Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tuyển tập 59

28/11/201113:14(Xem: 13140)
Tuyển tập 59

TUYỂN TẬP THƠ MẶC GIANG

Tuyển tập 10 bài - thơ MặcGiang - 59

(Từ bài số 581 đến số 600)

Xưng tán Bồ Tát Phổ Hiền 581

Noi gương Đức Mục Kiền Liên 582

Xưng tán Bồ Tát Địa Tạng 583

Xưng tán Bồ Tát Hộ Pháp 584

Xưng tán Bồ Tát Giám Trai 585

Phật Giáo Việt Nam Ca 1 586

Phật Giáo Việt Nam Sử Ca 1 587

Phật Giáo Việt Nam Ca 2 * 578

Phật Giáo Việt Nam Sử Ca 2 * 579

Biết sống bình an 598

Đóa hồng mỉm nụ trầm kha 599

Đâu phải là gỗ đá 600

(Số thứ tự ở đây cóthay đổi, vì để

10 bài Thập đại Đệ Tửchung với nhau

tuyển tập 60 - từ bàisố 588 đến bài số 597)

Xưng Tán Bồ Tát Phổ Hiền

Tháng8-2006

Nam Mô Bồ Tát Phổ Hiền Vương

Một, nguyền đảnh lễ Chư Phật

Hai, nguyền xưng tán Như Lai

Ba, nguyền rộng khắp cúng dường

Bốn, nguyền sám hối nghiệp chướng

Nam Mô Bồ Tát Phổ Hiền Vương

Năm, nguyền tùy hỷ công đức

Sáu, nguyền thỉnh chuyển phápluân

Bảy, nguyền thỉnh Phật trụthế

Tám, nguyền thường tùy Phậthọc

Nam Mô Bồ Tát Phổ Hiền Vương

Chín, nguyền hằng thuận chúngsanh

Mười, nguyền khắp đều hồi hướng

Mười phương thế giới vô lượng

Chúng sanh Tứ Thánh đồng về

Không còn bờ Giác bến mê

Tất cả, đồng chơn, nhất thể

Không còn lậu, thô, vi, tế

Như như, hằng viễn, như như

Nam Mô Bồ Tát Phổ Hiền Vương

Nam Mô Bồ Tát Phổ Hiền Vương

. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .. . .

(Bài 581)

Noi gương Đức Mục Kiền Liên

Tháng 8-2006

Nam Mô Bồ Tát Mục Kiền Liên

Sáng soi con đường hiếu hạnh

Đáp đền công đức Mẹ Cha

Cũng vì con cháu oan gia

Đọa đày, lầm than, thống khổ

Kính lạy Bồ Tát Mục Kiền Liên

Thập đại, thần thông đệ nhứt

Sau khi tu hành chứng đắc

Dõi soi, tìm kiếm Mẹ già

Không ngờ A Tỳ địa ngục

Thanh Đề đền tội can qua

Mẹ ơi Mẹ ơi ! Mẹ ơi Mẹ ơi !

Cơm đà đã biến thành than

Lòng con đau xót vô vàn

Hầm chông, còn thêm chảo lửa

Ruột cào, tim thắt, nát tan

Vội về bạch Phật Như Lai

Mẹ con thống khổ tuyền đài

Xin Ngài tầm phương giải cứu

Phật rằng, Pháp Hội Vu Lan

Kính lạy Bồ Tát Mục Kiền Liên

Chúng con, nhất nhất noi gương

Đền ơn dưỡng dục song đường

Núi cao, sông sâu, biển cả

Công Cha nghĩa Mẹ, tình thương

Kính lạy Bồ Tát Mục Kiền Liên

Chúng con, lớp lớp hàng hàng

Thành tâm thiết lễ đàn tràng

Nguyện Phật mười phương minh chứng

Cúng dường Pháp Hội Vu Lan

Cúng dường Pháp Hội Vu Lan

. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

(Bài 582)

Xứng tán Bồ Tát ĐịaTạng

Tháng 8-2006

Nam Mô Bồ Tát Địa Tạng Vương

“U Minh Giáo chủ Bổn tôn

Địa ngục vị không, thệ bất thành Phật

Chúng sanh độ tận, phương chứng Bồ Đề”

