Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Quyển thứ hai

09/05/201313:43(Xem: 11556)
Quyển thứ hai

Kinh Thuyết Vô Cấu Xứng (6 quyển)

Quyển thứ hai
III- Phẩm Thanh Văn

Việt dịch: Thích nữ Tịnh Nguyên

Nguồn: Hán dịch: Đại Đường, Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang Chứng nghĩa: Tỳ kheo Thích Đỗng Minh, Tỳ kheo Thích Tâm Hạnh.

Bấy giờ, Vô Cấu Xứng suy nghĩ: “Ta bị bệnh liệt giường như vậy, lẽ nào đức Thế Tôn đại bi không đoái lòng thương xót mà không bảo người nào đến hỏi thăm bệnh tình của ta sao?”. Biết ý ông ta, đức Thế Tôn thương xót bảo Xá Lợi Tử:

- Ông hãy đến thăm bệnh ông Vô Cấu Xứng hỉ!

Xá Lợi Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Con không đủ khả năng đến thăm bệnh ông ta đâu ạ! Vì sao? Vì con nhớ trước đây có một lần, con đang ngồi thiền trong rừng cây. Lúc đó Vô Cấu Xứng đến cúi đầu lạy dưới chân con và nói rằng: “Thưa ngài Xá Lợi Tử! Không cần ngồi như vậy mới là ngồi thiền. Người ngồi thiền không hiện thân tâm ở ba cõi, đó là ngồi thiền; không khởi diệt định mà hiện các oai nghi, đó là ngồi thiền; không xả bỏ tướng đã chứng đắc mà hiện tất cả pháp dị sanh, đó là ngồi thiền; Tâm không trụ bên trong cũng không hành bên ngoài, đó là ngồi thiền; Trụ vào ba mươi bảy pháp phần Bồ đề mà không lìa tất cả kiến thú, đó là ngồi thiền; Không xả bỏ phiền não mà không phiền não, mặc dầu chứng Niết bàn mà không có chỗ trụ, đó là ngồi thiền; Nếu ngồi thiền như vậy thì được Phật ấn chứng”.

Bạch Thế Tôn! Khi đó con nghe vậy liền nín thinh không thể trả lời được. Nên nay con không dám đến thăm bệnh ông ta.

Đức Thế Tôn bảo Đại Mục Kiền Liên:

- Ông hãy đến thăm bệnh Vô Cấu Xứng hỉ!

Đại Mục Kiền Liên thưa:

- Bạch Thế Tôn! Con không có đủ khả năng đến thăm bệnh ông ta đâu ạ! Vì sao? Vì con nhớ lại trước đây có một lần, con đến ngã tư đường thuộc thành Quảng Nghiêm giảng nói pháp giải thoát cho các cư sĩ. Lúc đó Vô Cấu Xứng đến cúi đầu lạy chân con và nói: “Thưa ngài Mục Kiền Liên! Nói pháp cho hàng cư sĩ, không nên nói như tôn giả. Mà nói pháp phải nói như pháp”. Con hỏi: “Thế nào là nói như pháp?” Ông ta trả lời: “Pháp không có ngã vì lìa cấu của ngã; pháp không có hữu tình vì lìa trần bụi của hữu tình; pháp không có mạng giả vì lìa sanh tử; pháp không có Bổ đặc già la vì trước sau đều đoạn; Pháp luôn tịch tịnh vì diệt các tướng; pháp lìa tham trước vì không chỗ duyên; pháp không có văn tự vì đoạn ngôn ngữ; pháp không có ví dụ để nói vì xa lìa tất cả tư tưởng sóng nước; pháp ở khắp tất cả vì như hư không; pháp không hiển bày, không có tướng, không có hình thể vì xa lìa tất cả hành động; pháp không có ngã sở vì lìa ngã sở; pháp không liễu biệt vì lìa tâm thức; pháp không so sánh vì không đối đãi nhau; pháp không thuộc vào nhân vì không ở trong duyên; pháp đồng với pháp giới vì thể nhập vào tất cả chơn pháp giới; Pháp tùy theo Như vì không có chỗ theo; pháp trụ vào thật tế vì rốt ráo bất động; pháp không lay động vì không nương tựa vào sáu cảnh; pháp không đến-đi vì không chỗ trụ; pháp thuận với không vì tùy theo vô tướng, ứng với vô nguyện vì xa lìa tất cả tư tưởng tăng-giảm; pháp không nắm bắt vì lìa sanh diệt; pháp không chấp tàng vì vượt qua tất cả đạo Nhãn - Nhĩ - Tỷ - Thiệc- Thân- Ý; pháp không cao thấp vì thường trụ bất động; pháp lìa tất cả phân biệt sở hành vì đã đoạn rốt ráo các hý luận. Thưa Ngài Mục Kiền Liên! Tướng pháp như vậy mà có thể nói được sao? Vậy người nói pháp là tất cả đều tăng trưởng tổn giảm. Người nghe pháp cũng đều tăng trưởng tổn giảm. Nếu đối với xứ ấy không tăng không giảm, thì với xứ ấy không thể nói, không thể nghe, không thể liễu biệt. Thưa ngài Mục Kiền Liên! Ví như thầy ảo thuật hóa người huyễn hóa, giảng nói các pháp trụ tâm như vậy, mới có thể nói pháp; phải hiểu rõ hoàn toàn căn tánh sai khác của các hữu tình, dùng diệu huệ quán sát không bị chướng ngại, khen ngợi đại thừa, nhớ nghĩ báo ân Phật, ý lạc thanh tịnh, từ ngữ pháp thiện xảo, nối dõi Tam bảo không cho đoạn tuyệt, đó mới nên nói pháp”.

