- 1.1 Lời Tự Trần
- 1.2 Lời Tựa Đầu Tiên
- 1.3 Nguyên Tựa Thanh Quy Chứng Nghĩa
- 1.4 Tựa Khắc In Lại Thanh Quy Chứng Nghĩa
- 1.5 Lời Bạt
- 1.6 Thanh Quy Thiền Môn
- 1.7 Tán
- 1.8 Thanh Quy Tòng Lâm Nguyên Nghĩa Của Tổ Bách Trượng
- Quyển 01: Chúc Diên – Chúc Quốc Vương
- Quyển 02: Báo Ân
- Quyển 03: Báo Đáp Nguồn Gốc
- Quyển 04: Ân Đức Tổ Sư
- Quyển 05: Trụ Trì
- Quyển 06: Hai Dãy Đông Tây Lang
- Quyển 07: Đại Chúng - Phần Thượng
- Quyển 07: Đại Chúng - Phần Hạ
- Quyển 08: Tuổi Đạo
- Quyển 09: Những Đồ Pháp Khí, Hiệu Lệnh
Dự định công việc giới đàn:
Trước hết nêu 3 đàn: Đàn một, đàn hai và đàn ba.
1.3.4.1 Đàn một
Đàn một 8 việc:
1) dạy bưng bình bát, đắp y,
2) thỉnh cầu xin giới
3) Kiểm tra lại y bát có đủ thiếu
4) Lạy sám hối
5) Hồi tâm
6) Giải thích giới sắp thọ
7) Phát nguyện sẵn sàng
8) Ôn tụng luật Tỳ ni nhựt dụng.
1.3.4.2 Đàn hai
Đàn hai có 13 việc:
1) Truyền Sa Di giới
2) Dạy các oai nghi
3) Phát thẻ
4) Cầu giới
5) Chỉ rõ tên từng món y, bát trao nạp
6) danh thiếp
7) Sám hối
8) Hồi tâm
9) Cúng ngọ
10) Mời thọ trai
11) Giải thích giới
12) Phát nguyện
13) Truyền Tỳ kheo giới.
1.3.4.3 Đàn ba
Đàn ba có 10 việc:
1) Cầu giới
2) Lạy sám hối
3) Hồi tâm
4) Khai thị pháp tu khổ hạnh
5) Đốt liều
6) Thuyết đại giới
7) Phát nguyện
8) Truyền Bồ Tát giới
9) Cấp phát chứng chỉ
10) Hồi hướng.
Tổng cộng 3 đàn gồm có 31 việc. Xem thêm sách “Tam đàn truyền giới chánh phạm” để rõ.
1.3.4.4 Phần tiếp theo phân thành 4 mục.
A- Tòa chính:
1) Đàn thứ nhất: phát lồ sám hối sửa đổi, cầu giới, hồi tâm, giảng ý nghĩa giới
2) Đàn thứ hai: thỉnh cầu giới, trao danh thiếp, hồi tâm, cúng ngọ, mời thọ trai, giảng rộng giới
3) Đàn thứ ba: thỉnh cầu giới hồi tâm, chỉ hạnh tu khổ hạnh, giảng rộng giới. Nêu chung gồm có 16 việc... Ni phát lồ riêng, giảng bát kỉnh pháp và khai thị riêng. 5 giới tại gia riêng, Bồ Tát tại gia 6 giới trọng và 28 giới khinh nói riêng (xem thêm Tam Đàn thọ giới).
B- Phụ tòa:
1) Đàn thứ nhất: phát lồ, cầu thỉnh giới, sám hối, hồi tâm, giảng rộng giới
2) Đàn thứ nhì: cầu giới tỳ kheo, trao danh thiếp, sám hối; hồi tâm, giảng rộng giới.
3) Đàn thứ ba: Cầu giới Bồ Tát, sám hối, hồi tâm, giảng rộng giới; 3 đàn gồm chung có 14 điều. Ni phát lồ riêng 3 đàn riêng, sám hối, vấn già nạn riêng. Xem thêm phần phụ ba đàn giới.