Tu Di vời vợi, còn nhỏ sơn khê

Nam Mô Bồ Tát Địa Tạng Vương

Vì thương chúng sanh, phát đại bi tâm

Vì cứu chúng sanh, phát đại bi nguyện

Màn đêm chợt tắt, sáng hơn trăng rằm

Ngọn lửa đại hùng, tuyết lở, băng tan

Kính lạy Bồ Tát Địa Tạng Vương

Chúng con phủ phục kính ơn Ngài

Địa ngục chín tầng, xin tiếp tay

Trần lao nghiệp cảnh, xin lìa dứt

Nào dám dễ duôi, phụ ơn Ngài

Kính lạy Bồ Tát Địa Tạng Vương

Biển khổ luân hồi sóng đại dương

Bến mê, bờ giác, đã tỏ tường

Tam đồ, bát nạn, câu ly khổ

Thế thế hoằng truyền Địa Tạng Vương

Nam Mô Bồ Tát Địa Tạng Vương

Nam Mô Bồ Tát Địa Tạng Vương

Nam Mô Bồ Tát Địa Tạng Vương

. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

(Bài 583)

Xưng tán Bồ Tát HộPháp

Tháng 8-2006

Nam Mô Bồ Tát Hộ Pháp

Chúng con phước mỏng tội dày

Không sanh vào thời Đức Phật

Khổ đau, nghiệp chướng, đọa đày

Chất chồng bi lụy đắng cay

Kính lạy Bồ Tát Hộ Pháp

Trong thời mạt pháp nhiểu nhương

Trong thời pháp nhược ma cường

Đạo đức suy vi ma chướng

Chánh tà hỗn tạp mà thương

Kính lạy Bồ Tát Hộ Pháp

Thùy từ bảo vệ thiền môn

Thế đạo nhân tâm điên đảo

Quỷ ma bức bách kinh hồn

Chúng sanh sơ cơ ngơ ngác

Cao tăng thạc đức hao mòn

Kính lạy Bồ Tát Hộ Pháp

Thùy từ chấn tích trùng quang

Phá tà hiển chánh đường đường

Thiện ác một lòng qui nhiếp

Trước tòa Điều Ngự Pháp Vương

Cho ánh đạo huy hoàng

Cho nhân thế hòa vang

Cho ánh đạo huy hoàng

Cho phạm vũ trang nghiêm.

(Bài 584)

Xưng tán Bồ TátGiám Trai

Tháng 8-2006

Nam Mô Bồ Tát Giám Trai

Gia trì đại chúng không ainão phiền

Đẹp thay chiếc áo phước điền

Một trăm mảnh vá nối liền đẹpthay

Nam Mô Bồ Tát Giám Trai

Đại chúng hòa hợp lòng Ngàithảnh thơi

Đạo mầu là đạo cứu đời

Cứu cho tứ chúng thời thời hỷhoan

Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn

Trăng tròn mười sáu trăngtròn đẹp không

Nam Mô Bồ Tát Giám Trai

Nhìn trông nước chảy về sông

Sông đi ra biển, biển trôngvề nguồn

Trầm hùng tiếng mõ lời chuông

Chan hòa đại chúng tròn vuôngvuông tròn

Đá vàng đem thử sắt son

Trang nghiêm thanh tịnh đẹp hơnđá vàng

Cũng nhờ Bồ Tát Giám Trai

Thiền gia sứ giả xin Ngàichứng tri

Nam Mô Bồ Tát Giám Trai

Nam Mô Bồ Tát Giám Trai.

(bài 585)

Phật Giáo Việt Nam Ca (1)

Tháng 9-2006

Phật Giáo Việt Nam, hai ngàn năm trên nước non này

Hòa cùng dân tộc, qua bao thời kỳ vinh nhục thịnh suy

Hòa cùng quê hương, qua bao thời gian thăng trầm nguy biến

Chuyển hóa đời đời, trí tuệ, từ bi.