Bạch Thế Tôn! Khi đại sĩ ấy giảng nói pháp như vậy, trong chúng có tám trăm cư sĩ đều phát tâm Vô Thượng Đẳng Chánh Giác.

Bạch Thế Tôn! Lúc đó con im lặng không thể biện luận được nữa. Nên nay con không dám đến thăm bệnh ông ta.

Đức Thế Tôn bảo Đại Ca Diếp Ba:

- Ông hãy đến thăm bệnh Vô Cấu Xứng!

Đại Ca Diếp Ba thưa:

- Bạch Thế Tôn! Con không đủ khả năng đến thăm bệnh ông ta đâu ạ! Vì sao? Vì con nhớ trước đây có một lần con vào thành Quảng Nghiêm, theo những ngõ hẻm nhà nghèo khó để khất thực. Khi ấy, Vô Cấu Xứng đến cúi đầu lạy sát chân con và nói: “Thưa ngài Đại Ca Diếp Ba! Mặc dầu ngài có lòng từ bi nhưng không phổ cập, bỏ nhà giàu đến khất thực nhà nghèo. Thưa tôn giả Ca Diếp! Nên trụ vào pháp bình đẳng mà khất thực theo thứ tự. Vì không ăn nên đi khất thực; vì muốn nhận thức ăn bố thí của người nên đi khất thực; vì có tư tưởng vào xóm làng trống không mà vào xóm làng; vì muốn thành thục nam nữ lớn nhỏ mà vào thành ấp; vì có tư tưởng hướng nhà Phật mà đến nhà khất thực; vì không thọ nhận mà thọ nhận thức ăn ấy, thấy sắc giống như mù; nghe tiếng như âm thanh vọng lại; ngửi mùi thơm như gió; ăn mùi vị không phân biệt; thọ các xúc như trí chứng; biết các pháp như tướng huyễn; không có tự tánh không có tha tánh; không hừng hẫy không tịch tịnh. Thưa tôn giả Ca Diếp! Nếu có thể lìa bỏ tám tà để thể nhập vào tám giải thoát; lấy tà bình đẳng nhập vào chánh bình đẳng; lấy một vắt cơm bố thí cho tất cả, cúng dường cho chư Phật cùng chúng Hiền thánh rồi sau đó mới ăn. Thức ăn ấy chẳng tạp nhiễm chẳng lìa tạp nhiễm; chẳng nhập định tịnh chẳng ra khỏi định tịnh; chẳng trụ sanh tử chẳng trụ Niết bàn, như vậy mới có thể ăn. Những người cúng dường cho tôn giả không có quả nhỏ không có quả lớn, không tổn giảm không tăng trưởng, hướng đến cõi Phật không hướng đến Thanh Văn. Thưa tôn giả Ca Diếp! Nếu ăn thức ăn ấy thì không uổng phí thức ăn của người cúng dường.

