Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Quyển thứ sáu

09/05/201314:04(Xem: 10613)
Quyển thứ sáu

Kinh Thuyết Vô Cấu Xứng (Quyển 4-6)

Quyển thứ sáu
XII - Phẩm quán Như lai

Việt dịch: Thích nữ Tịnh Nguyên

Nguồn: Hán dịch: Đại Đường, Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang Chứng nghĩa: Tỳ kheo Thích Đỗng Minh, Tỳ kheo Thích Tâm Hạnh.

Bấy giờ, Thế Tôn hỏi Vô Cấu Xứng:

- Này thiện nam! Trước đây vì muốn thấy thân Như Lai nên ông đến đây. Ông thấy Như Lai như thế nào?

Vô Cấu Xứng nói:

- Con quán Như Lai hoàn toàn không có chỗ thấy. Con quán như vậy. Vì sao? Vì con quán Như Lai trước không đến, sau không đi, hiện tại không trụ. Vì sao? Vì bảo con quán tánh Chơn như của sắc Như Lai, tánh ấy chẳng phải tánh chơn như của sắc thọ; tánh ấy chẳng phải tánh chơn như của thọ tưởng; tánh ấy chẳng tánh chơn như của tưởng hành; tánh ấy chẳng phải tánh chơn như của hành thức; tánh ấy chẳng phải thức; không trụ trong bốn giới; đồng với hư không giới; chẳng phải do sáu xứ sanh khởi; vượt qua sáu căn; không bị tạp nhiễm trong ba cõi; xa lìa ba cấu; thuận với ba giải thoát; đạt đến ba minh; chẳng phải minh mà lại minh; chẳng phải thông đạt nhưng lại thông đạt tất cả pháp không bị chướng ngại; thật tế chẳng phải tế; chơn như chẳng phải như, đối với cảnh chơn như thấy không có chỗ trụ; đối với trí chơn như không sáng suốt; tánh của trí và cảnh chơn như đều lìa cả hai; chẳng phải do nhân sanh ra; chẳng phải do duyên khởi; chẳng phải hữu tướng; chẳng phải vô tướng; chẳng phải tự tướng; chẳng phải tha tướng; chẳng phải một tướng; chẳng phải tướng khác; chẳng phải sở tướng; chẳng phải lìa sở tướng; chẳng phải đồng sở tướng; chẳng phải khác sở tướng; chẳng phải năng tướng; chẳng phải lìa năng tướng; chẳng phải đồng năng tướng; chẳng phải khác năng tướng; chẳng phải bờ bên này; chẳng phải bờ bên kia; chẳng phải giữa dòng; chẳng phải ở đây; chẳng phải ở kia; chẳng phải ở chặn giữa; chẳng phải trong chẳng phải ngoài; chẳng phải cả hai không cả hai; chẳng phải đã đi chẳng phải sẽ đi chẳng phải đang đi; chẳng phải đã đến chẳng phải sẽ đến chẳng phải đang đến; chẳng phải trí chẳng phải cảnh; chẳng phải năng thức chẳng phải sở thức; chẳng phải ẩn chẳng phải hiện; chẳng tối chẳng sáng; chẳng đứng chẳng đi; không danh không tướng; không mạnh không yếu; không trụ một nơi không lìa một nơi; chẳng tạp nhiễm chẳng thanh tịnh; chẳng phải hữu vi chẳng phải vô vi; chẳng tịch diệt hẳn chẳng phải không tịch diệt; không có việc nhỏ nào để hiển bày, không có nghĩa nhỏ nào để nói; không bố thí không xan tham; không giữ giới không phạm giới; không nhẫn nhục không sân giận; không siêng năng không biếng nhác; không định tâm không tán loạn; không trí huệ không ngu si; không nhớ kỹ không quên mất; không xuất không nhập; không đi không đến; tất cả ngôn ngữ (nói năng) việc làm đều đoạn diệt, chẳng phải ruộng phước, chẳng phải không có ruộng phước; chẳng phải được cúng dường chẳng phải không đáng cúng dường; chẳng phải năng chấp chẳng phải sở chấp; chẳng phải năng thủ chẳng phải sở thủ; chẳng phải tướng chẳng phải không có tướng; chẳng phải vi chẳng phải bất vi; không có số lìa các số; không chướng ngại lìa các sự chướng ngại; không tăng không giảm; bình đẳng bình đẳng; đồng vói chân thật tế đồng đẳng với tánh pháp giới, chẳng phải năng xưng chẳng phải sở xưng vượt qua các xưng tánh; chẳng phải năng lường chẳng phải sở lường vượt ra khỏi các tánh lường; không hướng đến không quay ngược vượt khỏi các sự hướng đến quay ngược; chẳng mạnh chẳng yếu vượt ra khỏi các mạnh yếu; chẳng lớn chẳng nhỏ chẳng rộng chẳng hẹp; không thấy không nghe không hay không biết, lìa các sự trói buộc an nhiên giải thoát; chứng nhập bình đẳng với trí Nhất thiết trí; chứng đắc chúng sanh không có hai; thông đạt các pháp không sai khác; biết rõ tất cả không tội không lỗi, không đục không dơ, không bị chướng ngại; lìa các phân biệt; không tạo tác không phát sanh; không hư không thật; không phát khởi không cùng tận; không từng có không sẽ có, không sợ không nhiễm; không buồn không vui không chán không thích; phân biệt tất cả đều không có năng duyên; tất cả danh ngôn không có năng thuyết.