Phật Giáo Việt Nam, hai ngàn năm trên nước non này

Từ Bắc Nam Trung, cho đến mọi miền

Xây dựng tin yêu, chan hòa sức sống

Lịch sử theo dòng, nhuận thắm hồn thiêng

Việt Nam-Phật Giáo. Phật Giáo-Việt Nam

Bắc Nam Trung cùng. Ca hát vang vang

Quê hương-Phật Giáo. Phật Giáo-quê hương

Trên khắp nẻo đường. Xây dựng tình thương

Phật Giáo Việt Nam, hai ngàn năm trên nước non này

Tùy duyên bất biến, không một đổi thay

Như gió ngàn bay, như sữa với nước

Như tiếng chuông ngân, vang vọng tháng ngày

Phật Giáo Việt Nam, hai ngàn năm trên nước non này

Từ thuở du truyền, cho đến hôm nay

Kế thế truyền lưu đến tận ngàn sau

Gieo rắt muôn phương nhuận thắm đạo vàng.

(Bài 586)

Phật Giáo Việt Nam Sử Ca (1)

Tháng 9-2006

Phật Giáo Việt Nam, hai ngàn năm lịch sử

Từ thuở sơ thời, thế kỷ thứ hai thứ ba

Khương Tăng Hội, Chi Cương Lương, Mâu Bác cao tăng

Thứ sáu kỷ nguyên, Tỳ Ni Đa Lưu Chi sơ tổ

Kế thế hoằng dương, Vô Ngôn Thông, Thảo Đường

Bước vào đời Trần, Tuệ Trung Thượng Sĩ

Thuần túy Việt Nam, Yên Tử Trúc Lâm

Thời đại vàng son, Đinh Lê Lý Trần

Thừa tiếp Trong-Ngoài, đến tận hôm nay

Lâm Tế, Minh Hải, Nguyên Thiều, Liễu Quán

Khắp Bắc Trung Nam, đều Tôn-Tử từ đây

Dù Nam-Bắc truyền, Đại thừa-Nguyên thủy

Dù hệ Khất Sĩ, Thiền-Tịnh tương dung

Chung cùng mẫu số, Phật Giáo Việt Nam

Phật Giáo Việt Nam, muôn năm

Phật Giáo Việt Nam, huy hoàng

Phật Giáo Việt Nam, đời đời

Phật Giáo Việt Nam, thiêng liêng.

Phật Giáo Việt Nam, Phật Giáo Việt Nam, muôn năm

Phật Giáo Việt Nam, Phật Giáo Việt Nam, huy hoàng

Phật Giáo Việt Nam, Phật Giáo Việt Nam, đời đời

Phật Giáo Việt Nam, Phật Giáo Việt Nam, thiêngliêng.

***Bài 587***

Phật Giáo Việt Nam Ca (2)

Tháng9-2006

Phật Giáo Việt Nam, hai ngàn năm trên nước non này

Hòa cùng dân tộc, qua bao thời kỳ vinh nhục thịnh suy

Hòa cùng quê hương, qua bao thời gian thăng trầm nguy biến

Chuyển hóa đời đời, trí tuệ, từ bi.

Phật Giáo Việt Nam, hai ngàn năm trên nước non này

Từ Bắc Nam Trung, cho đến mọi miền

Xây dựng tin yêu, chan hòa sức sống

Lịch sử theo dòng, nhuận thắm hồn thiêng

Dù Nam-Bắc truyền, Đại thừa-Nguyên thủy

Dù hệ Khất Sĩ, Thiền-Tịnh tương dung

Chuyển xe Tam Thừa, hoằng dương chánh pháp

Quy nhất Phật thừa, một mẫu số chung

Việt Nam-Phật Giáo. Phật Giáo-Việt Nam

Bắc Nam Trung cùng. Ca hát vang vang

Quê hương-Phật Giáo. Phật Giáo-quê hương

Trên khắp nẻo đường. Xây dựng tình thương

Phật Giáo Việt Nam, Phật Giáo Việt Nam, muôn năm

Phật Giáo Việt Nam, Phật Giáo Việt Nam, huy hoàng

Phật Giáo Việt Nam, Phật Giáo Việt Nam, đời đời

Phật Giáo Việt Nam, Phật Giáo Việt Nam, thiêngliêng.