C- Bật tòa:
1) Đàn thứ nhất: dạy bưng bình bát, phần đầu lễ nghi cần phải thuộc rành việc cầu giới, kiểm tra y bát, thuyết giới, truyền giới; ôn tập luật Tỳ ni, phát thẻ
2) Đàn thứ nhì: cầu giới Tỳ Kheo, chỉ rõ y bát danh tướng, trao danh thiếp, cúng ngọ, mời thọ trai, giảng rộng giới, xướng lạy lễ truyền Tỳ Kheo giới
3) Đàn thứ ba: cầu giới, nói qua về tích trượng, cách thức xướng kệ tụng kinh, hạ đàn, truyền trượng, truyền Bồ Tát giới, cấp chứng chỉ; gồm tất cả 19 điều. Ni chúng dạy riêng, cách bưng bình bát, phạm lỗi luật lệ riêng, giới bổn của Ni riêng, Bồ Tát riêng, cấp chứng chỉ riêng. Trong giới đàn có việc gì phải thưa bạch, phổ đồng cúng dường tiền bạc, bàn thảo giới luật. Bản văn cung cấp 2 bên, thẻ thập sư, lập chứng chỉ, vị trí thiết bàn Phật v.v... đều cần ghé mắt lưu tâm xem qua một lượt 3 đàn các việc.
D- Dẫn lễ:
Ban dẫn lễ có 5 phần việc:
1) Khai đường
2) Bồi đường
3) Đại tác pháp
4) Nhị tác pháp
5) Trở xuống đều gọi dẫn tán khai đường.
Dẫn lễ là người hướng dẫn tân giới tử các phần lễ nghi, trước sắp xếp các vị đồng liêu đến phòng thầy Giáo thọ, lễ thầy Duy Na thỉnh chỉ dạy nghi lễ. Những việc như đứng vào thứ tự (bài ban), đứng ngay thẳng (trạm ban), xuất ban, bái (lạy), chấp tay ngang sống mũi, đứng thẳng hàng, bước tới (tường lộ), quỳ gối, đứng lên, tiến tới, phân đứng hai bên, ra khỏi đường, hồi đường, đứng nghiêm, ngồi thẳng, xoa tay, quán tâm, cầm đũa, bưng chén, đặt đũa xuống, để chén xuống, dùng cháo không gây ra tiếng, che miệng khạc nhổ, lấy tăm xỉa răng xong; lạy Phật, tụng kinh, mặc áo, đi đại tiện, tiểu giải; cách xưng pháp danh, đáp tôn hiệu thầy, chắp tay đáp lễ, đứng cung kính nhường lối, trả lời A Di Đà Phật, đi lễ thập phương, hô chuông chỉ tịnh, nhịp bảng chỉ tịnh, dẫn khánh, gõ mõ nhỏ, chắp tay xá, đắp y, xếp y, mở sách, xếp cụ, nhứt cụ tức tùy cụ đem theo mình trải mở tọa cụ, cất tọa cụ, ứng dụng bình bát, phương pháp niêm hương, nghi thức cắm nhang, nhiều người lễ vòng tròn. Phép nhập liêu phòng, giọng điệu lời thỉnh, âm điệu lời bạch, đáp được đội đầu, đặc biệt thọ nhận đáp: y giáo phụng hành, lễ một lạy rồi đứng lên, lễ một lễ thu tọa cụ, sắp ly ra, thu ly lại... cho chí luân vòng trong ngày trị nhựt, những việc coi sóc v.v... nhất nhất phải ở trước thầy Duy Na tập dượt. Tập nhuần nhuyễn đến lúc vào đàn dạy các tân giới tử.
Lại Dẫn lễ, dẫn khánh đi trước chậm rãi đúng lễ: niệm, dừng, đi, đứng… phải chỉnh tề. Phàm vị dẫn khánh không quá chậm, nhanh mà giữ mực trung. Hòa Thượng lạy, 2 thầy Yết Ma, Giáo thọ lạy, đại chúng cùng lạy, dẫn lễ lạy, tân giới tử lạy, nhịp khánh đều như nhau. Lạy thứ nhất, thứ nhì… đều nhịp khánh lễ một lạy; nhịp kế đứng lên. Lạy thứ ba lúc đứng lên nhịp khánh hai nhịp; xá lui nhịp bốn nhịp. Xá hòa huởn nhịp khánh cũng chậm lại, xá gấp khánh cũng nhịp nhanh. Lời xướng thỉnh nên hòa huởn khoan thai, đến câu dứt xong nhịp bốn tiếng. Cầu xin thương xót (từ mẫn cố) dẫn khánh nhặt ở đuôi; trước chậm rãi, sau nhặt dần, nhịp chừng độ 9,10 lần.