Bạch Thế Tôn! Nghe ông ta nói vậy, con tỏ ngộ thật chưa từng có. Tất cả Bồ tát rất tôn kính ông ta.

Kỳ lạ thay bạch Thế Tôn! Ở đó có cư sĩ với biện tài trí huệ như vậy. Ai có trí huệ được nghe ông ta nói mà lại không phát tâm Vô thượng Bồ đề. Từ đó đến nay, con không chỉ dạy hữu tình cầu các thừa Thanh Văn Duyên giác nữa, mà con chỉ chỉ dạy họ phát tâm mong cầu Vô thượng Bồ đề. Cho nên nay con không dám đến thăm bệnh ông ta.

Đức Thế Tôn bảo tôn giả Đại Thiện Hiện:

- Ông hãy đến thăm bệnh Vô Cấu Xứng hỉ?

Đại Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Con không đủ khả năng đến thăm bệnh ông ta đâu ạ! Vì sao? Vì con nhớ trước đây có một lần con vào thành Quảng Nghiêm để đi khất thực, theo thứ tự con vào nhà ông ta. Khi ấy Vô Cấu Xứng cúi đầu lạy sát chân con và tự tay lấy bát con đựng đầy thức ăn ngon, rồi nói với con: “Thưa tôn giả Thiện Hiện! Đối với thức ăn, nếu lấy tánh bình đẳng nhập vào tánh bình đẳng của các pháp; đem tánh bình đẳng của các pháp nhập vào tánh bình đẳng của chư Phật thì mới có thể nhận lấy thức ăn. Thưa tôn giả Thiện Hiện! Nếu không đoạn trừ tham sân si cũng không tương ưng với nó; không hoại thân kiến mà nhập vào nhất thú đạo; không diệt vô minh và các hữu ái mà phát sanh huệ minh để giải thoát; đem pháp tánh bình đẳng vô gián nhập vào pháp tánh bình đẳng giải thoát; không tháo bỏ không trói buộc; không kiến tứ đế chẳng phải không kiến tứ đế; chẳng phải đắc quả chẳng phải dị sanh, chẳng phải lìa pháp dị sanh; chẳng phải thánh chẳng phải bất thánh; mặc dầu thành tựu tất cả pháp nhưng lìa vọng tưởng về các pháp thì mới có thể lấy ăn. Thưa tôn giả Thiện Hiện! Không thấy Phật, không nghe pháp, không cung kính Tăng. Bọn lục sư ngoại đạo: Mãn Ca Diếp Ba, Mạt Tát Yết Ly Cù Xá Ly Tử, Tưởng Phệ Đa Tử, Vô Thắng Man, Ca Diễn Na, Ly Hệ Thân Tử là thầy của tôn giả, tôn giả xuất gia với họ. Bọn lục sư ấy đọa thì tôn giả cũng đọa, thì mới có thể lấy ăn. Nếu tôn giả rơi vào các kiến thú mà không rơi vào ở giữa, hai bên; vào tám chỗ nạn không thoát ra được cùng với tạp nhiễm mà lìa thanh tịnh. Nếu hữu tình đạt được Vô Tránh thì tôn giả cũng đạt được, nhưng không gọi là ruộng phước thanh tịnh. Nhưng người bố thí thức ăn cho tôn giả đọa vào các cõi ác rồi tôn giả cùng bọn ma nắm tay nhau, kết bạn cùng với các phiền não. Tự tánh của phiền não tức là tự tánh của tôn giả. Các hữu tình sanh tâm oán hận, chê bai chư Phật, hủy báng chánh pháp, không dự vào tăng số thì hoàn toàn không có cơ hội Bát Niết bàn. Nếu như vậy thì có thể lấy ăn”.