Bạch Thế Tôn! Thân tướng của Như Lai là như vậy, phải quán như vậy không nên quán khác. Ai quán như vậy gọi là chánh quán. Nếu quán khác gọi là tà quán.

Bấy giờ, Xá Lợi Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vô Cấu Xứng này qua đời ở cõi nào mà đến sanh vào cõi kham nhẫn này?

Thế Tôn dạy:

- Ông hãy hỏi ông ta thử xem.

Xá Lợi Phất hỏi Vô Cấu Xứng:

- Ông qua đời ở cõi nào mà sanh đến cõi này?

Vô Cấu Xứng nói:

- Thưa ngài Xá Lợi Tử! Ông biết rất rõ về tác chứng các pháp. Vậy có pháp nhỏ nào có thể diệt hay sanh không?

Xá Lợi Tử nói:

- Thưa Vô Cấu Xứng! Không có pháp nhỏ nào có thể diệt hay sanh cả.

Vô Cấu Xứng hỏi:

- Nếu biết rõ tác chứng tất cả pháp không diệt hay sanh. Vậy sao ngài hỏi tôi: Ông ở cõi nào qua đời mà sanh đến cõi này? Thưa ngài Xá Lợi Tử! Ý ngài thế nào? Những nam nữ do huyễn hóa tạo ra chết ở cõi nào mà đến sanh ở đây?

Xá Lợi Tử trả lời:

- Nam nữ được huyễn hóa ấy không thể đưa ra nói có chết hay sanh.

Vô Cấu Xứng nói:

- Như Lai đâu không nói tất cả các pháp như huyễn hóa sao?

Xá Lợi Tử:

- Đúng vậy! Đúng vậy!

Vô Cấu Xứng nói:

- Nếu tự tánh tự tướng của các pháp như huyễn như hóa, vì sao ngài lại hỏi rằng ông chết ở cõi nào mà đến sanh cõi này. Thưa ngài Xá Lợi Tử! Chết tức là tướng đoạn diệt của các hành; sống là tướng liên tục của các hành. Mặc dầu Bồ tát qua đời nhưng không đoạn tất cả hành tướng của các pháp lành. Mặc dầu Bồ tát sanh nhưng không tiếp tục tất cả hành tướng của pháp ác.

Bấy giờ, Thế Tôn dạy Xá Lợi Tử:

- Có thế giới Phật tên Diệu Hỷ, Như Lai hiệu Vô Động, vì độ chúng sanh nên Vô Cấu Xứng ở cõi đó mà qua đời sanh vào cõi này.

Xá Lợi Phất:

- Thật kỳ diệu thay bạch Thế Tôn! Đại sĩ này thật chưa từng có, có thể bỏ cõi Phật thanh tịnh mà thích đến chỗ đầy tạp nhiễm ô uế này.

Vô Cấu Xứng nói:

- Thưa ngài Xá Lợi Tử! Ý ngài thế nào? Ánh sáng mặt trời có thích nhập xen lẫn với tối tăm thế gian không?

