Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Quyển thứ ba

09/05/201313:48(Xem: 11490)
Quyển thứ ba

Kinh Thuyết Vô Cấu Xứng (6 quyển)

Quyển thứ ba
V- Phẩm thăm bệnh

Việt dịch: Thích nữ Tịnh Nguyên

Nguồn: Hán dịch: Đại Đường, Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang Chứng nghĩa: Tỳ kheo Thích Đỗng Minh, Tỳ kheo Thích Tâm Hạnh.

Khi ấy, đức Phật bảo Diệu Cát Tường:

- Ông hãy đến thăm bệnh Vô Cấu Xứng hỉ!

Diệu Cát Tường thưa:

- Bạch Thế Tôn! Đại cư sĩ ấy khó bề đối đáp lại được, vì ông ấy thể nhập sâu vào pháp môn, có khả năng hiện thuyết khéo léo, trụ vào biện tài vi diệu, trí huệ vô ngại, đã hoàn thành những sự nghiệp của tất cả Bồ tát, tùy ý nhập vào chỗ bí mật của chư Như Lai và các Đại Bồ tát, thâu phục chúng ma, phương tiện thiện xảo vô ngại, đã đạt đến chỗ tối thắng không hai không xen tạp, sở hành về pháp giới đã rốt ráo đến bờ bên kia, với một tướng, ông ta có thể trang nghiêm cả pháp giới, giảng pháp môn vô biên tướng trang nghiêm, thấu rõ căn hạnh của tất cả hữu tình, có thể du hí các thần thông tối thắng, đạt đến chỗ đại trí huệ phương tiện thiện xảo, đã giải quyết được tất cả những vấn đáp một cách tự tại không sợ, những lời nói thấp hèn sắc bén không thể chống cự nổi. Tuy vậy, con sẽ nương oai thần của Phật đến thăm bệnh ông ta. Đến đó, con sẽ tùy theo năng lực của con để đàm luận với ông ta.

Thế rồi, trong chúng có các Bồ tát và đại đệ tử Thanh văn, Thích, Phạm, hộ đời, chư thiên... đều nghĩ rằng: “ Hai vị Bồ tát này đều là người có thắng giải quãng đại sâu xa. Nếu cùng nhau bàn luận quyết định là nói giáo pháp vi diệu. Vì nghe pháp, chúng ta cũng sẽ đốc suất nhau đi theo đến đó”.

Bấy gờ, trong chúng có tám ngàn vị Bồ tát, năm trăm vị Thanh văn, vô lượng trăm ngàn Thích, Phạm, chư thiên hộ đời... vì nghe pháp nên xin đi theo. Thế rồi, Diệu Cát Tường cùng các Bồ tát, đại đệ tử Thanh văn, Thích, Phạm, chư thiên hộ đời cung kính đảnh lễ Thế Tôn rồi cùng nhau ra khỏi rừng Yêm La đến thành Quảng Nghiêm để thăm bệnh ông Vô Cấu Xứng. Lúc ấy Vô Cấu Xứng nghĩ rằng: “ Ta nên dùng thần lực của mình biến thành nhà trống, không còn những giường chiếu, ghế ngồi, của cải, vật dụng và những người giả... Chỉ để lại một chiếc giường hiện đang nằm bệnh”. Sau khi nghĩ như vậy, Vô Cấu Xứng liền dùng sức đại thần thông làm cho nhà mình trống không, không còn vật gì cả chỉ để lại một chiếc giường hiện đang nằm bệnh mà thôi.

Bấy giờ, Diệu Cát Tường cùng đại chúng vào nhà ông ta, nhưng thấy nhà trống không, không có những vật dụng cả người thị giả nữa, chỉ có một chiếc giường Vô Cấu Xứng nằm thôi. Thấy Diệu Cát Tường, Vô Cấu Xứng vui mừng chào : “Lại đây, tướng không đến mà đến, tướng không thấy mà thấy, tướng không nghe mà nghe”.

Diệu Cát Tường nói:

- Đúng rồi, cư sĩ! Nếu đã đến tức là không còn đến, đã đi tức là không còn đi. Vì sao? Đã đến chẳng phải từ đâu đến, đã đi chẳng phải từ chỗ đi. Đã thấy tức là không còn thấy, đã nghe tức là không còn nghe. Thôi hãy gát việc đó qua một bên. Cư sĩ! Bệnh ấy có chịu nổi không? Mạng sống có thể cứu được không? Giới có điều hòa không? Bệnh có thể trị liệu được không? Có thể làm cho bệnh ấy đừng tăng nữa được không? Thế Tôn ân cần gởi lời thăm ông. Cư sĩ! Bệnh này có thuyên giảm chút nào không? Đi đứng khí lực có được khỏe không? Nguồn gốc của bệnh này do đâu mà có? Bệnh đã bao lâu rồi? Phải làm sao cho hết bệnh?

