- 1.1 Lời Tự Trần
- 1.2 Lời Tựa Đầu Tiên
- 1.3 Nguyên Tựa Thanh Quy Chứng Nghĩa
- 1.4 Tựa Khắc In Lại Thanh Quy Chứng Nghĩa
- 1.5 Lời Bạt
- 1.6 Thanh Quy Thiền Môn
- 1.7 Tán
- 1.8 Thanh Quy Tòng Lâm Nguyên Nghĩa Của Tổ Bách Trượng
- Quyển 01: Chúc Diên – Chúc Quốc Vương
- Quyển 02: Báo Ân
- Quyển 03: Báo Đáp Nguồn Gốc
- Quyển 04: Ân Đức Tổ Sư
- Quyển 05: Trụ Trì
- Quyển 06: Hai Dãy Đông Tây Lang
- Quyển 07: Đại Chúng - Phần Thượng
- Quyển 07: Đại Chúng - Phần Hạ
- Quyển 08: Tuổi Đạo
- Quyển 09: Những Đồ Pháp Khí, Hiệu Lệnh
Qui Tắc Thọ Giới
Qui tắc thọ giới gồm có 14 điều Ba đời chư Phật đều có ngày xuất gia, thành đạo; Bồ Tát tu lục độ không bỏ giới châu (trân quí) nên lấy đó nghiêm tịnh luật tắc mới có thể làm mô phạm cho ba cõi. Kinh Lăng Nghiêm ghi rằng, nhiếp tâm là giới, nhân giới sanh định, nhân định phát huệ gọi là 3 môn học vô lậu (không bị phiền não làm khuyết thiếu), bèn thành căn bản của vạn hạnh, chánh nhân thành Phật. Cho nên cầu giới như người đãi vàng (nhặt châu) tâm luôn mến quí, niệm niệm nghĩ đạt cần trì tụng; thúc liễm thân tâm.
Thảng hoặc có phạm nên tự trừng phạt không tha thứ, nhiếp tâm làm mô phạm những điều được liệt nêu như sau:
1- Phép thọ giới phải cầm kinh, luật, 3 y, bình bát, tọa cụ tiến vào giới trường. Nếu không chuẩn bị các thứ mà đi mượn đều không chấp nhận, trừ phi y hậu, đồ vật cũ mà giặt ủi sạch cũng có thể được.
2- Canh 5 nghe 4 hồi bảng lại 3 tiếng nên vén màn thức dậy ngay, sửa lại áo quần chỉnh tề rồi bước xuống giường. Như có bịnh phải báo cáo cho chúng biết. Ban ngày không việc gì làm đừng lười biếng trùm mền, vi phạm bị phạt quỳ hương.
3- Giờ chỉ tịnh (ngủ nghỉ) đều tập trung lên giường, giữ oai nghi tề chỉnh, không được cười giởn, nói chuyện. Vi phạm bị phạt quỳ hương.
4- Lúc học tập để tâm ghi nhớ kỹ. Giờ rỗi phải đọc luật, không được tán dốc, bàn tạp. Phàm luân phiên trực nhựt phải để tâm xem xét, đừng có giao phó ủy thác người khác, vi phạm bị phạt quỳ hương.
5- Chư tăng ra vào, đứng ngồi, chấp tay; thầy cho ngồi mới ngồi.
6- Trên bàn chỉ để Kinh luật, không được để quần áo, đồ đạc lung tung. Lúc uống trà, dùng cơm hẳn gấp kinh lại; trong lúc ăn không được nói chuyện. Không nên khạc nhổ lớn tiếng, vi phạm bị quỳ hương.
7- Giường đặt có hai dãy Đông Tây, đi lại chỗ ngồi giữ chỗ mình, không được loạn đơn người khác; không được đi băng tắt qua nhà và không được nói năng lớn tiếng.
8- Lên giường phải cởi giày, đẩy về phía gần chỗ mình không được chiếm lấn chỗ người khác. Không được cởi đồ lót lúc ngủ, không được nói chuyện với người giường kế bên, và thở mạnh động chúng. Nằm ắt xây hông mặt, thế kiết tường, không được thô tháo. Kéo mở cửa ra vào nên đi nhẹ nhàng, vi phạm bị phạt.
9- Không được giũ mền ra tiếng, gối mền xếp gọn trên giường không để lòng thòng dưới đất; không được chạy vội thô tháo, vi phạm bị phạt quỳ hương.
