- 1.1 Lời Tự Trần
- 1.2 Lời Tựa Đầu Tiên
- 1.3 Nguyên Tựa Thanh Quy Chứng Nghĩa
- 1.4 Tựa Khắc In Lại Thanh Quy Chứng Nghĩa
- 1.5 Lời Bạt
- 1.6 Thanh Quy Thiền Môn
- 1.7 Tán
- 1.8 Thanh Quy Tòng Lâm Nguyên Nghĩa Của Tổ Bách Trượng
- Quyển 01: Chúc Diên – Chúc Quốc Vương
- Quyển 02: Báo Ân
- Quyển 03: Báo Đáp Nguồn Gốc
- Quyển 04: Ân Đức Tổ Sư
- Quyển 05: Trụ Trì
- Quyển 06: Hai Dãy Đông Tây Lang
- Quyển 07: Đại Chúng - Phần Thượng
- Quyển 07: Đại Chúng - Phần Hạ
- Quyển 08: Tuổi Đạo
- Quyển 09: Những Đồ Pháp Khí, Hiệu Lệnh
Nhà Đông
Đô Giám cũng gọi là Đô tự, từ này thời xưa không có; về sau do tòng lâm đông người nhiều việc nên mới đặt thêm chức đó. Trên là giúp Trụ Trì, dưới là phụ tá Giám viện, tuy công việc không vất vả cực nhọc như Giám viện, nhưng đại bộ là phải trông coi tổng quát, vì thế cũng gọi tên khác là tổng lý. Nơi Phật điện đứng cuối phía đông, quỳ kế Duy Na bên tay trái; đi sau Giám viện; tại trai đường ngồi trên Giám viện. Ở chúng thường trụ trên 10 năm đãi lao cho Giám viện mới được cử sung phần vụ này; đó cũng như thưởng công lao an ủi, ngang hàng với Thủ tọa lo việc bên ngoài.
Chứng nghĩa xem phần sau:
Giám viện là quản nhiệm khu nhà Đông như cánh tay mặt của Trụ Trì làm những việc tổng quát như vun bón ruộng vườn (bồi dưỡng nhân tài), thu hoa lợi, nộp thuế, thu chi tiền gạo, tính toán sổ sách, lo việc cơm cháo hết còn cho chúng, tiếp đãi thí chủ…hết thảy đó đều là công việc của Đô giám vậy.
Nhưng phàm công việc gì hẳn phải nhóm họp, thưa vị Trụ Trì thỏa thuận ý kiến trước mới làm. Không được tự ý quyết định, khuyến khích người làm công tác, không tự tung tự tác ra oai, sắp xếp kho lẫm, công tác ắt phải công bình. Không theo vây cánh riêng, nói chung hẳn phải có đủ 5 đức mới có thể đảm trách chức vụ này:
1- Từ bi ban bố cho đại chúng
2- Công bằng trong công việc hoàn toàn không thiên vị
3- Cẩn thận việc lớn việc nhỏ không màng
4- Nỗ lực làm việc không chuộng an nhàn
5- Nhạy bén làm việc không để lại khó khăn cho người khác.
Như thế Giám Viện là người được cậy nhờ vả; trái lại là tổn hại cần phải biết. Vai trò của vị này như sau: nơi chánh điện đứng ở cuối phía Tây, và quỳ sau Trụ Trì như Phó Tự tức là Phó Trụ Trì, nhưng công việc làm ngang với Giám Viện.
Đô Giám công việc cùng chia sẻ với Giám Viện cùng làm; bao nhiêu việc chi li phức tạp Giám Viện không làm hết, nên xử lý quán xuyến thay Phó Tự làm. Của cải, gạo thóc thu chi tùy nghi ghi chép, thu nhập chi dụng mỗi ngày giao qua Tri Khố. Việc thu chi hoàn toàn kiểm soát trình báo cho Phương Trượng, chi mỗi ngày, 10 ngày báo cáo một lần là tuần nhựt, mỗi tháng kết toán một lần, cuối năm báo cáo tổng kết, hoặc mỗi tháng 2 lần vào ngày 14 hay 30 họp tại phòng khách với 2 dãy Đông-Tây có một phần kết toán cho biết đủ thiếu chi thu gọi là kiểm sổ sách chung; sao cho Phương Trượng, Tri Khố mỗi người 1 bản.
Tri sự cũng gọi là tri lương chính là lo về tư lương (thực phẩm) vào ra quan phủ, kiêm cả việc trông coi đất đai, sơn môn hạn giới các việc v.v… Mỗi năm chi thu lúa thóc phải lo nộp thuế, không để kẻ thâu thuế vào chùa, là việc quan trọng hàng đầu. Hoàn tất giấy tờ giao Trụ Trì cất giữ mà không tự giữ riêng.
Chứng nghĩa ghi rằng: 4 việc như trên là những việc quan trọng, nhân quả thật rõ ràng không thể không cẩn thận. Sách Thiền Tông Bí Yếu ghi: tông Thiên Thai trước đây có Đài Đắc thiền sư ở chùa Quốc Thanh chăn trâu; chư tăng ở chùa thuyết giới, Thập Đắc cởi trâu đến trước tăng đường vỗ tay cười lớn nói rằng:
- “Người đông đặc nhóm lại.” Thủ Tọa kêu trách rằng:
- Này người điên, tại sao lại làm náo động chỗ tụng giới?
Thập Đắc nói:
- Ta không nuôi trâu, bầy trâu này đa số là của tăng chấp sự chùa này.
Chư tăng mỗi người đều la lên mà quên rằng mình là tăng. Bầy trâu nghe tiếng bỏ chạy làm cho ai nấy sợ rối lên, và họ nghĩ muốn sửa đổi lỗi lầm. Ôi, há đó không phải tấm gương sao!
Chích Cổ ghi rằng: Xưa có sư Bảo Thọ ở chùa Ngũ Tổ làm chức Tri Khố. Thầy Trụ Trì khuyên ông: “Gặp ai bịnh uống thuốc, cần phải có gừng sống”. Có người vào kho lấy, Bảo la quát dạy phải biết điều, rồi sai lấy tiền trả lại, Bảo Thọ làm thinh nhận. Sau có Động Sơn Thiết nhân việc này đặt giới; nêu ra chỗ hiểu biết và răn nhắc rằng: “mua gừng sống mà được đi sang Hán, Thọ ở nơi Động Sơn”; nên có câu truyền lại muôn đời: “Bảo Thọ sanh gừng cay” còn truyền tụng trong nhân gian như sau:
Vật nấu nướng nhà kho
Tiền, vật của bếp núc
Trà, rau, quả các mục
Thậm chí dùng làm thuốc
Mọi thứ đều tùy thuộc
Của chùa dùng cẩn mật
Kho lẫm khóa nghiêm ngặt
Là người giữ đúng luật.
Chứng nghĩa ghi: Sơn am tạp lục cho rằng: Hổn Nguyên ở với Tử Trạch làm Tri Khố, tinh cần làm việc ở nhà trù giữ đúng qui tắc không phạm một tơ hào. Nhưng do sợ có lỗi nên viết lên tường nơi liêu phòng rằng:
Giọt nước, hạt gạo toàn thuộc chúng tăng
Vui việc với người, lý hằng khó phá
Phải biết mang lông đội sừng nợ trả
Năm tháng rộng dài, rõ ràng nhân quả
Ai người biết rõ nên suy nghĩ qua…
Thủ Khố (thủ kho) chuyên lo việc chi xuất, kiểm kê hết thảy đồ ăn uống của chùa bao hàm việc kho lẫm, cho tới trách nhiệm lao công. Phải là người cẩn trọng ý tứ mới giữ chức vụ này.