Vô Cấu Xứng nói:

- Vô minh hữu ái của các hữu tình sanh ra đã lâu rồi, bệnh này của tôi sanh ra cũng như vậy. Lâu xa trước khi sanh tử đến nay. Vì hữu tình bệnh nên tôi cũng bệnh. Nếu hữu tình hết bệnh thì tôi cũng hết bệnh. Vì sao? Vì tất cả Bồ tát theo các hữu tình trôi mãi dòng sanh tử, do theo vào sanh tử thì có bệnh. Nếu các hữu tình lìa được bệnh khổ thì các Bồ tát không còn bệnh. Ví như cư sĩ trưởng giả ở thế gian chỉ có một người con duy nhất nên rất yêu thương, cưng chìu không muốn xa nó. Nếu đứa con bệnh thì cha mẹ cũng bệnh, còn như con lành bệnh thì cha mẹ cũng hết bệnh. Cũng vậy, Bồ tát thương các hữu tình giống như con một. Nếu hữu tình bệnh thì Bồ tát cũng bệnh, hữu tình hết bệnh thì Bồ tát hết bệnh. Ngài lại hỏi bệnh ấy từ đâu mà có ư? Bồ tát có bệnh là do lòng đại bi sanh ra.

Diệu Cát Tường hỏi:

- Vì sao nhà này hoàn toàn trống không, lại không có người hầu?

Vô Cấu Xứng nói:

- Tất cả cõi Phật đều không.

Diệu Cát Tường hỏi:

- Lấy gì làm không?

Vô Cấu Xứng trả lời:

- Lấy không làm không.

Hỏi:

- Không này vì sao lại không?

Đáp:

- Vì không này không phân biệt nên không.

Hỏi:

- Tánh không có thể phân biệt được sao?

Đáp:

- Nó có thể phân biệt nhưng cũng đều không. Vì sao? Vì tánh không không thể phân biệt nên là không.

Hỏi:

- Không này phải tìm ở đâu?

Đáp:

- Tìm trong sáu mươi hai kiến.

Hỏi:

- Sáu mươi hai kiến này nên tìm ở đâu?

Đáp:

- Tìm trong các pháp giải thoát của chư Phật.

Hỏi:

- Pháp giải thoát của chư Phật phải tìm ở đâu?

Đáp:

- Tìm trong tâm hành của tất cả hữu tình. Ngài lại hỏi vì sao không có thị giả ư? Tất cả ma oán và các ngoại đạo đều là thị giả của tôi cả. Vì sao? Vì tất cả ma oán vui thích sanh tử, tất cả ngoại đạo thì ham thích các kiến. Với những thứ ấy, Bồ tát đều nhàm chán xa lìa. Cho nên oán ma và ngoại đạo là thị giả của tôi.

Diệu Cát Tường hỏi:

- Cư sĩ! Bệnh này tướng như thế nào?

Đáp:

- Bệnh của tôi hoàn toàn không có sắc tướng, cũng không thể thấy.

Hỏi:

- Bệnh này tương ưng với thân hay tương ưng với tâm?

Đáp:

- Bệnh của tôi chẳng tương ưng với thân vì lìa tướng thân; cũng tương ưng với thân vì như ảnh tượng. Chẳng tương ưng với tâm vì lìa tướng tâm, cũng tương ưng với tâm vì như huyễn hóa.

Hỏi:

- Địa, thủy, hỏa, phong giới, trong bốn giới này bệnh thuộc vào giới nào?

Đáp:

- Thân của các hữu tình đều do bốn đại mà có. Vì chúng có bệnh nên tôi bệnh. Nhưng bệnh này chẳng phải do bốn đại ấy sanh vì lìa tánh của giới.

Diệu Cát Tường hỏi:

- Bồ tát an ủi Bồ tát bị bệnh như thế nào để họ được vui vẻ.