Xá Lợi Phất trả lời:

- Không, cư sĩ! Mặt trời vừa nhô lên thì bóng tối mất hẳn.

Vô Cấu Xứng nói:

- Mặt trời vì sao đi qua Thiệm Bộ Châu?

Xá Lợi Phất trả lời:

- Vì chiếu ánh sáng diệt trừ tối tăm.

Vô Cấu Xứng nói:

- Bồ tát cũng vậy, vì độ hữu tình mà sanh vào cõi Phật ô uế nhưng không ở xen tạp với những phiền não, chỉ vì diệt trừ tối tăm phiền não của chúng sanh mà thôi.

Bấy giờ, đại chúng đều khao khát muốn thấy cõi Phật công đức trang nghiêm thanh tịnh Diệu Hỷ, thấy đức Như Lai Vô Động và chúng Bồ tát Thanh văn.

Biết tâm niệm của đại chúng, đức Thế Tôn bảo Vô Cấu Xứng:

- Này thiện nam! Tất cả đại chúng những vị thần tiên trong đại hội này đều khao khát muốn thấy cõi Phật trang nghiêm công đức thanh tịnh Diệu Hỷ, Như Lai Vô Động và chúng Bồ tát, Thanh văn, ông hãy hiện để họ mãn nguyện.

Khi ấy Vô Cấu Xứng suy nghĩ: “ Ngay chỗ ngồi này, ta nên dùng sức thần thông dời mau thế giới Diệu Hỷ và núi Thiết Vi, vườn rừng, ao hồ, suối rạch hang cốc, biển cả, sông lớn, núi Tu Di, núi đồi vây quanh, mặt trời mặt trăng, sao, trời rồng, quỉ thần, chúng hội, cung điện Đế thích Phạm vương, chúng Bồ tát Thanh văn... xóm làng thành ấp, đô thành nhà ở của nam nữ lớn nhỏ nói rộng cho đến Vô Động Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, cây đại Bồ đề, ngồi nghe pháp, biển hội đại chúng, các hoa sen báu đến mười phương cõi, vì các hữu tình mà làm Phật sự, có ba thang cấp báu tự nhiên vọt ra từ Thiệm Bộ Châu thẳng đến đỉnh núi Tu Di. Cõi trời ba mươi ba vì muốn chiêm ngưỡng kính lạy cúng dường Bất Động Như Lai và nghe pháp nên mỗi ngày theo thang cấp báu này đi xuống. Người cõi Thiệm Bộ Châu cũng muốn thấy nhà cửa vườn rừng cõi trời Ba mươi ba mà theo thang cấp báu này đi lên. Thế giới Diệu Hỷ thanh tịnh được thành lập do vô lượng công đức hợp lại, dưới đến thủy luân trên đến trời sắc cứu cánh. Ta lấy đặt trong lòng bàn tay phải, giống như bánh xe của người thợ gốm, giống như xâu vòng hoa rồi ta để vào thế giới này để hiển bày cho đại chúng”. Sau khi nghĩ như vậy, ngay trên giường Vô Cấu Xứng nhập Tam ma địa hiện thần thông thù thắng, nhanh chóng lấy thế giới Diệu Hỷ đặt trong lòng bàn tay phải rồi để vào trong thế giới này. Các Thanh văn, Bồ tát, trời, người, đại chúng cõi ấy, ai có thiên nhãn đều sợ hãi và cùng nói:

- Ai đem chúng con đi? Ai đem chúng con đi vậy? Cúi xin Thế Tôn cứu hộ chúng con, cúi xin bậc Thiện Thệ cứu giúp chúng con.

Khi ấy Phật Vô Động dùng phương tiện giáo hóa chúng sanh, nên nói:

- Này các thiện nam! Các ông đừng sợ sệt! Các ông đừng sợ sệt! Đó do sức thần thông của Vô Cấu Xứng chứ chẳng Như Lai làm ra đâu.

Trời, người và người mới học ở cõi ấy chưa đắc thiên nhãn thông thù thắng đều an nhiên không hay không biết. Sau khi nghe nói vậy, họ đều hoảng hốt hỏi nhau:

- Chúng ta đang đi đâu vậy?