Chứng nghĩa ghi rằng: công việc này chỉ đề cập sơ lược. Ở đây nên xem một quyển khác để bổ túc đầy đủ hơn. Dầu, đèn các thứ nhất loạt không nên phí phạm, rau cải, thức ăn đại chúng tươi khô có khác nhau. Y cứ theo người xưa, nêu lên để lấy đó làm chuẩn. Hết thảy mọi việc phát dầu cũng đều phải theo qui định. Ở thiền đường giày cỏ (rơm) 5 ngày phát một đôi, giày đi thường 3 ngày một lần; rằm, mồng một phát đèn dầu các phòng, trà, hương vòng, giày cỏ v.v…tùy theo nhu cầu mà phát. Phàm khi cúng thức ăn, hoa quả phải chọn đủ 5 màu; trừ trai đường, tháp Tổ dùng thêm nước nóng, chùi lau, có thức ăn chay phát cho trù phòng dưới viện. Trong nhà trù, việc giúp làm thức ăn tùy theo người quản lý cần và tất cả mọi đồ dùng đều là người chí công vô tư, mới được đề cử giữ phần hành này.
Mễ đầu (trông nom gạo thóc): gạo về nhiều quá số lượng trong kho sàng sảy hạt lép không có thì giờ xem xét, đừng để meo mốc mục nát. Công việc này lấy công lao, tâm thanh khiết làm chính. Thóc mùa xuân tốt thơm thu được đừng trộn lộn lúa tạp cứng vào làm cho cơm khó ăn. Ngoài ra, 5 loại ngũ cốc và những đồ dùng đều phải hong phơi đúng cách, đậy che không làm hư hại quá đáng. Khách dùng cơm hay mì theo nhu cầu mà cung cấp.
Chứng nghĩa ghi rằng: trước kia các công tác trong ngoài vốn không có lớn nhỏ. Lục Tổ (Huệ Năng) giả gạo mà đắc pháp. Đừng cho việc ngoại vi mà khinh thường, nên phải sung vào phần vụ này; cũng như chớ tự ti mà lượng sức mình để đóng góp.
Thán đầu kiêm lư đầu (lo việc than củi, lò đốt củi): chuẩn bị củi than để dự phòng mùa lạnh. Hoặc hỏi vị Hóa chủ hay bỏ tiền mua sắm sao cho đủ dùng, cũng đừng lãng phí. Việc này kiêm luôn trông coi lò đốt, cần chú ý đèn đuốc, củi lửa. (ngày nay đã có điện, việc dùng củi, than không còn cần thiết nữa. Lời người dịch chú).
Chứng nghĩa ghi rằng: người kiêm luôn quản lý lò đốt, che chắn chung quanh lò đốt công cộng. Bóng quang âm dễ qua mau nên mỗi người tự lo tu tập, không nên đọc sách ngoại giáo và những sách thiếu đứng đắn. Không được sấy hơ giày dép và mồ hôi cáu bẩn trong lửa. Không được đánh (hưi) lửa bay tro, không được đứng lâu gây động phải nên tiến tới trước. Kẻ vi phạm đưa ra cáo bạch trước chúng xử phạt.
Phòng ấn loát: quản lý in ấn kinh sách, các văn ngữ lục v.v… thường phải xem xét kỹ không để hư mục, rách nát; không để người khắc ấn chữ ký riêng. Để bản in một chỗ phải cho thích hợp sáng tối; để gần gió, ánh nắng dễ bị hư sách, nơi thiếu ánh sáng dễ hư mục. In ấn dùng giấy trắng mực đen cho chí bìa sách, gáy sách v.v…đều chuộng sự chắc bền, sạch đẹp làm chuẩn. Không được đòi hỏi tiền bạc giá cả các thứ, không nên tự ý tăng hoặc giảm. Phải dùng sổ sách cập nhật ghi chép rõ ràng hoặc chiếu theo quí, hay theo năm, giao trình thầy Trụ Trì kiểm toán. Đây là công việc có liên hệ tới Pháp bảo lưu thông nên mỗi người phát tâm tận lực làm việc. Nhân quả không mất nên cẩn thận mà học hỏi đó.
Chứng nghĩa ghi rằng: phòng ấn loát quản lý việc in ấn hẳn phải nhìn xa thấy rộng điểm lợi, phải biết sách nào chánh sách nào tà. Nhân gần đây đa phần ưa thích đám si tăng, lạc dẫn lời dạy của Phật, Tổ rơi vào cố chấp tà kiến. Tự cho mình là đúng biên ra ngữ lục; quyết đoán dạy tín đồ in ấn, cơ hồ không biết tà chánh, phải trái, thật hư. Một cuốn Kinh in phân phát như thế làm cho nhiều người lầm không ít. Sách Sơn Am tạp lục ghi rằng: Thiên Giang Thiệu, Trực Chỉ Viên, Hưu Am Dịch, cả 3 người đều là ngu tăng, trong vùng ai cũng biết, hoàn toàn không có chánh kiến, họ tự dối in khắc ngữ lục. Ngoài ra như Huy Tạng chủ đem Kinh Kim Cang phân tích mỗi phần đoạn, dối làm các bài tụng cho khắc bản lưu truyền. Lúc bấy giờ có Thứ Trung Uấn ở Đồng Cốc, Huy tới vặn hỏi Uấn, Uấn hỏi lại Huy:
- Kinh này lấy gì làm tông?
Y liền ngơ ngác không hiểu. Đây chẳng phải khinh thường, mượn danh là gì? Đời nay chư vị danh đức tôn túc, những người hộ pháp tri thức (học giả) gặp những sách lục như thế, cần phải tố giác để ngăn chận bớt. Vạn nhất chớ cậy tình uốn cong lời tức là vượt bậc vậy. Nên suy nghĩ kỹ Kinh Đại Bát Nhã ghi: quả báo phải thọ ở ngục A Tỳ. Cho chí 5 bộ sách tà giáo từ lâu đã tuân lệnh nghiêm cấm. Tự mình không dám nhận sách tạp hay có tiếp tục ra sách, chớ màu mè dựa lời Phật, Tổ mà xen lộn tạp nhạp lời sai lầm của tà giáo như luyện đơn, xuất thần các loại. Hoặc đem Tâm Kinh, Kim Cang v.v…chú giải sai lệch bỏ lững, rồi in ấn lưu truyền đều là cái nạn tài liệu sai trái, cần phải ngăn chặn triệt dứt. Luận về hộ trì chánh pháp là để dứt mọi hậu họa về sau.
Phụ trách kho lẫm: Kho chứa ngoài những đồ đạc mua sắm ra, còn phải khuân vác củi, gạo, tre, gỗ v.v…vào, hẳn phải minh bạch việc thu nhập, hết còn để theo đó bổ túc thêm. Phòng kho có nhiều việc, lúc rãnh rỗi cùng nhau tiếp tay phụ lực dọn dẹp cho mọi việc được tươm tất gọn gàng và cũng tiện lợi dễ dàng.
Chứng nghĩa ghi rằng: cần nên bổ túc thêm: nếu người vác đồ nhiều, một người lãnh chúng đứng ghi trông coi mọi việc theo dõi, y lúc ra đi thì nặng vai, về thời tay không. Lãnh chúng nếu thiếu sự coi sóc để mất đồ, qui ra thành tiền phạt đền bồi. Hễ ai lạm dụng tiền lộ phí mà điều tra ra là phải bồi thường.
Phần phụ: đồ dùng của Tam Bảo thu, chi có qui định ghi chung thành 18 điều ở sau:
Quí tiếc của Tam Bảo như giữ tròng con mắt vậy, thấy nhiều chớ làm hao tổn mà tận dụng vào việc công một cách vô tư. Của tín thí trơn như dầu mở nuốt khó trôi, tham nhiễm lâu thành biển nghiệp; nhân quả tòng lâm quán kỹ tức là cội phước. Lời minh ghi rằng: vật thuộc của chiêu đề (thường trụ) một tơ tóc cũng không phạm, giữ mình phải kính ắt hẳn sợ kiêng. Nước trong đầm lắng trong như cán thẳng không cong không vạy còn phiền lo gì nữa; như một ao nước lóng sạch trời rồng tới soi bóng để sửa sai lỗi lầm.