Bạch Thế Tôn! Khi nghe ông ta nói như vậy con mịt mù mê muội quên hết đường đi. Con không biết phải nói gì và trả lời thế nào. Con muốn để bát lại mà ra khỏi nhà ông ta. Khi ấy, Vô Cấu Xứng nói với con rằng: “Thưa tôn giả Thiện Hiện! Ngài hãy cầm bát chớ có sợ. Ý ngài thế nào? Như chư Phật Như Lai hóa ra người huyễn. Người huyễn hóa đó đem việc này hỏi ngài, thì ngài có sợ không?” Con nói: “Không sợ”. Vô Cấu Xứng nói: “Tánh tướng của các pháp đều như huyễn hóa. Tất cả hữu tình và các lời nói năng, tánh tướng nó đều như vậy. Những người có trí không nên chấp trước vào văn tự, cũng không sợ sệt. Vì sao? Vì tất cả sự nói năng đều lìa tánh tướng của văn tự. Nếu hoàn toàn chẳng có văn tự thì đó là giải thoát. Tướng giải thoát tức là tất cả pháp.

Bạch Thế Tôn! Khi đại cư sĩ ấy nói pháp, có hai vạn thiên tử xa lìa trần cấu, trong các pháp đắc được pháp nhãn tịnh. Năm trăm thiên tử đắc Thuận Pháp Nhẫn. Lúc đó con im lặng không nói năng gì được và không sao trả lời. Cho nên nay con không dám đến thăm bệnh ông ta.

Thế Tôn bảo Mãn Từ Tử:

- Ông hãy đến thăm bệnh Vô Cấu Xứng hỉ?

Mãn Từ Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Con không đủ khả năng đến thăm bệnh ông ta đâu ạ. Vì sao? Vì con nhớ trước đây có một lần ở trong rừng con giảng pháp cho Tỳ kheo mới học. Khi ấy, Vô Cấu Xứng đến cúi đầu lạy sát chân con và nói: “Thưa Mãn Từ Tử! Trước tiên ngài nên nhập định để quán sát tâm Tỳ kheo, rồi sau đó mới giảng pháp cho họ. Không nên đem thức ăn nhơ nhớp bỏ vào bình báu. Trước tiên nên biết rõ các Tỳ kheo có ý lạc gì, đừng đem báu phệ lưu ly vô giá sánh bằng với viên thủy tinh tầm thường dễ vỡ. Thưa tôn giả Mãn Từ Tử! Ngài chớ không quán sát căn tánh sai khác của các loài hữu tình mà trao cho họ pháp thuộc tiểu thừa. Họ đã không bị tổn thương thì đừng làm cho họ tổn thương. Họ muốn đi đường lớn đừng bảo đi đường nhỏ; chớ lấy ánh sáng mặt trời đem sánh với lửa đom đóm; không nên lấy biển cả đặt vào dấu chân trâu; không nên đem núi Diệu Cao để trong hạt cải; không nên đem tiếng hống sư tử sánh bằng với tiếng dã can. Thưa tôn giả Mãn Từ Tử! Các Tỳ kheo ấy đều đã phát tâm Đại thừa từ thuở xa xưa, cầu Bồ đề giữa chừng thì quên mất ý ấy. Vậy sao đem pháp Thanh Văn thừa mà chỉ dạy họ. Tôi quán sát trí huệ của Thanh Văn thấp kém quá hơn người mù bẩm sanh không có đại thừa. Quán căn tánh diệu trí của các hữu tình chứ không thể quán căn tánh lợi-độn của hữu tình”. Khi ấy, Vô Cấu Xứng liền nhập Thắng Tam ma địa để các Tỳ kheo theo đó mà nhớ vô lượng sự sai khác ở kiếp trước đã từng gieo trồng căn lành với năm trăm đức Phật ở quá khứ, đã chứa nhóm tu tập vô lượng công đức thù thắng, hồi hướng lên Vô Thượng Chánh Đẳng Giác. Sau khi nhớ lại đời kiếp trước, các vị ấy cầu tâm Bồ đề và trở lại hiện tại cúi đầu lạy sát chân cư sĩ. Nhơn đây, Vô Cấu Xứng giảng pháp để họ không thối chuyển Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Bạch Thế Tôn! Lúc ấy con nghĩ rằng: “Các vị Thanh Văn không biết căn tánh sai khác của hữu tình. Nếu không thưa với Như Lai thì không nên nói pháp cho họ. Vì sao? Vì các Thanh Văn không biết căn tánh thắng liệt của hữu tình, chẳng phải luôn ở trong định như Phật. Nên nay con không dám đến thăm bệnh ông ta.