Mặc dầu cõi Diệu Hỷ nhập vào cõi này nhưng tướng của cõi này không giảm không tăng. Cõi Kham nhẫn cũng không chật hẹp. Mặc dầu hai cõi xen lẫn với nhau nhưng đều thấy chỗ ở như cũ không thay đổi gì cả.

Bấy giờ, Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni dạy đại chúng:

- Các ông có thấy thế giới Diệu Hỷ, cõi Phật trang nghiêm Vô Động và các Bồ tát, Thanh văn không?

Đại chúng đều thưa:

- Bạch Thế Tôn! Đã thấy.

Lúc ấy Vô Cấu Xứng liền dùng thần lực hóa hiện những hoa trời thượng diệu và các hương vụn khác, đưa cho đại chúng để rải cúng dường Đức Thích Ca Mâu Ni, Vô Động Như Lai và các Bồ tát...

Thế Tôn dạy đại chúng:

- Các ông muốn thành tựu cõi Phật trang nghiêm công đức như vậy thì các Bồ tát phải theo học hành những hạnh Bồ tát mà trước kia Như Lai Vô Động đã từng tu hành.

Khi Vô Cấu Xứng dùng sức thần thông thị hiện thế giới Diệu Hỷ như vậy thì có tám mươi bốn na do tha trời người trong cõi kham nhẫn đều phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Giác, ai nấy đều muốn được sanh về cõi Diệu Hỷ. Thế Tôn thọ ký cho tất cả sẽ sanh về cõi Phật Như Lai Vô Động.

Lúc đó Vô Cấu Xứng dùng sức thần thông dời các Bồ tát của Như Lai Vô Động cõi Diệu Hỷ như vậy là vì muốn làm lợi ích cho hữu tình cõi kham nhẫn này. Việc ấy đã xong rồi thì Vô Cấu Xứng đem cõi ấy về lại chỗ cũ. Khi cả hai cõi phân riêng ra, đại chúng hai nơi đều thấy.

Bấy giờ Thế Tôn dạy Xá Lợi Tử:

- Ông đã thấy Như Lai Vô Động và các Bồ tát thế giới thế giới Diệu Hỷ rồi phải không?

Xá Lợi Phất thưa:

- Bạch Thế Tôn! Con đã thấy. Con nguyện cho các hữu tình đều ở cõi Phật trang nghiêm như vậy, con nguyện cho các hữu tình được thành tựu công đức viên mãn phước đức trí huệ như thế. Tất cả đều giống như Như Lai Vô Động. Con nguyện cho các hữu tình đều được thần thông tự tại như Vô Cấu Xứng.

Bạch Thế Tôn! Chúng con có lợi ích tốt lành nên được chiêm ngưỡng gần gũi đại sĩ ấy. Nếu các hữu tình chỉ nghe pháp môn thù thắng này thì nên biết rằng còn gọi là thiện hoạch thắng lợi huống chi đã nghe rồi tin hiểu thọ trì đọc tụng thông suốt, giảng nói cho người khác, và lại dùng phương tiện tinh tấn tu hành. Nếu các hữu tình đạt được pháp môn thù thắng như vậy tức là đạt được kho tàng pháp bảo. Nếu các hữu tình tin hiểu pháp môn thù thắng này tức là tiếp nối chư Phật. Nếu các hữu tình đọc tụng pháp môn thù thắng là thành Bồ tát bạn của Phật. Nếu các hữu tình thọ trì pháp môn này là giữ gìn chánh pháp vô thượng. Nếu ai cúng dường pháp này nên biết rằng nhà người ấy có Như Lai. Nếu ai ghi chép cúng dường pháp môn thù thắng này tức là giữ gìn tất cả phước đức, trí Nhất thiết trí. Nếu ai tùy hỷ pháp môn này tức là thiết đại pháp hội. Nếu giảng giải cho người một bài tụng bốn câu của pháp môn thù thắng này thì đạt được địa vị Bất thối chuyển. Nếu thiện nam hay thiện nữ đối với pháp môn thù thắng này mà tin hiểu, thọ trì, ưa thích, quán sát thì được thọ ký Vô thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567