Giám viện là người chúng tin cậy nên phải có lòng quảng đại để duy trì tòng lâm. Canh cải những việc lỗi thời, cần làm mới để đem lại lợi ích. Không thể lếu láo qua ngày chỉ có hư danh. Như nếu làm trái phép, chúng khuyên không theo phạt, cho ra khỏi viện.
Làm việc chúng đều có người giúp phụ. Giám viện trông coi việc gì? Trông coi xem xét tổng quát mọi việc, luôn luôn phải xem để ý việc, đi tuần hành từng nơi từng chỗ, chớ nên sai lầm việc chúng. Nếu chúng có việc gì làm đều phải thưa cho thầy Giám viện biết. Người nào tự ý làm bị phạt. Người lầm lỗi cho ra khỏi viện. Như Giám viện tự chuyên không họp bàn với 2 chúng Đông Tây đường, việc nhẹ thì phạt; nặng phạt tẩn xuất.
Phó Trụ Trì trông coi tài sản thu chi của Tam Bảo, ghi chép rõ ràng; ghi thiếu sót: phạt; sổ sách thiếu phân minh: xử phạt. Phàm ruộng, vườn của sơn môn cho chí huê lợi, tiền bạc phải thông báo cho 2 chúng cùng biết để xem xét duyệt ký khi dùng, cũng như mở đóng giữa chúng; như tự ý mở sổ xem riêng bị phạt.
Tri Khố: quản lý các vật dụng thuộc phận sự của người nào? Đó là viên Tri Khố, bổn phận đã quá rõ ràng. Khi Tri Khố thôi việc cũng giống như Giám Viện, y cứ như trên mỗi mỗi điểm phải ghi rõ. Người nào phạm bị phạt. Nếu vật mất, hư hao ghi vào sổ để mua thế; nếu lỡ quên ghi là phải bồi thường; có thể thường tiền nhưng mua lại món đồ nguyên không gian dối. Ai làm trái là bị phạt.
Khố Đầu - Tri Khố - quản lý các việc trong ngoài nhận vào, chi ra, cái nên cho nhưng không cho là phạt; món không nên cho mà tự ý cho: phạt gấp đôi.
- Cấp phát hương đèn, dầu gạo, rau quả v.v…không chiếu theo qui định mà tự ý thêm bớt bị phạt.
- Mua bán thu nhập trong sự mờ ám cốt thu lợi là phạt bồi thường hay cho ra khỏi viện.
- Gạo, thóc v.v…cho đến kiểm kê thu nhập minh bạch ghi ngay vô sổ để theo dõi. Việc này có liên hệ tới huệ mạng của đại chúng; lấy không hứa xuất trả lại, và các việc khác như sửa sang, mua sắm và bán thóc. Như vi phạm, đại chúng công khai đuổi.
- Hết thảy của cải nếu lấy của công tiêu việc riêng và tự ý mượn, đổi xấu lấy tốt một cách thiếu minh bạch phạt đền bồi.
- Ăn uống dấu chúng hay tự ý phí phạm nhiều đèn dầu các thứ v.v.. bị phạt.
- Ăn uống v.v…không đúng thời điểm qui định. Nếu lấy thức ăn nấu chin, đồ nuôi bịnh, -vật cúng chúng đều bị phạt, làm hư hoại phải đền bồi.
- Vật của tăng để quên, không được dùng lầm. Mua đồ cho bịnh nhơn, ắt phải đưa, dù ít nhiều cũng từ của công. Người nào vi phạm bị phạt.
- Mỗi chỗ nên có đồ dùng như các loại hương đèn v.v… lúc dư đem cất, khi cần không đưa ra bị phạt.
- Phàm phạt qui ra tiền bạc đều đưa vào dùng việc công; miễn công việc liên quan nhau; nhưng đưa vào dùng lẫn lộn là phạt.
- Giám sát thực phẩm, sáng tạo những đồ dùng: phàm những món đồ thu chi do tay mình ghi nhận rõ ràng, không ghi bị phạt; làm mất phải bồi thường. Nếu lười không kiểm tra công tác và ghi sổ sai lầm không rõ ràng bị phạt (phận sự giám tu).
- Mỗi tháng vào 2 ngày 14 và 30, họp 2 chúng Đông –Tây liêu kiểm sổ sách, thư ký báo cáo chi thu, nếu tính sai bị phạt.
- Mỗi năm biên lai trả thuế phải trình cho Phương Trượng cất giữ, giữ riêng bị phạt.
- Người thủ kho nên làm việc hiệu quả, đối với chúng nhứt nhứt phải rõ ràng; giao cho người mới tiếp tục, nếu trái bị phạt.
Ngày… tháng… năm… Trụ Trì sao lục.
Chứng nghĩa ghi rằng: căn cứ theo luật tạng, vật của tăng có bốn thứ:
1- Thường trụ thường trụ, có nghĩa là nhà cửa, ruộng vườn, cây cối, người, súc vật, lúa gạo v.v.. vì hình thức chúng giới hạn ngay tại chỗ, không chung ở những chỗ khác. Chỉ được dùng mà không được phân chia đem bán, đem cho nên lặp lại 2 lần chữ “thường trụ”.
2- Mười phương tăng, là vật cúng chư tăng quen thuộc như các phẩm vật, đồ dùng ăn uống trong chùa thuộc của 10 phương tăng không giới hạn tăng ở chùa. Luật Thiện Kiến ghi rằng: không thỉnh chuông tức ăn không hiệu lệnh, là phạm tội trộm. Vì thế, rõ ràng 10 phương tăng đều có phần vậy.
3- Hiện tiền thường trụ, trong đây có 2 loại:
a. Vật hiện hữu
b. Tăng chúng có mặt.
Chỉ có vật hiện hữu đem cúng chư tăng tại chỗ mà thôi.
4- 10 phương hiện tiền Tam Bảo, có nghĩa là đồ vật của vị tăng qua đời; hình thức giống như của thập phương, vì 10 phương hiện tiền tăng được có phần vậy.
Luận Tì Bà Sa ghi rằng: trộm vật của tăng quá cố, ai xử cho là tội nặng (căn bản)?
Đáp: Vì đã làm pháp yết ma, đối giữa chúng tác pháp yết ma xử được. Nếu chưa làm pháp yết ma phải khéo đem ra công khai giữa chúng cũng được. Nay qui định rõ vật của tăng quá cố là của 10 phương tăng, trước đã làm pháp yết ma thì được, sau yết ma là không được.
Sách Lại Am ghi: Bốn vật của thường trụ này không được lấy một tơ hào, nếu lấy đắc tội rất nặng. Trước Thánh sau Thánh đều dạy răn điều chí thiết: Sơn tăng hoặc hiển hoặc ẩn chưa từng không lấy lời chí thiết này răn dè ý mình. Do e người không thấu hiểu nên có bài kệ cảnh giác rằng:
Vật 10 phương tăng nặng như sơn
Muôn kiếp nghìn đời dễ trả hơn?
Nay bàn chả mấy người tin tưởng
Ngày kia khó thoát tội hầm chông
Thân người khó được khéo suy lường
Sanh ra đội sừng tháng năm trường
Tham chi từng hạt gạo đáng thương
Sa chân lỡ mất nửa đời lương!
Sách Chích Cổ ghi rằng: Thiền sư Hoằng nối dòng pháp của Tú Phong Tường Công núi Khải Hà, có quí nhơn giúp bốc mộ cha đưa cổ quan đến, Hoằng cho đào huyệt sâu chôn xuống mà chẳng hay trong túi vải đó có gì. Người cùng quận giữ mối thù đợi mãn tang, sai người tới chiêu dụ, nói:
- Của thường trụ muôn đời tăng một sáng, trưởng lão sao khổ tâm tranh chấp làm gì chứ?
Hoằng nói rằng:
- Không thể đem tăng một sáng phá hoại được tăng lâu năm thường trụ.
Việc đó đã xong rồi.