***Bài 588***

Phật Giáo Việt Nam Sử Ca (2)

Tháng 9-2006

Phật Giáo Việt Nam, hai ngàn năm lịch sử

Từ thuở sơ thời thế kỷ thứ hai thứ ba

Khương Tăng Hội, Chi Cương Lương, cùng Mâu Bác Cao Tăng

Thứ sáu kỷ nguyên, Tỳ Ni Đa Lưu Chi sơ tổ

Thừa tiếp hoằng dương, Vô Ngôn Thông, Thảo Đường.

Phật Giáo Việt Nam, thời đại vàng son, Đinh Lê LýTrần

Khuông Việt, Vạn Hạnh, Tuệ Trung, Giác Hoàng Yên Tử

Một thuở Trong-Ngoài, cho đến hôm nay

Lâm Tế, Minh Hải, Nguyên Thiều, Liễu Quán

Khắp Bắc Trung Nam, đều Tôn-Tử từ đây

Phật Giáo Việt Nam, hai ngàn năm kế thế

Tùy duyên bất biến, không một đổi thay

Như gió ngàn bay, như sữa với nước

Như tiếng chuông ngân, vang vọng tháng ngày

Phật Giáo Việt Nam, hai ngàn năm rạng rỡ

Từ thuở du truyền, cho đến hôm nay

Kế thế truyền lưu đến tận ngàn sau

Gieo rắc muôn phương nhuận thắm đạo vàng

Phật Giáo Việt Nam, thiêng liêng

Phật Giáo Việt Nam, huy hoàng

Phật Giáo Việt Nam, đời đời

Phật Giáo Việt Nam, muôn năm.

****Bài 589*****

Biết sống bình an

Tháng 9-2006

Bồng bềnh muôn hướng mây bay

Phất phơ muôn hướng gió xoay đủchiều

Hết sáng thì lại đến chiều

Hết ngày thì lại xìu xìu về đêm

Nhật lặn, đẩy bóng nguyệt lên

Trăng tàn đẩy nhẹ vừng đôngửng hồng

Núi nghiêng nga ngả ven rừng

Rừng hiu hiu gió lưng chừng đầunon

Giọt mưa nhỏ kéo về sông

Lăn tăn sóng nước để bồng rakhơi

Giọt sương ươn ướt lá cây

Nắng tan biến dạng phủ đầytrời mây

Có đông thì mới có tây

Có nam gọi bắc, lẽ nầy tựnhiên

Quẳng đi cái nghiệt đảo điên

Não phiền biến mất, bình yênhiện về

Quẳng đi cái nghiệt ê chề

Khổ đau nhường chỗ bốn bề anvui

Vành khô đã gắn môi cười

Đừng bi lụy nhé, hỡi ngườithế nhân !

*****Bài 598*****

Đóa hồng mỉm nụ trầm kha

Tháng 9-2006

Thử cho biết mặt cuộc đời

Thử cho biết mặt đã đời truânchuyên

Đưa tay búng nét hão huyền

Chim bay dưới nước, cá chuyềntrên non

Mai sau, chi nữa mất còn

Tâm can trui giũa sắt son mấymàu

Dù cho cửa sổ vó câu

Tang bồng phỉ chí con tàutrần gian

Dấu tình còn đó mênh mang

Dù cho gai góc dọc ngang nẻo đường

Nỗi niềm còn đó vương vương

Dù cho be bít đo lường lượngphân

Ai đem mây rải phù vân

Ai đem bụi rải phong trầnnhân gian

Ai đem trăng vắt trên ngàn

Ai đem gió thổi lan man đấttrời

Rì rào sóng vỗ trùng khơi

Bọt bèo xô đẩy nổi trôi phậpphồng

Buốt căm, thử mấy mùa đông

Cứng khô, thử mấy hạ nồngchói chan

Đẹp tươi, thử mấy mùa xuân

Rụng rơi, thử mấy lá vàngsang thu

Ô hay, cát bụi mịt mờ

Đóa hồng mỉm nụ trên bờ trầmkha !

*****Bài 599*****

Đâu phải là gỗ đá !