Đức Thế Tôn bảo Ma Ha Ca Đa Diễn Na:

- Ông hãy đến thăm bệnh Vô Cấu Xứng!

Ca Đa Diễn Na thưa:

- Bạch Thế Tôn! Con không đủ khả năng đến thăm bệnh ông ta đâu. Vì sao? Vì con nhớ trước đây, có một lần, sau khi đức Thế Tôn giảng pháp cho Tỳ kheo, con liền nhập vào định. Sau đó, con phân biệt chọn lựa cú nghĩa của khế kinh nói nghĩa vô thường, nghĩa không, nghĩa vô ngã, nghĩa tịch diệt. Khi ấy, Vô Cấu Xứng đến cúi đầu lạy sát chân con và nói: “Thưa tôn giả Đại Ca Đa Diễn Na! Không nên đem tâm hành phân biệt mà nói thật tướng của các pháp. Vì sao? Vì các pháp hoàn toàn chẳng phải đã sanh, chẳng phải đang sanh, chẳng phải sẽ sanh; chẳng phải đã diệt, chẳng phải đang diệt, chẳng phải sẽ diệt, đó là nghĩa vô thường; Thấu đạt tánh năm uẩn hoàn toàn không, không có chỗ sanh khởi, đó là nghĩa khổ; các pháp hoàn toàn không có sở hữu, đó là nghĩa không; biết ngã không có ngã, không hai, đó là nghĩa vô ngã; không có tự tánh, không có tha tánh, xưa không bùng cháy nay không dập tắt, không tịch tịnh, hoàn toàn tịch tịnh rốt ráo tịch tịnh, đó là nghĩa tịch tịnh.

Khi Vô Cấu Xứng nói pháp ấy thì các Tỳ kheo đoạn tận các lậu, tâm được giải thoát.

Bạch Thế Tôn! Khi ấy con im lặng không thể nói được gì cả. Nên nay con không dám đến thăm bệnh ông ta.

Đức Thế Tôn bảo Đại Vô Diệt:

Ông hãy đến thăm bệnh Vô Cấu Xứng!

Đại Vô Diệt thưa:

- Bạch Thế Tôn! Con không đủ khả năng đến thăm bệnh ông ta đâu ạ. Vì sao? Vì con nhớ trước đây có một lần, con đi kinh hành một mình trong rừng. Khi ấy, có Phạm vương tên Nghiêm Tịnh cùng một vạn Phạm chúng đều phóng ánh sáng lớn. Họ đến chỗ con cúi đầu lạy sát chân con và hỏi: “Thưa tôn giả Vô Diệt! Ngài đắc thiên nhãn có thể thấy bao xa?” Khi ấy con trả lời: “Đại tiên nên biết! Tôi có thể thấy ba ngàn đại thiên thế giới cõi Phật của Thích Ca Mâu Ni Phật như thấy quả A Ma Lạc trong lòng bàn tay”. Khi ấy Vô Cấu Xứng đến cúi đầu lạy sát chân con và nói: “Thưa tôn giả Vô Diệt! Thiên nhãn mà ngài đắc được là có hành tướng hay không có hành tướng? Nếu có hành tướng tức là đồng với năm thần thông của ngoại đạo. Còn nếu không có hành tướng tức là vô vi lẽ ra không thể thấy. Vậy thì Thiên nhãn mà tôn giả đắc được có thể thấy thế nào?”

Bạch Thế Tôn! Lúc đó con im lặng không thể trả lời được. Các chúng Phạm nghe ông ta nói vậy bừng tỏ chưa từng có, và họ liền lạy hỏi ông ta: “Trong đời, ai là người có được chơn Thiên nhãn?” Vô Cấu Xứng trả lời: “Chỉ có Phật Thế Tôn mới đắc được Chơn Thiên nhãn, Ngài không lìa định tịch tịnh mà vẫn thấy các cõi Phật không có hai tướng và các tướng”. Bấy giờ, Phạm vương ấy cùng quyến thuộc năm trăm người đều phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Giác. Lúc đó Vô Cấu Xứng bỗng nhiên biến mất. Nên nay con không dám đến thăm bệnh ông ta.