Tăng Trị (Tăng trực nhựt) nguyên chức vị này không thật, nghĩa là cắt đặt tăng chúng luân phiên trị nhựt, cũng có ý rằng trong tăng ưu tiên ngày của vị đó trực (dọn cơm chúng) Người làm việc này phải không a dua nịnh bợ, không cong queo mách qué, không phòng ngừa, không phe nhóm, thay Phương Trượng giám sát những gì thiếu sót sáng tối, ra vào, đại chúng trong ngoài đều phải nể nang. Cho nên cũng gọi là ty sát, do từ nơi Ban Thủ mà ra đến tham đầu là chấm dứt. Phàm 5 ngày thay đổi một ban, giữa mới và cũ thay phiên làm việc. Nơi chánh điện sau khi thời tụng kinh tối xong, chư tăng phiên trực trước mời đại chúng ngồi lại trước điện, cả Ban trực ra lễ Tam Bảo, lễ xong mời Ban mới đến, đối trước Ban trực mới giao việc và chỉ dẫn rõ. Ban Tăng trực mới nhận việc giao phó lễ Tam Bảo 3 lễ, lạy xong mọi người lui về chỗ. Mỗi buổi sáng điểm 3 hồi bảng thức chúng, từ Phương Trượng đến các liêu đốc chúng lên chánh điện công phu. Đi tuần các phòng nghiêm cần chu đáo, trời sáng mở cửa sơn môn. Khi đại chúng dùng quá đường, hay lên chánh điện…Ban này trông coi cửa nẻo, cháo cơm 2 bữa dọn lên trai đường và báo hiệu đúng giờ. Đại chúng ra vào để các đồ dùng đúng pháp. Thời Kinh tối đốc thúc chúng tập trung lên chánh điện. Mặt trời vừa lặn xem xét cửa ngõ đóng khóa cẩn thận. Đốt hương trong phòng, nhớ bật đèn đường và các nơi, đèn lưu ly. Có việc, gõ 2 hồi bảng chúng tới phòng khách họp bàn, không việc gì thì thôi. Sau giờ chỉ tịnh đi tuần hết mọi chỗ. Ba cây hương lớn sau khi cháy hết cấm ngặt đốt đèn, dập nén hương vòng; xem tắt đèn đường, trông coi kỹ nhà bếp, phòng trà lửa củi, đèn đuốc. Phàm gặp kỳ thiền thất lo cung cấp thức ăn các thứ trong ngoài. Việc này không cứ Trụ Trì hay các Ban công tác phải tránh mắc lỗi, làm sai là phạt, không theo tình riêng nhưng theo việc chung của tòng lâm. Hẳn nên cư xử tâm như nước, chấp pháp như sơn mới có thể điều khiển chúng đúng quy tắc trật tự được. Ra vào theo qui định, gặp việc khó không lười biếng; giờ tọa hương đều phải đến, giờ quá đường tụng Kinh tập trung đúng giờ giấc không sai. Chuông trống phân minh, trong ngoài lễ tiết. Bất tuân lời Phương Trượng phạt quỳ hương tại bàn Tổ. Đại chúng không tuân lên bạch Phương Trượng chiếu Nội Quy xử phạt. Nhắm người nắm được vai trò này liền sung vào, không nên thay đổi. Có thưa thỉnh lúc dùng cơm tại trai đường, trước hết Tri Khách, đem trình bày nơi phòng ăn, trước bàn với Trụ Trì. Ban Trị Nhựt ra trước trải tọa cụ đảnh lễ 3 lạy. Tri Khách đến trước ngồi hỏi qua một lúc rồi mới giở ống trúc lên; phía dưới Ban Tăng trực nhựt nắm một đầu giơ lên, đưa ống trúc qua người đối diện hỏi. Tân Ban Trực dương lên hỏi, Tri Khách liền bước ra ngoài phòng ăn, Tăng trực dự bị đèn lồng đích thân cầm sẵn giao qua. Ngoài các lễ nghi khác chiếu theo thỉnh cầu của Ban chức sự mỗi việc mà làm.
Chứng nghĩa ghi rằng, sở dĩ gọi Tăng trực vì số chúng ở tòng lâm đông, việc sắp đặt phải nghiêm chỉnh, nên chọn trong chúng người trực không a dua làm việc. Kiểm điểm trong lúc làm việc công tác rất là nhiều việc, e một người không đủ sức cáng đáng khó làm lâu được, nên chia cho 2 dãy Đông-Tây luân phiên nhau trực. Đây gọi là tăng trực vậy. Đến như việc liên quan tới đại sự của tòng lâm không thể để chậm trể được. Không luận việc trong hay ngoài đều tùy thời trông coi quản lý. Đương nhiên phải có người đề nghị, cũng như mỗi người tự thấy được nói thẳng không dấu, hà tất đợi tăng thay phiên trực; giá Trụ Trì có lỗi, cũng có thể lúc chúng thọ trai ở trai đường, ra quỳ bạch giữa chúng. Sở dĩ Vua có bầy tôi tranh tụng, cha có con tố, nếu như việc nhỏ không đáng để đưa ra giữa chúng không sao, vì chẳng phương hại tới thường trụ, Ban Tăng trực cũng nên khéo phân xử. Bởi vì mỗi người không ai tránh khỏi lỗi nhỏ.
Sách Thiền Tông Bí Yếu ghi rằng: chỉ có Phật là người duy nhất không có lỗi lầm, ngoài ra mọi người ai lại không lỗi. Đệ tử thấy lỗi của Thầy hư hư thật thật rồi làm cho tâm lui sụt, chẳng có được lợi ích nơi giáo pháp. Cần phải suy nghĩ điều này: đời trước phước đức ta yếu kém nên không gặp được Phật. Nay gặp Thầy bất minh, ta không nên nghĩ tới lỗi người mà tự làm hại đời tu. Lỗi lầm của Thầy chẳng vướng bận tới ta, ta chỉ theo Thầy thọ học trí tuệ. Thí như túi da đựng đầy báu vật; không nên vì cái túi mà bỏ vật báu. Như người nghèo cầm đuốc soi đường, không thể vì người nghèo mà bỏ mất ánh sáng để tự rơi xuống hố sâu hang hiểm. Vì thế nên nói y pháp không y nhơn là vậy. Nếu không thể nương tựa Thầy, tình thế cũng rất khó mà cư xử. Ở qua một thời gian, ta có thể bỏ Thầy mà đi sao còn lắm lời?
Tri Chúng đứng hàng đầu trước Tri Khách; ngoài ứng đối với thí chủ đàn na, trong điều hòa đại chúng là muốn lợi lạc chung. Vả lại, càng làm việc cực nhọc càng oán, lúc theo dõi sát đại chúng, than chẳng cần tình, nêu thẳng lỗi quấy; không được yêu ghét bất công. Hễ ngoài phòng khách gặp việc lớn nhỏ phải lưu tâm xem xét, quán xuyến. Phàm tiễn khách hẳn có lời khai thị cho thích nghi bản chất của khách, làm cho họ còn lưu tâm mà còn hẹn gặp lại.
Chứng nghĩa ghi: sách khác bổ túc rằng: Tri Chúng hợp lý tức biết tình hình khách khứa và hết thảy mọi việc. Nếu có trai chủ thiết trai đưa trình với ban chức sự. Hể tiếp khách phải có trà nước, mời ngồi, thăm hỏi v.v…Tri Khách hỏi chỗ khúc mắc nên giữ tế nhị và thật vén khéo không nên giốc hết việc rắc rối ra hỏi.
Tri Khách lo việc tiếp đãi tân khách; nếu khách đến, dù tăng hay tục, dù chưa biết mặt, không luận sang hèn, đều phải khiêm tốn nhã nhặn. Hỏi khách tánh danh (tôn hiệu), nơi chốn và đến có việc gì. Không được coi thường hay gặp người khả nghi nên phải ngoài giữ phép trong đề phòng; không nên một mực không tin, đến nổi làm thất cách. Nếu có tăng phương xa tới xin ở lại, như để ở phòng ngủ nên hỏi rõ lai lịch. Xét xem tướng dạng, tư cách có thể không cho ở lại bằng lời từ chối khéo. Thảng hoặc có bậc tôn túc thượng khách một mặt lo tiếp đãi, tùy theo tôn ý khách, thông báo cho Thầy Trụ Trì; sau đó đưa khách tới gặp. Tiếp đến mời vào phòng khách tiếp chuyện; chỉ bàn thảo giáo lý chứ không bàn lan man tới việc đời, những nhân vật đặc biệt v.v… Ngoài ra, nên theo Nội Quy đã qui định.
