- 1.1 Lời Tự Trần
- 1.2 Lời Tựa Đầu Tiên
- 1.3 Nguyên Tựa Thanh Quy Chứng Nghĩa
- 1.4 Tựa Khắc In Lại Thanh Quy Chứng Nghĩa
- 1.5 Lời Bạt
- 1.6 Thanh Quy Thiền Môn
- 1.7 Tán
- 1.8 Thanh Quy Tòng Lâm Nguyên Nghĩa Của Tổ Bách Trượng
- Quyển 01: Chúc Diên – Chúc Quốc Vương
- Quyển 02: Báo Ân
- Quyển 03: Báo Đáp Nguồn Gốc
- Quyển 04: Ân Đức Tổ Sư
- Quyển 05: Trụ Trì
- Quyển 06: Hai Dãy Đông Tây Lang
- Quyển 07: Đại Chúng - Phần Thượng
- Quyển 07: Đại Chúng - Phần Hạ
- Quyển 08: Tuổi Đạo
- Quyển 09: Những Đồ Pháp Khí, Hiệu Lệnh
Qui tắc phụ tọa chủ; gồm 9 điều
Luận Nội Quy giảng đường để học người, học việc. Riêng về Tọa Chủ cũng phải giữ qui tắc trên hẳn mới có ý nghĩa. Lấy một việc giảng kinh thôi bèn thay Phật tuyên dương pháp, trời người các cõi đều lắng nghe; lý nên tôn kính. A Nan kết tập kinh tạng cầm bút thăng tòa ngồi tỏa tướng tốt như Phật, kết tập kinh, giảng kinh cùng một nghĩa. Tọa chủ bỏ các lỗi thị phi, há vạn nhất chẳng xứng hay sao? Nên nêu lên 9 qui tắc của tọa chủ để tiêu biểu oai nghi, cho sự thành kính:
1. Phải đầy đủ đức từ bi dạy người không mệt mỏi, thuyết pháp bình đẳng không có phân biệt sang hèn; không lựa kẻ oán người thân, không kể sự cúng dường khu biệt.
2. Nên đắp y thanh tịnh sạch trong sạch ngoài. Không được mặc y bẩn thăng tòa, dù trời nóng nực cũng phải đắp y. Kham chịu nhẫn nhục, và không được do ngồi lâu mà bỏ y ra.
3. Lắng lòng soi chiếu quán sát mọi pháp đều không. Phạm hạnh lan xa, trời người chung nhóm, nên xem hình vóc là giả dối. Quán không chẳng không, xem giả chẳng giả nên hình thể ở trung gian. Mượn sự qui lý mới nhập sâu diệu lý.
4. Ngồi phải ngay ngắn trang nghiêm, không được nghiêng mình xoạc cẳng, nói cười thô tháo.
5. Không được để lại phần chánh không giảng mà phần nhiều chỉ nói chi tiết ngoài lề. Nếu muốn phát huy yếu chỉ nên đưa thí dụ chính xác, dù ngôn ngữ thế đế nhưng không trái ngược (chân đế, chân lý) đạo.
6. Phàm giảng kinh nên nêu ra điểm chính làm móc cho người nghe dễ nhận nghĩa lý, song phải quên văn. Muốn vậy cần phải có nội lực công phu. Không hiểu nghĩa mà lược văn khiến người hiểu cạn cợt, mơ hồ, không sáng tỏ.
7. Với quan điểm riêng không nên chấp đúng mà bài bác các ý khác; hoặc cưỡng kinh cho rằng của mình gây lầm lỗi cho người sau. Nếu gặp trường hợp nầy nên nói thẳng là không biết, không nên gượng cho là biết.
8. Không được dẫn dụ sự tích mà lạm bàn thú dâm dục mua vui đem pháp làm trò đùa. Nếu có Ni cô dự nghe phải nên thận trọng.
9. Không nên sợ phiền lánh an, phô diễn sự hiểu việc.
Trở lên là những điều làm sáng tỏ pháp sư hiểu nghĩa kinh để dự phòng trường hợp lỗi lầm. Như tự lượng sức mình không hiểu nghĩa kinh thời pháp tòa này đâu có dễ lên ngồi bày ra cho chơn thiên xem đâu. Nhân quả phân minh mỗi người nên cẩn thận vậy.
Chứng nghĩa ghi rằng, việc thiên thần nghe kinh đã có giải thích ở trước. Ngoài ra, phàm ở tòng lâm bàn kháo, nói thiên địa cũng đều có quỉ thần tới nghe quan sát. Sách Chích Cổ ghi rằng vào đời Tống Quang Hiếu có sư An chùa Thanh Thái không thích làm việc theo chúng. Ban ngày chỉ ngồi không tự nhiên nhập định, trong định bỗng thấy 2 vị tăng dựa lan can nói chuyện, trước có thiên thần ủng hộ lắng nghe, nghe hồi lâu bỏ đi, chốc lát ác quỉ mắng nhiếc, chà đạp dấu chân. An bèn xuất định hỏi thần vì sao? Thần cho hay bởi lúc đầu bàn Phật pháp, kế nói sang việc đời, bàn về tư dưỡng. Sư An nghe hai vị Tăng nói, từ đó khắc phục tôi luyện suốt đời chưa từng đề cập chuyện thế gian. Sau khi Sư viên tịch hỏa thiêu toàn thân cháy hết chỉ lưỡi còn nguyên vẹn mềm mại như cánh sen hồng. Sách Vân Thê Sùng Hành Lục cũng có ghi lại sự tích này. Ôi ! dựa lan can bàn kháo mà thần còn nghe được, huống gì đăng tòa giảng kinh há không thận trọng sao!
Gửi ý kiến của bạn