam-tử ! Những vật như vậy cũng có thể sanh sự khổ.Nhơn nơi nữ sắc sanh sự khổ, lo, rầu, buồn, khóc nhẫnđến phải chết cho người nam. Nhơn nơi rượu, đồ ăn ngon,nhẫn đến lúa gạo cũng có thể làm cho người phải lo khổnhiều. Do nghĩa đó nên tất cả đều khổ không có tướngrốt ráo vui.
NầyThiện-nam-tử ! Đại-Bồ-Tát nơi tám điều khổ nầy, hiểurỏ là khổ nên không bị khổ.
NầyThiện-nam-tử ! Tất cả hàng Thanh-Văn, Duyên-Giác chẳng biếtnhơn của sự vui, nên Phật vì họ ở trong sự khổ hạnghạ nói có tướng vui. Chỉ có Bồ- Tát trụ nơi Đại-ThừaĐại-Niết-Bàn bèn có thể biết nhơn của sự khổ sự vuinầy.
NầyThiện-nam-tử ! Thế nào là Đại-Bồ-Tát trụ nơi Đại-ThừaĐại-Niết- Bàn quán sát tập đế ? Đại-Bồ-Tát quán sáttập đế là nhơn duyên ngũ ấm. Tập nghĩa là trở lại ái-luyếnnơi hữu. Ái có hai thứ : Một là ái thân mình, hai là áiđồ cần dùng. Lại có hai thứ : Năm thứ dục lạc, lúc chưađặng tâm luôn tìm cầu, đã tìm cầu đặng rồi luôn đắmtrước. Lại có ba thứ : dục ái, sắc ái, vô sắc ái. Lạicó ba thứ : Nghiệp nhơn duyên ái, phiền não nhơn duyên ái,khổ nhơn duyên ái. Người xuất gia có bốn thứ ái : Y phục,đồ ăn uống, đồ nằm, thuốc thang. Lại có năm thứ : Thamlam nơi ngũ ấm, tùy chỗ cần dùng tất cả đều tham ái toantính phân biệt vô-lượng vô-biên.
NầyThiện-nam-tử ! Ái có hai thứ : Một là thiện ái, hai là bấtthiện ái. Chỉ người ngu tìm cầu bất thiện ái. Cácvị Bồ-Tát cầu nơi thiện-ái. Thiện ái lại có hai thứ: Bất thiện và thiện. Cầu pháp Nhị-thừa gọi là bất thiện.Cầu pháp Đại- thừa gọi là thiện.
NầyThiện-nam-tử ! Kẻ phàm phu tham ái gọi là “ tập” chẳnggọi là “đế”. Sự ái của Bồ-Tát thời gọi là thậtđế chẳng gọi là tập, vì Bồ-Tát muốn độ chúng sanh nênthị hiện thọ sanh, chẳng phải vì tham ái mà thọ sanh.
Ca-DiếpBồ-Tát bạch Phật : Thế-Tôn ! Như trong các kinh khác đứcPhật vì chúng sanh mà nói nghiệp làm nhơn duyên, hoặc nóikiêu mạn, hoặc nói lục xúc, hoặc nói vô minh làm nhơn duyênmà có ngũ ấm xí-thạnh. Hôm nay do nghĩa gì đức Phậtnói bốn Thánh-Đế riêng lấy ái làm nhơn cho ngũ ấm.
Phậtkhen Ca-Diếp Bồ-Tát : “ Lành thay ! Lành thay ! Đúng như lờiông vừa nói, các nhơn duyên chẳng phải làm cũng chẳng phảinhơn, chỉ vì năm ấm cần phải nhơn nơi ái.
Vínhư quốc vương lúc đi tuần du các quan quyến thuộc thảyđều theo hầu. Cũng vậy, ái đi đến chỗ nào thời các kiếtsử cũng đi theo.
Vínhư y phục thấm mồ hôi, bụi bay đến liền bám dính. Cũngvậy, chỗ nào có ái những nghiệp kiết cũng ở nơi đó.
Vínhư đất ướt thời có thể mọc mầm. Cũng vậy, ái có thểsanh tất cả mầm nghiệp phiền não.
NầyThiện-nam-tử ! Đại Bồ-Tát trụ nơi Đại-thừa Đại-Niết-Bànquán sát kỹ ái nầy có chín thứ : Một là như thiếu nợ,hai là như vợ La-Sát, ba là như trong cọng hoa đẹp có rắnđộc vấn , bốn là như vật thực độc mà cố ăn đó, nămlà như dâm nữ, sáu là như hột ma-lâu-ca, bảy là như thịtthúi trong mụn nhọt, tám là như gió bão, chín là như sao chổi.