Chứng nghĩa ghi rằng: Tri Khách là một chức năng phải hiểu rõ thế thường kiêm thông thơ văn nghĩa thú mới có thể tiếp một cách tự nhiên được. Bởi vì khách lui tới kẻ thanh người tục vô chừng không nhứt định, cho nên Tri Khách biết người, không chỉ tôn trọng Phật Pháp cũng làm cho tăng chúng khỏi chê bai, không chán ghét.
Phần phụ: nêu thêm một số việc tiếp khách. Cơm nước đãi khách dọn nơi phòng khách phải cho tươm tất sạch sẽ. Khách đến mời tiếp trà nước, đưa hương lễ vật cúng Phật; đưa tới gặp Phương Trượng; giao qua thị giả trực chăm sóc. Khách ở lại sẵn sàng giường mền, gối, nệm v.v… và đưa hành lý khách vào phòng, cũng như chỉ đèn đuốc, chìa khóa trao tay v.v... Nếu làm mất đồ phải bồi thường. Phàm hầu khách, không hỏi các việc chừng nào rời khỏi, tuổi tác việc làm. Vi phạm điều tra ra được bị phạt nặng. Mời tiếp trà nước, lo cơm mọi việc v.v... nên ân cần niềm nở, không được làm mất oai nghi. Hể muốn gọi khách phải tới đứng trước chấp tay cung kính; không có việc gì nên ở phòng riêng. Không nên quá xa lạ, cho chí châm trà, mời rước khách nên giữ theo ngôn từ của Tri Khách mà hành xử đúng phép lịch sự.
Trà Đầu (lược bớt 5 dòng), có Phật sự bất thường nên trông coi việc tắm rửa. Tới sáng hôm sau nên lấy nước sôi cho khách rửa mặt, nhất là cho người già bịnh và khách quí. Khăn lau phải giặt sạch sẽ, giặt gỵa quần áo mở nước khẻ nhẹ, hợp thời.
Hành Đường: Trước tiên lau sạch bàn, dọn chén bát, đũa muỗng. Phàm cơm cháo phải đơm trước rồi mới khai bảng. Đốt nhang bàn kim đài (trước trai đường). Cơm xới đầy chén không được trống rỗng, không chạm tiếng chén bát phát ra thành tiếng. Kết trai hồi hướng xong mới thu dọn bát rửa.
Ban Trực nhựt dùng sau chúng, vì phải hầu chúng nên chu toàn phận sự hành đường. Chúng dùng xong, đũa bát dọn khẻ nhẹ, nên lưu ý việc này: làm tổn thất, bể hỏng phải đền bồi.
Gặp lúc đông người uống trà đến thiền đường, lấy bình trà, tách trà, hộp trà đem lại chế pha. Gặp nơi chật hẹp, khách uống qua liền thâu dọn. 3 ngày quét dọn một lần, tùy chúng phân chia. Trị nhựt xem xét phòng xá trong ngoài chu đáo. Khi đả thất, lưu ý giờ giấc: thọ trai, tham thiền, đốt đèn nến, gõ bảng 3 hồi 3 tiếng. Tọa thiền xong, dọn dẹp hoàn tất liền tắt đèn. Phàm người nào trực nhựt, miển thời tụng kinh buổi tối, ngoài ra tùy chúng quyết định.
Môn Đầu (người gác cổng): ngày đêm có mặt trước cổng lo việc mở đóng cổng. Không được lầm lẫn. Người ra vào phải để ý xem xét đề phòng kẻ gian trà trộn lẫn lộn trộm lấy đồ vật, hoặc ban đêm có tiếng gõ cửa trước phải thông báo cho người bên cạnh biết, rồi sau mới mở cửa. Có các bậc tôn túc, quan viên, sĩ phu v.v… tới viếng phải nhanh chóng báo cho Tri Khách biết. Tăng tục ở xa đến vui vẻ đón tiếp chớ từ chối. Ban Trực nhựt xem xét phòng xá, cửa nẽo chu đáo cẩn thận.
Chứng nghĩa ghi rằng: trước kia có một người gác cổng làm bài thơ rằng:
Người gác cổng tam quan
Thấy khách tiếp hỏi han
Đâu phân biệt nghèo sang
Cần lấy lễ đãi nhơn
Quét tước trong ngoài sân
Nói cười chớ huyênh hoang
Nên tôn trọng xóm làng
Trẻ nhỏ phải xem quán
Cửa tòng lâm mở toang
Người thăm chẳng oán than
Nếu cố tâm ngăn cản
Vô tư chối tệ nạn
Thức dậy lúc mờ sáng.
Đêm tối liền bế quan
Chú ý phòng đèn đuốc
Lửa củi chẳng vấy lan
Người nào giữ chức quen
Hầu chẳng lìa sơn môn
Tối tối nên xét xem
Ngủ nghỉ mặt tĩnh êm
Phàm có Kinh, sám văn
Phân phối định phân minh.
Nếu có người hỏi riêng
Xả định xem xét liền.
Phụ nữ, bọn thiếu niên
Chớ cùng họ hàn huyên.
Tam Bảo tịnh già lam
Cẩn thận tránh nghi hiềm.
Xin ăn hạng tăng quèn
Bỏ đời nhập đạo hẳn
Sợ sống chốn tòng lâm
Cũng sợ chẳng làm xong.
Mỗi ngày cơm phát phân
Trước mắt phải nhận chân
Vào ra đêm khuya vắng
Nên kiểm tra cẩn thận
Chớ xem đây việc nhỏ
Trọng trách thật vô ngần
Người tinh tế: mắt, tâm
Mới giữ gìn già lam.
Phần phụ: Tại phòng khách có 27 điều qui định rõ. Vác túi, mang bát vốn là tham vấn cầu học; nhổ cỏ, quét tước từng không phải việc riêng. Các việc như ngước cúi, thăm hỏi v.v.. nên nói lời nghiêm nghị. Mọi sự hòa hài, trăm việc theo chúng. Việc động tĩnh mỗi mỗi trình thưa rõ ràng; rãnh nhàn, bận rộn có an trụ chăng?
Đối với chúng trước tiên theo phép phải nghiêm, có nghi phải giữ, làm bực pháp khí như thế mới đáng gọi là cao quí; có chỗ hướng về nên rất hân hạnh cùng nhau soi sáng. Sau đây là 27 điều Nội Quy nhà khách:
1. Khách đến lo trà nước, điểm tâm, giường gối, mền nệm v.v…mọi việc sẵn sàng. Nếu không biết mặt nên hỏi tên họ, chỗ ở, không nên bộp chộp thất thố, vi phạm bị phạt.
2. Trực nhựt tri khách: không cứ có việc hay không việc nên túc trực tại phòng khách. Vắng mặt bị phạt.
3. Sáng tối trên chánh điện, nếu không người trực, Tri Khách phải mở đèn, và cổng cửa; cũng như trông coi hàng ngũ, vị trí chỗ đứng của chúng. Nếu tới giờ chưa đến phải hỏi xem chúng có làm việc ở đâu không. Ai sai là phạt.
4. Nghe tiếng bảng, đại chúng đi quá đường. Nếu không có tăng trực, Thầy Tri Khách phải gõ bảng, câu bảng và đứng chờ ở trai đường, ai tới trể phạt.