10- Lên Chánh điện, vào trai đường hay làm mọi Phật sự theo y thứ tự mà làm, không được lẫn lộn trước sau, nên để mắt xem xét kỹ, thân đứng ngay ngắn, vi phạm bị phạt.
11- Có việc riêng ra khỏi chùa trên đường gặp Hòa Thượng hoặc Thầy Yết Ma, Giáo Thọ hay các thầy, cho chí vị Thầy niên trưởng giới đức đều chấp tay lễ bái đứng qua một bên nhường đường cho họ; nếu đồng giới cùng đi cũng phải có oai nghi nghiêm chỉnh, vi phạm bị phạt quỳ hương.
12- Rửa mặt không được làm vung nước tới người bên cạnh. Không được choán chỗ quá lâu, vào nhà phải để ý; đồng giới nên tiếp đón, không nên cải vả ồn ào, vi phạm bi phạt.
13- Bậc thầy lớn tuổi vào chùa nên đứng lên; phải xá liền xá, bảo ngồi mới ngồi.
14- Vì việc riêng tư ra vào phải thưa trình xin phép, ở ngoài không được xông vào phòng làm mất oai nghi, vi phạm bị phạt quỳ hương.
Trở lên là những quy tắc cần nên tuân hành cẩn thận. Như có ai vi phạm bị phạt như qui định trên.
Ngày... tháng… năm… Trụ trì….. sao lục.
Muốn đầy đủ xem 24 thiên oai nghi, Sa Di luật nghi và đại luật Tỳ kheo có nói rõ 3000 oai nghi 5 hạ trở lại nhứt nhứt đều phải học.
Chứng nghĩa ghi kinh nói rằng: giới không thanh tịnh thời thiền định không phát sanh. Lại cũng nói: trí huệ thanh tịnh vô ngại đều do nơi thiền định sanh. Nên biết rằng giới là mầm của định huệ; giới hạnh không thanh tịnh định huệ không do đâu phát sanh. Vì thế, Phật dạy 5 hạ về trước chuyên tinh giới luật; chuyên tính há không từ oai nghi mà có ư? Trong luật ghi rằng việc làm cần yếu số một là luôn luôn nhiếp tâm. Niệm không tán loạn, có nghĩa là thực hành bốn niệm xứ vậy. Sách Phật pháp Tổng quan, Linh Phong Tông luận rằng, không huệ niệm xứ cho dù mặc áo cà sa như phang trên đầu cây thôi; lễ bái như khuấy trên dưới, lục độ, muôn hạnh đều giống ngoại đạo; khổ hạnh cùng chân tu làm chi mà không nhiếp tâm tức chẳng giữ giới. Nếu y theo niệm xứ tu tập công đức giữ giới hiện có thể đạt được 4 quả sa môn (4 Thánh quả), nhẫn đến viên mãn thập địa tự khắc tránh khỏi không gặp nạn. Tại sao? Vì do nhiếp tâm mà dễ đạt vậy. Việc cần yếu thứ hai là trong khi soi sáng 250 giới đặt khai, giá, trì, phạm trong hai thời ngày đêm, hạng có danh trì giới, trái lại phần nhiều pham sai lầm. Như cho rằng Tiểu Thừa nghiêm cấm, Đại Thừa khai mở hay Tỳ kheo có chỗ chấp, Bồ Tát ắt dung thứ từ đâu phát ngôn ra những lời ấy?
- Đáp: Linh Phong Tông luận rằng, khai ấy là mở tâm tự độ của Tiểu Thừa mà phát tâm thệ nguyện Đại Thừa. Dung là dung người chấp pháp chưa cải hóa quy về chân lý sâu rộng. Do vậy Bồ Tát xuất gia không có giới riêng mà cùng dùng chung luật Tỳ Kheo, chỉ phát tâm tự độ gọi là Nhị Thừa, phát tâm độ người gọi là Bồ Tát vậy.
Xưa nay hiểu lầm nên phần nhiều trái luật. Khi đức Thế Tôn nhập Niết Bàn có phó chúc cho chư Tỳ Kheo rằng, nên lấy giới làm thầy. Ngài cũng còn dạy: pháp Ta nếu hoại trước do giới luật, thật là lời nói biết trước vậy. Tại sao lại hiểu lầm sự cởi mở bao dung cũng đồng như hủy báng pháp không khác.
Gửi ý kiến của bạn