Tháng 9-2006

Sỏi đá gồ ghề trên vạn nẻo

Chông gai lởm chởm khắp đường đi

Sự đời phải thế, có chi

Cuộc đời phải thế, nghĩa gì thế nhân

Đã sinh vào kiếp phong trần

Sống sao cho phải lựa lần mà đi

Có những lúc đứng trên đầu sónggió

Có những khi chìm nghỉm tựagiá băng

Có những khi vằng vặc tựavầng trăng

Nhưng có lúc bẽ bàng như saolạc

Khi vui, ngân lên tiếng hát

Khi mừng, vang vọng lời ca

Khi buồn, dáng điệu đưa ma

Khi đau, sầu bi vây bủa

Nhân thế, là bản trường camuôn thuở

Nhân gian, là bản trường tấumuôn đời

Những đãi bôi như sóng vỗtrùng khơi

Những thế thái như bốn chiềulộng gió

Nếu trong mắt, gắn ngọn đènsoi tỏ

Nếu trong tâm, gắn ánh hỏachâu pha

Biết vị kỷ thì phải biết vịtha

Bởi con người có thức tình, đâuphải là gỗ đá !

*****Bài 600*****

01. Tiếng lòng nức nở quêhương 01

02. Thầm lặng 02

03. Việt Nam, quê hương cònđó 03

04. Quê hương còn đó, đợi chờ04

05. Từ đó xa mờ 05

06. Tiếng kêu cứu quê hương 06

07. Thương Thầy An Thiên 07

08. Chùa tôi 08

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
06/09/2010(Xem: 10919)
Văn Tế Thiên Thái Trí Giả Tác giả Đại Sư Tuân Thức Việt dịch: Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm *** 1. Nhất tâm đảnh lễ Thiên Thai Trí Giả trong núi Đại Tô tu Tam Muội Pháp Hoa Tâm tâm tịnh thường lại qua pháp giới Như mặt nhật trên không chẳng trụ không Ba ngàn thật tướng tức khắc viên thông Tám vạn trần lao đều đồng chân tịnh. Xưa hội kiến Linh Sơn còn hoài niệm Nay toàn thân bảo tháp thấy rõ ràng Nếu chẳng cùng sư Nam Nhạc tương phùng Ai biết được tướng thâm sâu thiền định?
06/09/2010(Xem: 10732)
Trước khi viết loạt bài thơ trong phần 1 (Hương Đạo Pháp) của thi tập này, tôi đã có gần 900 bài thơ, xoay quanh các đề tài như quê hương đất nước, lịch sử, địa lý, giáo dục, cuộc sống hiện thực, triết lý sắc không, nhân sinh quan - vũ trụ quan Phật giáo, xưng tán Phật và Bồ-tát….. Tôi đang tạm thời dừng lại công việc sáng tác và chuẩn bị làm một số công việc chuyên và không chuyên khác. Nhưng chợt nhớ lại nhiều năm trước đây, thỉnh thoảng có trao đổi với vài vị thân, quen, những người đã đọc gần hết thơ tôi. Họ nói, trong số gần 900 bài thơ đã đọc qua, tuy cũng có nhiều bài khuyến tu, nhiều bài mang tính giáo lý sâu sắc, có khả năng tịnh hóa lòng người, tuy nhiên những bài đó nằm tản mạn chưa tập trung. Hơn nữa cũng cần một loạt bài có nội dung giáo lý căn bản với thuật ngữ, danh từ, pháp số thông dụng, nếu có thể cho thành một tập riêng biệt thì càng tốt.
06/09/2010(Xem: 9082)
Phù Sinh Nhiễm Thể Ca, TNT Mặc Giang
06/09/2010(Xem: 9623)
Mùa hạ mà hơi lạnh xông ướp cả gian phòng. Tắt điện, thắp lên ngọn bạch lạp cắm vào một quả thông, nhựa sống vẫn còn mơn man đâu đây, nồng nàn. Mấy mươi năm hiên ngang sừng sững, một cơn bão thổi qua, thông bật gốc ngã quỵ, vương vãi xác xơ. Có gì tồn tại mãi đâu! Rồi tất cả, cũng bị thiêu rụi như ngọn bạch lạp đang cháy dỡ…