5. Trưởng nhóm phân công lau quét hoặc thưởng công; hoặc hai chúng đi công tác Phật sự ra khỏi chùa v.v…Tri Khách hỏi một lần trước, sau mời khách chính thức tham gia công tác
6. Có quan chức tới viếng thăm đưa danh thiếp trước, liền trình bạch Thầy Trụ Trì. Trước hết, Tri Khách tiếp rước, mời trà, cho chí đưa khách tới gặp Trụ Trì, làm sai: phạt
7. Nghe hai hồi bảng nhóm họp có việc ở phòng khách. Phó Trụ Trì báo cáo chi dụng của chùa. Gặp tháng Bố Tát, Duyệt Chúng báo cho trong chúng biết. Thị giả thưa rõ Trụ Trì đầu đuôi mọi việc; Tri Khách khởi đầu nêu thời điểm, nguyên nhân xảy ra những việc nhỏ lớn; bàn xong đem trình cho Thầy Trụ Trì biết.
8. Các Thầy có việc muốn ra ngoài cần tác bạch tại trai đường và cho trị nhựt, tri khách biết. Làm không đúng, bị phạt. Nếu có cuộc đấu khẩu, tại phòng khách cứ công tâm nói thẳng. Nếu không tuân, mời chúng và tri khách bàn thảo, công bố xử phạt. Giả sử tái phạm bất tuân, tuyên cáo tẩn xuất khỏi viện. Nếu theo tình riêng xử bất công, bị phạt.
9. Đem việc tạp nhạp ngoài đời vào chùa làm huyên náo động chúng. Tri Khách khuyên giải, cũng như trực nhựt can ngăn lại giận dỗi, cự thẳng thắn không sợ, phạt.
10. Tri Khách không có công việc, đi quá đường, tụng Kinh, các việc khác…Không đi: phạt; trừ khi bịnh.
11. Các Thầy ra vào mà không tới trai đường tác bạch, cố tình che dấu ra ngoài vui chơi phóng túng, Ban chức sự biết mà không nêu ra cùng bị phạt.
12. Nhà (phòng) khách phải nên nghĩ tới một việc: chuyên quyền lấn lướt hoặc kết vây cánh với bạn cùng phòng ghét ganh cũng như cố ý bênh vực nhau, đưa ra giữa chúng xử phạt.
13. Tri Khách dù không trực nhựt cũng không được ra ngoài vui chơi, vi phạm bị phạt.
14. Có thiền khách tăng đến – không hẳn nhứt luật – các bậc tôn túc nghỉ lại nơi phòng; người đi làm việc trở về, có công với Tam Bảo được ở lại nơi phòng khách 5 ngày làm khách; thứ đến các hiền giả từ xa đến tu thiền và ở lâu: 3 ngày được làm khách. Ngoài ra người sơ cơ mới tới tham dự học: một ngày làm khách, sau đó theo chúng làm việc. Cho chí khách qua đường ở lại qua đêm nên cho sinh hoạt riêng, không ở phòng khách, làm xáo trộn bị phạt.
15. Các bậc trưởng lão chùa khác tới thăm nên lấy nước rửa mặt, đổi thay quần áo, châm trà…liền cho Trụ Trì biết, hạ hồi nhận ý kiến rồi mới sắp đặt các việc phòng, giường. Khách là bậc Phương Trượng, sắp đặt một thị giả lo một phòng riêng; ngoài ra mời khách ở phòng khách. Nếu vị ấy vào thiền đường, thăm các liêu, đại chúng nên làm lễ và đặt ghế bên phải giảng đường thỉnh ngồi. Nếu Ngài muốn thăm 2 dãy Đông-Tây lang, nên hướng dẫn đi tham quan bên ngoài. Vị tôn túc nếu không vào thiền đường, các liêu mà chỉ viếng sơ qua, chúng không phải làm lễ.
16. Thí chủ thiết lễ cúng dường trai tăng các việc…Phó Trụ Trì hợp cùng Tri Khách họp bàn trong chúng đúng pháp.
17. Cúng dường trai phạn, nhà khách dùng để tiếp khách; ví dụ như ăn riêng, ăn chung 2 người, theo đó tự định liệu.
18. Khách khứa và người nhà của gia chủ, đạo hữu…đến đều tiếp tại phòng khách, sau tùy theo đó hướng dẫn; nếu cho vô phòng, lộn xộn bị phạt.
19. Phàm người xin ở chúng, trước tiên cho xem Nội Quy cư trú. Nếu muốn nhập chúng, nên đọc quy tắc thiền môn trước. Sau bàn với Ban chức sự, xem chí nguyện và hảo ý muốn cầu học của người ấy để hứa cho ở. Nếu gặp người ngang ngược, thô lỗ, ù ù cạc cạc…không cho lưu trú; đề phòng giữa chúng lộn xộn, phạt.
20. Giường, mền nệm phòng khách nói chung mọi thứ phải cần nên kiểm điểm đúng mức; không được mượn xài riêng những đồ đem ra ngoài, và các việc như ở không hoặc đem cũ đổi mới…Chiếu theo đó một đền gấp đôi, nếu không chịu đền lại tách riêng cho dời đơn.
21. Phàm có Phật sự gì theo mệnh lệnh cho khách biết hiệu bảng, sai lỗi bị phạt.
22. Có thư từ hay quà biếu gì đến, nên hỏi rõ từ đâu rồi ghi vô sổ hoặc trong lúc nhận giao liền, nhưng giao tận tay, người nhận làm thất lạc, sai trái phạt.
23. Nơi phòng khách chúng vi phạm cải vả ồn ào, liền lúc đó cất đơn cho ra ngoài. Chớ bàn việc phải trái hay ỷ mạnh, tà kiến mà làm chướng ngại bạn đồng liêu còn chấp; chẳng chịu bàn thảo. Làm trở ngại việc Tam Bảo thường phạt cho ra khỏi chúng.
24. Phàm rời đơn nên xem kỹ đồ trên giường, đề phòng lấy nhầm vật của Tam Bảo; như lầm lỗi bị phạt.
25. Có người tới xin thọ giới hỏi kỹ lai lịch; cũng như kinh luật, y bát, hương tín, tiền bạc v.v…đã có chuẩn bị đầy đủ chưa? Dẫn giới tử tới gặp thư ký đăng ký đầy đủ các chi tiết. Nếu không đúng như pháp mà hứa sai lầm là phạt.
- Hương tín các thứ, xem quyển 7, mục giới kỳ có nói rõ
- Đúng như pháp: dẫn người cầu giới tới gặp Trụ Trì tức là hướng dẫn tại chùa, trước lạy Phật, lễ thập phương Tam Bảo; kế nói rõ việc cầu giới. Sau khi lạy Phật 3 lạy xong, tiếp xin lễ quý Thầy 3 lạy. Lạy xong, người dẫn lễ xướng: cầu giới tử tiến lên lễ chư giới sư 3 lạy. Lễ 3 lạy xong chờ Thầy đáp rồi lễ Phật một lạy và lui ra.
26. Ứng dụng theo tình đời, tiền, đồ vật và nơi công thự, lễ tiết v.v…nên thảo luận cùng với 2 liêu chúng. Nếu theo ý kiến riêng mà làm là phạt; phạm lỗi, phạt nặng.
27. Điều lệ của Ban Tăng Trực xem phần công việc ở trước có nêu rõ.
Ngày… tháng… năm… Trụ Trì…. sao lục.