Vô Cấu Xứng trả lời:

- Chỉ bảo thân vô thường nhưng khuyên không nhàm chán thân; chỉ bảo thân có khổ mà không khuyên thích Niết bàn. Chỉ bảo thân là vô ngã nhưng khuyên làm thành thục hữu tình, chỉ bảo thân là không tịch nhưng không khuyên tu rốt ráo tịch diệt, chỉ bảo sám hối tội trước nhưng không nói tội có thay đổi; khuyên lấy bệnh của mình mà thương các hữu tình để trừ bệnh cho họ; khuyên phải nhớ đến tội khổ lúc trước đã chịu mà làm lợi ích hữu tình; khuyên phải nhớ vô lượng gốc lành đã tu để tu mạng thanh tịnh; khuyên đừng sợ hãi mà phải tinh tấn dõng mãnh, khuyên phát nguyện rộng lớn mà làm đại y vương trị liệu các bệnh thân tâm của các hữu tình để vĩnh viễn được tịch diệt. Bồ tát nên an ủi Bồ tát bị bệnh như vậy để họ được vui vẻ.

Diệu Cát Tường hỏi:

- Bồ tát trị bệnh phải điều phục tâm như thế nào?

Vô Cấu Xứng nói:

- Bồ tát bị bệnh nên nghĩ như vầy: “ Bệnh này của ta đều do phiền não, điên đảo vọng tưởng hư dối từ đời trước mà sanh ra. Trong thân hoàn toàn không có một pháp nào chân thật cả, vậy ai có thể chịu bệnh đó. Vì sao? Vì do bốn đại hòa hợp lại giả gọi là thân - Trong các đại không có chủ, thân cũng không có ngã. Nếu bệnh này do chấp ngã sanh ra thì không nên vọng sanh chấp ngã. Nên hiểu rõ rằng chấp ngã này là nguồn gốc đưa đến bệnh. Vì vậy nên trừ diệt tất cả ý tưởng về ngã mà an trụ vào ý tưởng pháp. Nên nghĩ rằng: Do các pháp hòa hợp lại mà thành ra thân này, sanh diệt xoay vần, vậy sanh chỉ do pháp sanh, diệt chỉ do pháp diệt. Như vậy các pháp xoay vần liên tục nhưng chúng không biết lẫn nhau lại không nhớ nghĩ đến. Khi sanh không nói là ta sanh, đến khi diệt không nói là ta diệt. Bồ tát có bệnh nên biết đúng đắn pháp tưởng như vậy. Pháp tưởng này của ta là điên đảo. Hễ có pháp tưởng là có đại hoạn, ta nên trừ bỏ chúng, cũng cần phải diệt trừ tất cả đại hoạn của hữu tình. Làm thế nào để trừ đại hoạn ấy? Nghĩa là phải trừ bỏ chấp ngã và ngã sở. Làm thế nào để trừ bỏ chấp ngã và ngã sở? Là lìa bỏ hai pháp. Làm sao lìa hai pháp? Là với pháp trong và pháp ngoài hoàn toàn không hành. Làm thế nào để không hành hai pháp? Là quán bình đẳng, không động, không chuyển, không có đối tượng để quan sát. Bình đẳng thế nào? Nghĩa là ngã và Niết bàn cả hai đều bình đẳng. Vì sao? Vì tánh của hai pháp là không. Hai pháp ấy đã không có vậy lấy cái gì làm không? Chỉ dùng danh tự giả gọi là không. Hai pháp ấy không thật, đã thấy bình đẳng thì không còn bệnh gì nữa cả, chỉ có cái bệnh không, nên quán bệnh không ấy cũng là không. Vì sao? Vì bệnh không ấy hoàn toàn là không. Bồ tát có bệnh đem cái không có sự thọ mà thọ các thọ. Nếu đối với Phật pháp mà chưa được viên mãn thì không nên diệt thọ để có sở chứng, phải lìa hai pháp năng thọ và sở thọ. Nếu khổ chạm vào thân thì nên thương tất cả hữu tình trong đường nguy hiểm mà phát lòng đại bi diệt trừ các khổ cho họ. Bồ tát có bệnh nên nghĩ như vầy: “ Đã diệt trừ bệnh của mình thì cũng nên trừ bỏ các bệnh của hữu tình. Khi diệt trừ bệnh của mình và người như vậy, thì không có một pháp nhỏ nào mà có thể trừ diệt. Nên quán sát đúng đắn rằng bệnh do nhân duyên sanh hãy mau diệt trừ vì họ mà nói chánh pháp. Sao gọi là bệnh do nhân duyên sanh?. Nghĩa là duyên suy nghĩ, các hữu duyên suy nghĩ đều là nhân của bệnh. Hễ ai có duyên suy nghĩ thì đều có bệnh. Duyên suy nghĩ vào đâu? Duyên vào ba cõi. Làm sao biết duyên suy nghĩ như vậy? Nghĩa là thông đạt rõ ràng đúng đắn hữu duyên suy nghĩ này hoàn toàn vô sở đắc. Nếu Vô sở đắc thì không duyên suy nghĩ, làm thế nào để chấm dứt duyên suy nghĩ, nghĩa là không duyên vào nhị kiến. Thế nào là nhị kiến? Là nội kiến và ngoại kiến. Nếu không có hai kiến này thì vô sở đắc. Đã vô sở đắc thì duyên suy nghĩ hoàn toàn chấm dứt. Vì duyên suy nghĩ hoàn toàn chấm dứt nên không có bệnh. Nếu mình không có bệnh thì đoạn diệt bệnh của hữu tình.