Đức Thế Tôn bảo Ưu Ba Ly:

- Ông hãy đến thăm bệnh Vô Cấu Xứng hỉ?

Ưu Ba Ly thưa:

- Bạch Thế Tôn! Con không đủ khả năng đến thăm bệnh ông ta đâu ạ. Vì sao? Vì con nhớ trước đây có một lần: Có hai vị Tỳ kheo phạm giới đã thọ. Hai vị ấy rất xấu hổ không dám đến chỗ đức Phật, lại đến lạy sát chân con nói rằng: “Thưa ngài Ưu Ba Ly! Hai chúng tôi nay đã vi phạm vượt quá giới luật, thật lấy làm xấu hổ không dám đến chỗ đức Phật. Chúng tôi xin Ngài hãy giải bày nổi ưu lo để chúng tôi khỏi tội ấy” Con liền như pháp giải nói để hai vị ấy không còn lo buồn nữa, giới đã phạm được thanh tịnh và con chỉ dạy khuyến khích hướng dẫn an ủi hai vị ấy. Lúc đó Vô Cấu Xứng dến lạy sát chân con và nói: “Thưa ngài Ưy Ba Ly! Không nên kết thêm tội cho hai vị Tỳ kheo này, mà phải làm thế nào để dứt hẳn mối lo âu đó ngay. Họ đã phạm rồi chớ nên làm loạn tâm họ. Vì sao? Vì tội tánh ấy không ở trong, không ở ngoài, không ở chặng giữa. Như lời Phật dạy: Vì tâm tạp nhiễm nên hữu tình tạp nhiễm; vì tâm thanh tịnh nên hữu tình thanh tịnh. Như vậy tâm cũng không ở trong, không ở ngoài cũng không ở chặng giữa. Tâm ấy như vậy nên tội cấu cũng như vậy. Tội cấu của Như như vậy nên các pháp cũng như vậy không ngoài Như. Thưa ngài Ưu Ba Ly! Tâm của ngài vốn thanh tịnh, vậy khi được giải thoát thì tâm vốn thanh tịnh ấy có bị nhiễm bao giờ không?” Con trả lời: “Không!” Vô Cấu Xứng nói: “Tâm tánh của tất cả hữu tình cũng vốn thanh tịnh chưa từng bị nhiễm. Thưa ngài Ưu Ba Ly! Nếu có phân biệt, phân biệt khác tức là có phiền não. Nếu không có phân biệt, không phân biệt khác tức là tánh thanh tịnh. Nếu có điên đảo là có phiền não. Còn như không điên đảo là tánh thanh tịnh. Nếu còn chấp ngã tức thành tạp nhiễm, không chấp ngã là tánh thanh tịnh. Thưa ngài Ưu Ba Ly! Tánh của các pháp sanh diệt không ngừng, nó như huyễn, như hóa, như điện, như chớp, như mây. Tánh của các pháp không quay lại đợi nhau, cho đến một niệm nó cũng không tạm dừng. Tánh của các pháp đều thấy một cách hư vọng, như mộng, như sóng nắng, như thành Kiền Đạt Đà. Tất cả pháp tánh đều do tâm phân biệt mà phát sanh ảnh tượng như trăng trong nước, như bóng trong gương. Ai biết được như vậy gọi là trì luật rốt ráo. Ai biết được như vậy gọi là điều phục hoàn hảo”. Nghe nói vậy, hai vị Tỳ kheo tỏ ngộ chưa từng có và cùng nói rằng: “Cư sĩ thật kỳ diệu thay! Với trí huệ biện tài thù thắng như vậy, Ưu Ba Ly không thể nào sánh kịp. Đức Phật dạy trì luật rất là cao cả không thể nói được”. Con liền rằng: “Hai vị đừng có nghĩ cư sĩ ấy như vậy. Vì sao? Vì ngoài đức Như Lai ra chưa có một Thanh Văn và các Bồ tát nào mà có thể ngăn chặn trí huệ biện tài của cư sĩ ấy. Trí huệ biện tài sáng suốt thù thắng của ông ta như vậy đó”.