Chứng nghĩa ghi rằng: Thí chủ thăm viếng, tiền bạc thu chi v.v…phần nhiều đều do tay Tri Khách. Nhân quả thiện ác hiển nhiên không sai lầm. Luật Hành Hộ ghi rằng: xưa chùa Bạch Tháp ở Dương Châu, ông Đạo Sưởng cầm chắc biết vật của tăng mà vẫn lấy dùng tự nhiên. Bổng đâu các minh quan giữa ban ngày vô chùa lôi Sưởng xuống đất định chém đầu. Sợ quá Sưởng van xin tha mạng. Phán quan hằn giọng nói rằng: “Đồ vật trong phòng phải đem trả lại hết cho chư tăng, ta mới tha ngươi sống sót”. Sưởng dập đầu nói: “Không dám trái mệnh”. Chuông chùa liền báo hiệu nhóm chúng, đồ vật trả y nguyên lại như củ; y tạo tượng, thiết trai cúng dường hồi hướng sám hối. Ba ngày sau minh quan trở lại thấy Sưởng với một bình bát, một áo nạp (vá víu chồng chéo lên nhau), chẳng nói gì rồi bỏ đi. Từ đó Sưởng khắc phục tinh tấn tu hành cho tới ngày công viên quả mãn. Kinh Bửu Lương ghi rằng: thà ăn thịt mình, chứ quyết không lấy trộm vật của Tam Bảo. Ngài Động Sơn Lương Giới có bài tụng như sau:
Chư tăng phải nương giới tu trì
Chớ nên phóng túng tham, sân, si
Của Tam Bảo lấy đi cất dấu
Vẫn ràng ràng như cặp nhãn châu
Trong bóng tối mưu sâu tính kỹ
Chốn u minh chúng quỉ thần tru
Một tơ hào cố thủ riêng tư
Thân lừa ngựa đền bù kiếp sau.
Điển Tòa trước gọi là Thủ Tọa tức là điều hòa tánh. Điển Tòa là điều mạng, lo việc ăn uống trong chúng chớ xem là công việc tầm thường. Vì mọi sự cúng dường cốt ở chỗ tinh khiết. Biết tiếc giữ gìn của Tam Bảo không được phá tán, tiêu hao. Như ăn uống không được khác chúng. Trên thùng cơm chín trước hết đơm cúng Phật, sau mới đơm cúng quá đường. Ngoài ra, như qui định rõ ở nhà trù, hậu liêu. Phụ: phàm cúng Phật như thức ăn nên nấu chín cho thơm tho, không nên nếm trước, không được cúng đồ sống v.v... đơm rỗng là khinh lờn Thánh Phật, như thế tội lỗi không nhỏ. Không được mua sắm đồ ăn riêng chúng. Như thức ăn của đại chúng và của khách nên thử vị trước xem có vừa không. Không nên lơ đểnh làm mất mùi vị cũng như không được làm vì tình riêng v.v…Người nhận, người cho đều bị phạt, trừ người bịnh không phạt. Công việc này kiêm luôn hô bảng, hồi bảng đều thuộc quyền điều khiển của Điển Tòa.
Chứng nghĩa ghi rằng, y cứ theo Kinh Tăng Hộ, đức Phật dạy rằng: “Ông thấy chiếc bình thứ hai đó thậm chí làm Tăng lo việc nhà trù nấu đồ ăn mềm nhuyễn thơm ngon cúng dường mà ăn trước, bủn xỉn, xấu ác như thế với chư Tăng.” Vì nguyên nhân ấy nên sa vào địa ngục làm cái bình thịt vĩ đại bị lửa thiêu đốt khổ sở vô cùng đến nay vẫn chưa dứt. Ông thấy cái bình thứ ba hồi Phật Ca Diếp, là tăng tịnh nhơn lúc làm đồ ăn uống thấy ngon liền nếm thử trước hoặc đem cho sản phụ ăn. Ở trong tăng làm hạnh thô tháo xấu xa, do đó nên đọa địa ngục làm cái bình thịt to tướng bị lửa đốt cháy chịu khổ đến nay chưa dứt.
Phạn Đầu: người phụ trách tới giờ khai mõ lớn, báo giờ cơm. Trước giờ cúng ngọ xong, nghe hiệu lệnh đại chúng tập trung tại trai đường. Dọn cho khách tại phòng khách, người già, người bịnh dọn riêng. Ngoài những nơi ấy ra, đem cung cấp thức ăn riêng bị phạt. Về mùa hạ nên lượng số chúng lo việc cơm cháo để gia giảm gạo cơm. Như dư thừa nên sớm điều chỉnh không để phung phí.
Hai bửa ăn tức là 2 buổi chính cho khách: mỗi ngày dọn đồ ăn sáng, ăn trưa tại phòng khách hay liêu phòng; cần biết số bao nhiêu người để tiện việc tiếp đãi. Khách dùng cơm xong, nồi niêu, chén bát…dọn xuống gọn nhẹ. Đợi khách đi, phát tâm dọn giường gối, chiếu mền gọn gàng. Mỗi ngày luân phiên quét dọn nhà khách, trai đường, thiền đường…
Thái Đầu (phụ trách xào thức ăn): ngày 2 bữa rau xào đều nên hội ý Điển Tòa. Nấu nướng thanh khiết đãi đại chúng thức ăn thực lòng chớ không bừa bãi cho xong việc.
Chứng nghĩa ghi: Kinh Tăng Hộ chép rằng: Ngươi thấy chiếc bình thứ nhất thời Phật Ca Diếp, là người xuất gia làm tăng lo việc nhà trù, nhân buổi ăn sáng thức ăn còn thừa để đến ngày hôm sau cho chúng ăn; thậm chí qua đến ngày thứ ba…Vì nguyên nhân đó nên đọa địa ngục làm cái bình thịt to tướng bị lửa thiêu đốt thọ khổ đến nay chưa dứt.
Hỏa Đầu (bếp chánh) có phân 2: chánh và phụ. Đại Hỏa Đầu mỗi sớm mai sau 3 hồi bảng, bắt nồi cháo lên. Thiền đường báo hiệu giờ tọa thiền. Sau khi nồi cháo chin bèn ngồi đó trông chừng không cho ai vào lấy lửa. Sau khi gõ bảng dứt, lo bửa sáng cho khách, bửa tối cũng giống nhau là đốt lửa hết lực. Tiểu Hỏa Đầu (phụ): hầu thiền đường, đốt nhang, nấu thức ăn, dọn thức điểm tâm cho khách, cho lửa nhỏ ngọn. Có món chưng tàu hủ, nếu chưng nồi đồng nên để tâm theo dõi. Hể tắt lửa phải quét dọn bếp (lò gaz, điện) nên cẩn thận đề phòng đèn đuốc. Dưới bếp không nên chất củi. Mỗi tối nên dọn dẹp quét tước sạch sẽ. Lò đốt củi nên dọn sạch mỗi tháng một lần.
Chứng nghĩa ghi: Kinh Tăng Hộ chép rằng: ngươi thấy cây thịt đó thời đức Phật Ca Diếp, là người xuất gia, làm việc hái củi cho chư tăng. Lấy củi của tăng đem về phòng riêng đốt hoặc cho người khác. Vì nguyên nhân đó nên đọa địa ngục, làm cây thịt cao lớn bị lửa đốt chịu khổ đến nay chưa dứt. Lại nữa, sách Thiền Tông Bí Yếu ghi rằng, Đạt Ma Mật Đa tôn giả bên Tây Vức trí huệ sâu rộng, công đức đầy đủ khéo biết thông các pháp thiền định tam muội. Tại Nam Thiên Trúc có 2 Thầy tỳ kheo tánh tình hòa nhã, ưa làm việc thiện; nghe tôn giả là người tọa thiền số một liền muốn diện kiến bèn tìm đến chỗ tôn giả ở, nhưng phải qua 3 lớp hang. Lúc đó 2 người vào sâu trong hang thấy một vị tỳ kheo mặc y rách, tướng mạo xấu xí ngồi thiền trước ông táo, vì vị tăng mà đốt lửa.
Hai vị tỳ kheo hỏi:
- Thưa trưởng lão, Đạt Ma Mật Đa đang ở đâu?
- Hiện đang ở rất sâu trong hang này, các Ngài phải gấp gấp tới gặp Ngài.
Lúc đó 2 người vào tới hang sâu thấy vị tỳ kheo ngồi thiền. Lúc ấy, một thầy tỳ kheo xưng là bạn của lão tỳ kheo kia, làm sao để được gặp mặt. Lúc đó, vị tỳ kheo bạn thông tuệ ngộ thiền liền nói: “Nay tôn giả đây uy danh đồn khắp sao không đến đây mà ngồi”, rồi ra phía trước làm lễ và hỏi rằng:
- Đại Đức uy danh trong đời hiếm có tại sao tự khép mình làm tăng đốt lửa?