Thưa ngài Diệu Cát Tường! Bồ tát có bệnh nên điều phục tâm như vầy: Chỉ có Bồ đề của Bồ tát mới có thể đoạn trừ tất cả khổ già bệnh chết. Nếu tự mình không siêng năng tu hành như vậy tức là bị vứt bỏ uổng phí. Vì sao? Vì như người chiến thắng quân địch thì mới gọi là người dõng tướng. Cũng vậy nếu đoạn dứt hẳn khổ già bệnh chết thì mới gọi là Bồ tát.

Thưa ngài Diệu Cát Tường! Bồ tát bệnh nên tự mình quán sát; nếu bệnh này của ta chẳng phải thật chẳng phải có thì tất cả bệnh của các hữu tình cũng chẳng phải thật chẳng phải có. Khi quán như vậy không nên lấy ái kiến mà buộc tâm mình vào các hữu tình để phát sanh lòng đại bi, mà cần phải đoạn trừ khách trần phiền não để phát sanh lòng đại bi với các hữu tình. Vì sao? Vì nếu Bồ tát đem ái kiến buộc tâm mình, phát sanh lòng đại bi với các hữu tình thì tức là nhàm chán sanh tử. Nếu đoạn trừ khách trần phiền não, phát sanh lòng đại bi với các hữu tình tức là không nhàm chán sanh tử. Vì các hữu tình mà Bồ tát ở trong sanh tử không nhàm chán, không bị ái kiến trói buộc tâm mình. Vì không bị ái kiến trói buộc tâm nên ở trong sanh tử không bị trói buộc. Vì không bị trói buộc trong sanh tử nên được giải thoát. Vì ở trong sanh tử được giải thoát nên có năng lực giảng nói pháp vi diệu khiến cho các hữu tình xa lìa sự trói buộc mà chứng đắc giải thoát. Đức Thế Tôn căn cứ vào mật ý này mà nói. Nếu bản thân mình bị trói buộc mà cởi tháo trói buộc cho người thì không có vấn đề ấy xảy ra. Còn như bản thân mình đã tháo gỡ sự trói buộc có thể tháo gỡ trói buộc cho người thì việc này có xảy ra. Cho nên Bồ tát cần cầu giải thoát xa lìa các sự trói buộc.

Thưa ngài Diệu Cát Tường! Sao gọi là Bồ tát bị trói buộc? Sao gọi là Bồ tát được giải thoát? Nếu các Bồ tát đắm trước vào những sự tu về tịnh lự giải thoát, đẳng trì, đẳng chí thì gọi là Bồ tát bị trói buộc. Nếu các Bồ tát dùng phương tiện thiện xảo giúp đỡ các hữu tình nhưng không tham trước đó là Bồ tát được giải thoát. Nếu không có phương tiện thiện xảo thâu nhiếp diệu huệ thì gọi là trói buộc. Nếu có phương tiện thiện xảo thâu nhiếp diệu huệ thì gọi là giải thoát. Vì sao Bồ tát không có phương tiện thiện xảo thâu nhiếp diệu huệ gọi là trói buộc? Nghĩa là Bồ tát lấy pháp không - vô tướng - vô nguyện để tự điều phục mình, không dùng tướng tốt trang sức thân mình, trang nghiêm cõi Phật làm thành thục chúng sanh. Bồ tát này không có phương tiện thiện xảo thâu nhiếp diệu huệ nên gọi là trói buộc. Vì sao Bồ tát có phương tiện thiện xảo thâu nhiếp diệu huệ gọi là giải thoát? Nghĩa là Bồ tát lấy pháp không - vô tướng - vô nguyện để điều phục tâm mình, quán sát các pháp hữu tướng vô tướng tu tập để chứng đắc, lại dùng tướng tốt trang sức thân mình, trang nghiêm cõi Phật, làm thành thục chúng sanh. Các Bồ tát này có phương tiện thiện xảo thâu nhiếp diệu huệ gọi là giải thoát. Vì sao Bồ tát không có phương tiện thiện xảo thâu nhiếp diệu huệ gọi là trói buộc? Nghĩa là Bồ tát an trụ vào các kiến, tất cả phiền não trói buộc tùy miên, tu các gốc lành, nhưng không hồi hướng lên Chánh Đẳng Bồ đề lại chấp trước sâu chặt vào đó. Bồ tát này không có phương tiện thiện xảo thâu nhiếp diệu huệ gọi là trói buộc. Vì sao Bồ tát có phương tiện thiện xảo thâu nhiếp diệu huệ gọi là giải thoát? Nghĩa là các Bồ tát xa lìa các kiến, tất cả phiền não trói buộc tùy miên, tu các gốc lành hồi hướng lên Chánh Đẳng Bồ đề mà không có chấp trước. Bồ tát này có phương tiện thiện xảo thâu nhiếp diệu huệ gọi là giải thoát.