Bấy giờ hai vị Tỳ kheo liền đoạn tận mối lo âu và đều phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Giác và làm lễ phát nguyện: “Nguyện các hữu tình đều được trí huệ biện tài thù thắng như vậy”. Khi ấy con im lặng không nói được gì cả. Nên nay con không dám đến thăm bệnh ông ta.

Đức Phật bảo La Hổ La:

- Ông nên đến thăm bệnh Vô Cấu Xứng!

La Hổ La thưa:

- Bạch Thế Tôn! Con không đủ khả năng đến thăm bệnh ông ta đâu ạ. Vì sao? Vì con nhớ trước đây có một lần: Có các đồng tử dòng Ly Chiêm Tỳ đến lễ lạy con và hỏi: “Thưa ngài La Hổ La! Ngài là con của Phật, vì đạo mà bỏ ngôi vị Chuyển luân vương để xuất gia. Việc xuất gia ấy có những công đức lợi ích gì?” Con liền như pháp mà nói cho ông ta về công đức lợi ích của việc xuất gia. Khi ấy, Vô Cấu Xứng đến cúi đầu lạy sát chân con nói: “Thưa ngài La Hổ La! Ngài không nên giảng nói những công đức lợi ích của việc xuất gia như vậy. Vì sao? Vì không có công đức, không có lợi ích đó là xuất gia. Thưa ngài La Hổ La! Đứng về pháp hữu vi thì có thể nói có công đức có lợi ích. Nhưng xuất gia là pháp vô vi. Trong pháp vô vi không thể nói có công đức lợi ích. Thưa ngài La Hổ La! Xuất gia không có bên này, không có bên kia, cũng không ở chặng giữa. Nó xa lìa các kiến, không có sắc phi sắc, đó là đường đến Niết bàn, được người trí khen ngợi, được bậc Thánh bảo hộ, chiến thắng chúng ma, vượt ra khỏi năm đường tịnh tu ngũ nhãn, an lập vào ngũ nhãn, chứng đắc năm lực, không còn khổ não, lìa các pháp ác, bẻ gãy bọn ngoại đạo, thoát khỏi giả danh, thoát ra khỏi dục bùn dơ không bị đắm nhiễm, không còn sự ràng buộc vì lìa ngã ngã sở, dứt hẳn các hữu vì đã đoạn trừ các hữu; không bị nhiễu loạn vì đã đoạn trừ sự nhiễu loạn, khéo điều phục tâm mình khéo bảo hộ tâm người, tùy thuận vào tịch chỉ, siêng năng tinh tấn tu thắng quán, xa lìa tất cả điều ác, tu tất cả điều thiện. Nếu có thể được như vậy mới gọi là chơn xuất gia”. Khi ấy Vô Cấu Xứng nói với các đồng tử: “Hôm nay các vị nên cùng nhau xuất gia trong thiện thuyết Tỳ Nại Da. Vì sao? Vì gặp Phật ra đời là khó, tránh xa khổ nạn là khó, được làm thân người là khó, đầy đủ an lạc là điều khó đệ nhất”. Các đồng tử thưa: “Thưa đại cư sĩ! Chúng tôi nghe đức Phật dạy: Nếu cha mẹ không cho phép thì không được xuất gia”. Vô Cấu Xứng nói: “Nhưng phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Giác, siêng năng tu tập chánh hạnh thì đó là xuất gia, là thọ cụ túc thành tánh Tỳ kheo”. Khi ấy, ba mươi hai đồng tử Ly Chiêm Tỳ đều phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Giác và thề nguyện tu hành chánh hạnh. Lúc đó con im lặng không thể nói được gì nữa. Cho nên nay con không dám đến thăm bệnh ông ta.

Đức Phật dạy A Nan Đà:

Ông nên đến thăm bệnh Vô Cấu Xứng hỉ?