Phàm người thủ khánh phải để ý nhịp đều như rước tới - lui phải nhịp đúng cách. Tới chỗ làm lễ chuyển thân , hai người đều hướng lên Xá Phật nhịp 4 tiếng khánh. Đi trên đường (dẫn tới lễ đài) hai người thay phiên nhịp khánh, tiếng lại tiếp tục đến nơi hành lễ không xá. Nhịp 4 tiến thầy khởi thân; nhịp tiếng một rước thỉnh đến nơi làm lễ. Trở về vị trí không xá nhịp 4 tiếng rồi lui ra.
Nói tóm lại, phần rước trên đường đi tới liêu thầy không nhịp khánh. Trước tiên vào lễ Phật, kế lễ thầy bạch xong mới dẫn khánh bước ra tới điểm hành lễ.
Duy Na xướng lễ Phật, lễ sư dứt ba hồi khánh xong; rồi chấp tay đi đến giảng đường lui về chỗ ngồi. Đi tuần liêu theo đúng pháp mỗi một bước nhịp một tiếng khánh; hiệu lệnh hai hồi khánh; giống nghinh thỉnh rước đi.
Phàm lạy Phật đầu phải chấm sát đất, khánh dẫn đầu đảnh lễ trước; sau gõ mõ nhỏ cũng giống như đây. Việc dẫn lễ tại đàn giới, giảng đường không dùng khánh, tới cửa địa điểm chính các tân giới tử vào bên trong xong. Lạy Phật, đứng lên ra hiệu lệnh xong dấu khánh nơi tay áo.
Phàm nâng bát, cầm luật, nâng y, bưng đứng ngay hàng, nhịp khánh hai hồi tức là đi ra khỏi nhà không cần gõ cũng không hiệu lệnh. Nếu rước về nên thủ khánh sẵn trong tay, lại đứng theo hàng ngũ rồi thỉnh đi. Giờ chỉ tịnh lạy Phật 3 lạy, mỗi lạy một tiếng khánh, hiệu lệnh, một hồi khánh: tiểu tham hai hồi, khai đại tham 3 hồi. Giảng kinh luật, lên chánh điện, tiểu tham v.v… sau khi tán hương xong đứng xoay mặt vào nhau nhịp 3 tiếng khánh; nên nhịp hòa hưởn 3 hồi xong mới khải bạch. Phàm thỉnh Thánh, cúng Phật, cúng chư thiên v.v… đều đặn mỗi chữ nhịp một tiếng khánh. Lên chánh điện, đi quá đường, trên đường đi không gõ khánh. Làm Phật sự, ra khỏi chùa, về chùa, đi có trật tự, trừ trên đường thỉnh rước, đều không dùng khánh. Nơi giảng đường ban hô chung tiếng phải hòa huởn cao rõ, để tiếng hô dội sang hai bên tả hữu. Nếu hướng miệng phía bên tả nhưng bên tả hô trước chúng đã dậy không hô nữa. Phàm tập trung nơi giảng đường, Phật điện, trai đường, phòng Phương Trượng không phải lễ lạy, nếu phải lễ lạy chỉ Dẫn lễ lạy thôi. Khi sám hối cùng sơ đàn, 3 đàn thuyết pháp, người dẫn lễ trước đến lễ Phật. Tân giới tử tập trung trước giảng đường không phải lạy Phật Khai đường, dẫn lễ tùy theo đó quyền biến. Phật sự lễ nghi giới đàn: phải rành rẽ, trước bạch lên tam sư quyết định thời gian, kế đến cho các liêu biết và sau dạy luật như pháp cho tân giới tử. Người dẫn lễ bồi đường lãnh chúng vào chánh điện, trai đường, ngủ, thức. Phàm lo Phật sự tại giới đàn, nói chung khai đường, làm chủ hoặc có điểm nào chưa thỏa đáng, hòa nhã bàn nhau trong chúng. Chúng có điều gì bất hòa khéo dùng lời lẽ khuyên nhắc nhẹ nhàng.
Gửi ý kiến của bạn