Thưa ngài Diệu Cát Tường! Bồ tát có bệnh nên quán các pháp, thân và bệnh đều là vô thường, khổ, không, vô ngã đó gọi là huệ. Mặc dầu thân có bệnh nhưng thường ở trong sanh tử làm lợi ích cho hữu tình mà không hề mệt mỏi, đó gọi là phương tiện. Lại quán thân tâm và các bệnh xoay vần nương vào nhau lưu chuyển mãi không có đầu mối, sanh diệt không gián đoạn, chẳng phải mới, chẳng phải cũ, đó gọi là huệ. Không mong cầu thân, tâm và các bệnh hòa toàn tịch diệt, đó gọi là phương tiện.

Thưa ngài Diệu Cát Tường! Bồ tát có bệnh nên điều phục tâm mình như vầy: Không nên an trụ vào tâm điều phục hay không điều phục. Vì sao? Vì nếu trụ vào tâm không điều phục thì đó là pháp của phàm phu. Nếu trụ vào tâm điều phục thì đó là pháp của Thanh văn. Cho nên Bồ tát không an trụ vào hai biên này, đó gọi là Sở hành của Bồ tát. Nếu ở chỗ ấy, chẳng phải sở hành của phàm phu, chẳng phải sở hành của bậc Thánh thì gọi là sở hành của Bồ tát. Nếu ở chỗ quán sát sở hành sanh tử mà không có sở hành của tất cả phiền não, thì gọi là sở hành của Bồ tát. Nếu ở chỗ quán sát sở hành Niết bàn mà không có sở hành tịch diệt rốt ráo thì gọi là sở hành của Bồ tát. Nếu ở chỗ thị hiện sở hành bốn ma nhưngvượt qua sở hành của tất cả ma sự, thì gọi là sở hành của Bồ tát. Nếu cầu sở hành trí Nhất thiết trí mà không có sở hành của phi thời chứng trí, thì gọi là sở hành của Bồ tát. Nếu cầu sở hành trí Tứ đế diệu mà không có sở hành phi thời chứng đế thì gọi là sở hành của Bồ tát. Nếu quán sát đúng đắn về sở hành nội chứng nên bao gồm sở hành sanh tử, thì gọi là sở hành của Bồ tát. Nếu hành sở hành của tất cả duyên khởi là có thể xa lìa sở hành kiến thú thì gọi là sở hành của Bồ tát. Nếu hành sở hành tất cả hữu tình và các pháp lìa nhau mà không có sở hành phiền não tùy miên thì gọi là sở hành của Bồ tát. Nếu quán sát đúng đắn sở hành vô sanh mà không rơi vào sở hành chánh tánh của Thanh văn thì gọi là sở hành của Bồ tát. Nếu bao gồm tất cả sở hành của hữu tình mà không có sở hành phiền não tùy miên thì gọi là sở hành của Bồ tát. Nếu thật sự ưa thích sở hành viễn ly mà không cầu sở hành thân tâm tận diệt thì đó là sở hành của Bồ tát. Nếu thích quán sát sở hành ba cõi mà không hoại sở hành pháp giới, thì gọi là sở hành của Bồ tát. Nếu sở hành thích quán sát tánh không mà sở hành cầu tất cả công đức thì gọi là sở hành của Bồ tát. Nếu sở hành thích quán sát vô tướng mà sở hành cầu độ thoát hữu tình thì gọi là sở hành của Bồ tát. Nếu sở hành thích quán sát vô nguyện mà sở hành thị hiện hữu thú thì gọi là sở hành của Bồ tát. Nếu sở hành thích qua lại vô tác mà sở hành thường tạo tất cả căn lành không thay đổi đó là sở hành của Bồ tát. Nếu sở hành thích qua lại lục độ nhưng sở hành không hướng đến diệu trí bờ bên kia của tâm hành hữu tình, đó gọi là sở hành của Bồ tát. Nếu sở