06/09/2010(Xem: 11321)
Được sinh ra, lớn lên, đi vào trường học, đi vào trường đời, rồi dong ruổi muôn phương, và dù có ra sao, Quê Hương vẫn Còn Đó ! Từ thuở phôi sinh xuất hiện Lạc Hồng, Hùng Vương - Văn Lang, xuyên qua chiều dài lịch sử, cấu thành mảnh dư đồ Chữ S, với Bắc Nam Trung gấm vóc, với núi non hùng vĩ, biển rộng sông dài, với những tên gọi thân yêu Huế - Sài Gòn - Hà Nội, với từng thời kỳ dù có qua đi, không gian dù có biến đổi, và dù cho vật đổi sao dời, Quê Hương vẫn Còn Đó !
06/09/2010(Xem: 9382)
Người phương tây thường nói “trẻ ước mơ, già hoài niệm”, nhưng sau khi đọc xong tập thơ Hành Trình Quê Mẹ, tôi thấy tác giả, một nhà thơ ở tuổi tri thiên mạng, nhưng lại luôn ghi lòng tạc dạ, nâng niu trân trọng các giá trị được tài bồi bởi tiền nhân; tác giả còn hoài bảo, mơ vọng một hướng sống thiết thực cho người Việt Nam nói chung. Với Mặc Giang, hoài niệm và ước mơ nào có hạn cuộc bởi tuổi tác. Hoài niệm và ước mơ ấy đã trở thành chất liệu tài bồi cho dòng thơ với chủ đề Hành Trình Quê Mẹ tuôn chảy không mỏi mệt, để nguồn thơ của thi nhân vốn nhào nặn từ cuộc sống, trở lại phụng sự cuộc sống ấy, trở thành niềm tự hào kiêu hãnh của trào lưu thi ca hiện đại.
06/09/2010(Xem: 11791)
Qua năm mươi năm, tiếp bước tiền nhân tôi trót vào con đường khảo cứu lịch sử văn học dân tộc. Tôi đã đọc rất nhiều thơ và cũng làm được một số việc cho các thế hệ thơ ca. Nhưng khi may mắn được đọc tập thơ Quê Hương Nguồn Cội (và khoảng 650 bài khác nữa) của nhà thơ Mặc Giang, một tập thơ chan chứa tình quê hương dân tộc, với tâm hồn bao la, sâu rộng bằng trái tim và dòng máu của người Việt Nam, tập thơ đã làm cho tôi hòa đồng trong tác phẩm không còn phân biệt được tâm tư và cảm giác của mình và chỉ còn là một con tim, một dòng máu chung của dân tộc trộn lẫn vào sự cấu tạo chung trải qua mấy ngàn năm lịch sử của núi sông.
06/09/2010(Xem: 9488)
Nhịp Bước Đăng Trình, TNT Mặc Giang
01/09/2010(Xem: 12436)
Theo dòng diễn tiến của những cuộc du hóa qua những quốc gia trên thế giới, giàu và nghèo, Đông và Tây, chúng tôi đã từng thấy con người say sưa với niềm vuisướng, và những con người khổ đau. Sự phát triển của khoa học kỷ thuật dường như có đạt được thêm một ít đường nét, một số cải tiến; phát triển thườngcó nghĩa thêm ít nhiều những tòa nhà ở thành thị.
31/08/2010(Xem: 11380)
Em có về cồn phượng là tuyển tập truyện ngắn của nhà văn Hoàng Ngọc Hiển.(Tên thật Trần Ngọc Hiển) Sinh năm 1942 tại Phú Lý, Hà Nam. Di cư vào Sài Gòn năm 1954. Cựu học sinh Chu Văn An. Sinh viên Luật khoa (dở dang). Sinh viên ban Triết Tây, Đại học Văn Khoa (cũng dở dang). Tốt nghiệp khả năng Sư Phạm Trung Cấp, ban Văn Chương. Giáo sư văn chương các trường trung học Côn Sơn, Ngô Quyền, Minh Đức, Trí Đức Sài Gòn và Kỷ Thuật Biên Hòa.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]