A Nan Đà thưa:

- Bạch Thế Tôn! Con không đủ khả năng đến thăm bệnh ông ta đâu ạ. Vì sao? Vì con nhớ trước đây có một lần Thế Tôn hiện thân bệnh nhẹ cần dùng sữa bò. Vào sáng sớm, con sửa sang pháp phục ôm bát đến đứng trước nhà Bàlamôn ở thành Quảng Nghiêm để xin sữa bò. Khi ấy Vô Cấu Xứng đến lạy sát chân con và nói: “Thưa ngài A Nan Đà! Làm gì mà mới sáng sớm đã ôm bát đứng ở đây vậy?” Con trả lời: “Cư sĩ! Vì Thế Tôn bệnh cần dùng sữa bò nên tôi đến đây”. Vô Cấu Xứng nói với con: “Thôi, thôi, thưa tôn giả! Ngài đừng nói như vậy, chớ phỉ báng Thế Tôn. Đừng đem việc hư ngụy mà phỉ báng Như Lai. Vì sao? Vì thân Như Lai do kim cang hợp thành, đã trừ hẳn tất cả pháp ác và tập khí phiền não đã thành tựu viên mãn tất cả pháp lành thì đâu có bệnh gì; còn có phiền não gì? Thưa ngài A Nan Đà! Ngài hãy lặng lẽ trở về đừng xin nữa, đừng làm cho người khác nghe lời thô ấy, chớ để cho chư thiên có đại oai đức và các Bồ tát đến từ các cõi Phật nghe được lời nói ấy. Thưa ngài A Nan Đà! Chuyển Luân Thánh Vương thành tựu được chút căn lành còn không bị bệnh, huống chi thân Như Lai có vô lượng căn lành, đầy đủ phước-trí. Nếu ngài bệnh thì nhất định không có vấn đề ấy xảy ra. Thưa ngài A Nan Đà! Ngài hãy mau lặng lẽ về đi đừng để chúng tôi phải chịu sự nhục đó. Nếu các Bàlamôn ngoại đạo nghe lời thô này thì họ sẽ nói rằng: “Như vậy sao gọi là thầy. Thân mình có bệnh còn không cứu nổi thì làm sao có thể cứu bệnh cho người khác được”. Ngài hãy mau lặng lẽ đi đi đừng để mọi người nghe thấy. Còn nữa, thưa ngài A Nan Đà! Thân Như Lai là pháp thân cứ chẳng phải thân ô uế tạp nhạp, là thân xuất thế gian không bị pháp thế gian làm ô nhiễm; là thân vô lậu đã lìa hẳn tất cả lậu; là thân vô vi đã xa lìa các hữu vi; vượt qua khỏi các số vì các số đã tịch tịnh. Thân Phật như vậy thì làm gì có bệnh!

Bạch Thế Tôn! Nghe ông ta nói như vậy, con thật thấy xấu hổ vô cùng, không lẽ ở gần Phật mà con nghe lầm sao. Ngay lúc ấy, giữa hư không con nghe tiếng nói: “Này A Nan Đà! Đúng như lời nói cư sĩ ấy nói. Chân thật của Thế Tôn thật không có bệnh. Nhưng vì Như Lai hiện ra đời năm trược là vì muốn giáo hóa dìu dắt những hữu tình ác hạnh, khổ não, nghèo cùng mà thị hiện việc như vậy. Hãy đi đi, này A Nan Đà! Hãy đi lấy sữa chớ có hổ thẹn”.

Bạch Thế Tôn! Nghe đại sĩ ấy biện luận như vậy con không biết nói gì cả, nên phải im lặng không trả lời. Cho nên nay con không dám đến thăm bệnh ông ta.

Cứ như vậy, Thế Tôn lần lượt bảo năm trăm vị Thanh Văn đại đệ tử: “Ông hãy đến thăm bệnh Vô Cấu Xứng”. Các vị Thanh Văn ấy đều trình bày duyên cớ trước đây của mình cho đức Phật. Vị nào cũng khen ngợi Vô Cấu Xứng và đều từ chối không đủ khả năng đến thăm bệnh ông ta.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567