hành thích quán sát bốn vô lượng từ bi hỷ xả mà sở hành không cầu sanh vào cõi Phạm Thiên đó là sở hành của Bồ tát. Nếu sở hành thích qua lại sáu thần thông mà sở hành không hướng đến chứng lậu tận thì gọi là sở hành của Bồ tát. Nếu sở hành thích kiến lập các pháp mà sở hành không phan duyên theo tà đạo, thì gọi là sở hành của Bồ tát. Nếu sở hành thích quán sát sáu niệm mà sở hành không theo đó sanh ra các lậu, gọi là sở hành của Bồ tát. Nếu sở hành thích quán sát phi chướng mà sở hành không mong cầu tạp nhiễm, đó là sở hành của Bồ tát. Nếu sở hành thích quán sát các định tịnh lự, giải thoát, đẳng trì, đẳng chí mà sở hành không theo thế lực của các định để đến thọ sanh, đó là sở hành của Bồ tát. Nếu sở hành thích qua lại niệm trụ mà sở hành không mong cầu xa lìa thân - thọ - tâm - pháp, đó là sở hành của Bồ tát. Nếu sở hành thích qua lại chánh đoạn mà không thấy hai pháp thiện và bất thiện, đó gọi là sở hành của Bồ tát. Nếu sở hành thích qua lại thần túc mà sở hành của thần túc biến hóa tự tại không có công dụng đó gọi là sở hành của Bồ tát. Nếu sở hành thích qua lại năm căn mà sở hành với diệu trí không phân biệt các căn thắng liệt của tất cả hữu tình, đó gọi là sở hành của Bồ tát. Nếu sở hành thích an trụ vào năm lực mà sở hành cầu mười lực của Như Lai thì gọi là sở hành của Bồ tát. Nếu sở hành thích an trụ vào sự viên mãn của bảy đẳng giác chi mà sở hành không cầu sự sai biệt diệu trí thiện xảo của Phật pháp đó gọi là sở hành của Bồ tát. Nếu sở hành thích an trụ vào sự viên mãn của Bát Thánh đạo mà sở hành không nhàm chán bọn tà đạo, đó là sở hành của Bồ tát. Nếu sở hành cầu tư lương chỉ - quán mà sở hành không rơi vào tịch diệt rốt ráo, đó gọi là sở hành của Bồ tát. Nếu sở hành thích quán sát các pháp không có tướng sanh diệt mà sở hành dùng tướng tốt trang nghiêm thân mình, thành tựu tất cả Phật sự đó gọi là sở hành của Bồ tát. Nếu sở hành thích thị hiện oai nghi của Thanh văn, Độc giác mà sở hành không lìa bỏ duyên suy nghĩ về tất cả Phật pháp đó là sở hành của Bồ tát. Nếu sở hành tùy theo với bản tánh hoàn toàn thanh tịnh, thường tịch diệu định của các pháp mà sở hành tùy theo sự ưa thích oai nghi của tất cả hữu tình, đó là sở hành của Bồ tát. Nếu sở hành thích quán sát tất cả cõi Phật là tánh không tịch, không thành không hoại như hư không mà sở hành thị hiện tất cả công đức trang nghiêm cõi Phật, làm lợi ích cho các hữu tình, đó là sở hành của Bồ tát. Nếu sở hành thích thị hiện tất cả Phật pháp chuyển pháp luân vào đại Niết bàn làm Phật sự mà sở hành tu hành những sự sai biệt của Bồ tát hạnh, gọi là sở hành của Bồ tát.

Khi Vô Cấu Xứng nói tất cả sở hành việc hiếm có của Bồ tát, thì tám ức đồng tử mà Diệu Cát Tường dẫn theo được nghe pháp đều phát tâm lên ngôi Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567