Nhưthiếu nợ là thế nào ! Ví như người nghèo cùng thiếu tiềncủa người khác, dầu đã trả nợ mà vẫn còn thiếu, nênbị giam nhốt chưa ra khỏi ngục. Hàng Thanh-Văn Duyên-Giácvì còn tập khí thừa của ái nên chẳng chứng đặng vô thượngbồ-đề.
Nhưvợ La-Sát là thế nào ? Ví như có người lấy gái La-Sátlàm vợ, gái La- Sát nầy hễ sanh con liền ăn thịt, ăn thịtcon đẻ hết lại ăn luôn thịt chồng. Ái cũng vậy, tùy ngườisanh thiện căn nó liền ăn, ăn hết thiện căn nó lại ănluôn cả người làm cho phải đọa địa ngục, súc sanh ngãquỉ. Chỉ trừ các vị Bồ-Tát.
Nhưcọng hoa đẹp có rắn độc vấn là thế nào ? Như có ngườithích hoa đẹp mà chẳng thấy cọng hoa có rắn độc, liềnđến ngắt hoa bị rắn cắn chết. Tất cả phàm phu tham đắmngũ dục mà chẳng thấy độc hại của ái, nên bị ái làmhại, sau khi chết đọa trong ba đường ác. Chỉ trừ các vịBồ-Tát.
Vậtthực độc mà cố ăn là thế nào ? Như có người cố ănvật thực độc, ăn xong đau bụng thổ tả mà chết. Chúngsanh trong ngũ đạo vì tham ái mà phải bị đọa trong ba đườngác. Chỉ trừ các vị Bồ-Tát.
Nhưdâm nữ là thế nào ? Ngư người ngu tư thông với dâm nữ,dâm nữ nầy thường dối phĩnh gạt đoạt hết tiền củarồi xua đuổi người ấy. Người ngu không có trí tuệ bịtham ái đoạt tất cả pháp lành rồi xua đuổi vào trong bađường ác. Chỉ trừ các vị Bồ-Tát.
Nhưhột ma-lâu-ca là thế nào ? Nếu chim ăn hột ma-lâu-ca, phẩnchim do gió thổi rớt dưới cây liền mọc lên đeo vấn câyto làm cho khô chết, tham ái ràng buộc phàm phu làm cho pháplành không tăng trưởng nhẫn đến khô diệt, sau khi chếtđọa vào ba đường ác. Chỉ trừ các vị đại Bồ-Tát.
Thịtthúi trong mụn nhọt như thế nào ? Như người bị ung nhọt,trong nhọt sanh thịt thúi, người bịnh nầy phải chuyên tâmchạy chữa, nếu chểnh mãng thời thịt thúi sanh trùng cóthể phải chết, ngũ ấm của phàm phu cũng như vậy, ái sanhtrong đó, phải nên siêng năng điều trị tham ái, nếu khôngđiều trị sẽ phải đọa trong ba đường ác. Chỉ trừ cácvị Bồ-Tát.
Nhưgió bão là thế nào ? Gió bão có thể làm lở núi ngãcây. Cũng vậy, tham ái sanh tâm ác đối với cha mẹ,có thể làm ngã trốc cội cây vô thượng Bồ- Đề của cácông Đại-Trí Xa-Lợi-Phất vân vân. Chỉ trừ các vị Bồ-Tát.
Nhưsao chổi là thế nào ? Như sao chổi mọc thời trong thiênhạ phải bịnh tật, đói kém, họa tai khổ sở. Cũng vậy,ái có thể dứt tất cả căn lành làm cho phàm phu cơ cùngthiếu thốn sanh bịnh phiền não lưu chuyển trong sanh tử mangnhiều sự khổ. Chỉ trừ các vị Bồ-Tát.
NầyThiện-nam-tử ! Đại-Bồ-Tát Đại-Thừa trụ nơi Đại-Niết-Bànquán sát tham ái có chín thứ như vậy.
Donghĩa trên đây, hàng phàm phu có khổ, không đế. Hàng Thanh-VănDuyên- Giác có khổ đế mà không chơn thật. Các vị Bồ-Táthiểu khổ không có khổ mà có chơn đế. Hàng phàm phu cótập không có đế. Hàng Thanh-Văn Duyên- Giác có tập có tậpđế. Các vị Bồ-Tát hiểu tập không có tập mà có chơnđế. Hàng Thanh- Văn Duyên-Giác có diệt mà chẳng phải chơn.Đại-Bồ-Tát có diệt có chơn đế. Hàng Thanh-Văn Duyên-Giáccó đạo mà chẳng phải chơn. Đại Bồ-Tát có đạo có chơnđế.