- Ngài hãy nghe cho kỹ: tôi nghĩ tới việc sanh tử khổ vô cùng tận. Như làm thủ đầu để được đốt nên tôi phải làm tăng đốt lửa đó, huống gì nghĩ tới thân ư? Còn việc đốt lửa lấy gì đủ làm khó? Tôi nghĩ tới 500 đời về trước làm thân chó đói khổ cùng cực chưa hề được no đủ. Ngay thuở đó có một gã say ói mửa văng ra trên đất, tôi được ăn đồ đó. Lại một thuở xưa nữa, có 2 vợ chồng người kia nấu nồi cháo chín rồi có việc phải đi ra ngoài. Tôi thấy không có người liền chun đầu vào nồi ăn cháo no nê rồi mắc luôn trong đó không chun đầu ra được. Vợ chồng người kia trở về đem cháo ra múc ăn liền chấn đứt đầu tôi. Trong 500 đời tôi thọ thân chó tuy có một lần ăn no, nhưng lại mất thân mạng. Lấy đó suy, việc sanh tử dài lâu cùng khắp 5 đường, thọ khổ vô cùng tận. Cho nên tôi nay chẳng nản hạ mình làm việc vì chư tăng mà nhận công việc đốt lửa này.
Lúc ấy, hai Thầy tỳ kheo nghe lời đó xong bèn quán sâu lẽ sanh tử khổ bức không cùng, liền được chứng quả Tu Đà Hoàn.
Thủy Đầu trông coi nước ăn uống ở nhà bếp, phòng khách và các nơi, nước luôn luôn cho đầy đủ sạch sẽ. Nước là nhu cầu thiết yếu chớ để thiếu hụt; cũng như không được tiếc giữ không cho hay đối đầu là giận dữ. Thùng nước dùng xong phải đậy lại; tháng mùa hạ phải dùng đãy lượt đặt bên cạnh để tiện lúc dùng thì lọc. Theo chúng đi quá đường (ngọ trai), tôn trọng khách, xách mang giúp hành lý và nên tiếp xúc thân mật. Vàng, vật quý theo lệ cũ thường trụ đòi hỏi riêng bị phạt.
Chứng nghĩa ghi: Kinh Tăng Hộ chép rằng: ngươi thấy một người đứng trong nước, vào thời đức Phật Ca Diếp xuất gia làm tăng gánh nước; thấy tăng dùng nước tâm hẹp hòi đầy lỗi lầm, hành xử theo ý, thay vì đủ nước dùng, lại không cho những người khác lấy. Vì nguyên nhân đó mà sa vào địa ngục đứng mãi trong nước và kêu réo “nước! nước!” Người kia thọ vô vàn thống khổ cho đến nay chưa dứt.
* Xay bằng cối đá, có khô, có nước: khô là xay lúa mạch, các loại (tùy nhà kho xử dụng); nước là làm đậu hủ, các thứ v.v…Phàm việc xay nên lọc cái tinh khiết không được giẫm đạp bừa bãi hoặc lấy riêng cho người, bị phạt. Công việc tạp nhạp gồm có: thùng nước, thùng sạch trai đường, thùng đựng cơm cúng, bồn sạch, nồi sạch, tương dầu của đại chúng; nấu thức ăn cho khách, nghe Điển Tọa dán thông báo, vào nhà kho, nghe pháp, phòng ăn, lúc dùng cơm.v.v…Làm việc lặt vặt hành đường, lặt rau, nấu thức ăn. Phàm công việc bếp núc nên làm với trách nhiệm không được giao khoán và luôn thay nước rửa sạch.
Hương Đăng lo việc đèn nhang, hoa quả trên chánh điện, các bàn thờ trong ngoài dọn dẹp quét tước sạch sẽ, châm trà, đốc thúc người đồng liêu lên chánh điện tụng kinh, trừ phi có việc công. Nếu giờ chỉ tịnh (ngủ nghỉ) chưa đến, bạch Thầy điển tọa. Ngày mồng một, ngày rằm tới kho lấy đồ cúng trù thần như hoa quả, hương đèn và đồ dùng, cả trà lá mà nhà trù có 10 điều phải cần người khoẻ mạnh. Nên chọn người trung hậu, công bình sung cử chức này.
Phần phụ: Nội Quy nhà trù gồm 10 điều: từ một que củi, một hạt gạo nên quán tới sự gian khổ khó khăn của người đem đến; một giọt nước, một cọng rau phải nghĩ tới công lao tạo thành, không dễ. Đã không làm hư hao của trời mà còn nên suy nghĩ cách chế biến sao cho hợp khẩu vị của đại chúng; mặn lạt, chua cay.. thích hợp, thơm tho, mềm nhuyễn thích nghi, thận trọng cho gia vị chớ sanh tâm khinh suất. Vì cúng dường là mong mỏi nhưng không tham cầu quả phúc. Tuy theo chúng làm việc mà luôn giữ đạo tâm; ngày 3 bửa cháo cơm đầy đủ nên không được bỏ một thời khóa công phu sáng nào. Sớm tối 2 thời giờ khắc thanh tu, phòng ngăn được biết bao tạp niệm. Có lời Minh rằng: “Tuyết Phong nấu cơm, Quy Sơn làm điển tọa, bậc cổ đức còn phảng phất hương thơm cho đến nay chưa mất. Hãy nhiếp phục tâm tán loạn, thận trọng lỗi lầm nơi miệng ngươi, gánh nước, bửa củi không quên mỗi việc làm. Nơi thiền đường chú tâm tọa thiền, ngoài viện giữ oai nghi. Ai cũng biết truyền y không ngoài cối giả gạo. Cho nên đây là hạnh môn, Phật trời có chỗ hoan hỷ, cầu phước liền được; tạo tội (nghiệp) liền tiêu. Tinh tấn, cần mẫn, khiêm cung là gốc của việc cầu phước. Khuyên chúng trễ lười là nguồn của tạo nghiệp, nên tuân lời Minh học hỏi lấy đó làm bậc minh sư các ngươi vậy.”
Sau đây là 10 điều Nội Quy:
1- Những người cùng làm việc nhà trù lo cháo cơm điểm tâm, đều lo việc bếp núc cùng chúng chịu cực khổ; nhứt loạt không cho lấy đem ăn riêng và giữ lại phần tươi ngon cho mình là phạt. Thời khóa công phu khuya không lên chánh điện tụng Kinh phạt. Ăn cắp của Tam Bảo gạo, dầu, đồ thức ăn bị phạt đuổi khỏi viện.
2- Người nấu nướng: xét, rửa rau, nấu thức ăn cho đại chúng. Nghe lời Điển Tọa điều động, bàn về món ăn một mực giúp hợp tác, không theo là phạt.
3- Phạn đầu: người chính lo việc nấu cơm cháo cho đại chúng cũng như rửa nồi, nấu 2 bửa cơm cùng tiếp tay khiên nồi cơm. Nồi niêu cũng như rửa dọn chén bát; có đám trai tăng phải dùng nồi lớn và phải 3 người nấu cơm tùy nghi phân công. Từ chối bỏ việc là phạt.
4- Dọn bàn, thâu dọn đồ ăn khách là người phụ tá (tiểu hỏa đầu), đốt lửa, rửa nồi, các việc tạp nhạp; giữ thức ăn riêng cho mình, phạt nặng. Xem giờ giấc gõ mộc bảng, vân bảng và đốt hương trước các bàn thờ, sai lầm: phạt.
5- Những việc vặt vãnh như tới kho lấy thức ăn cho khách. Lấy cắp để riêng cho mình, phạt nặng đuổi khỏi viện.
6- Trừ ngày trị nhựt không theo chúng tụng niệm các thời khóa: phạt.
7- Nơi nhà bếp lớn tiếng cải vả: phạt; cất rượu uống bắt được phạt nặng đuổi khỏi viện. Thêm phần mới: hút thuốc phạt.
8- Ngày cúng dường trai tăng, thức ăn, còn thừa đậu, rau… dùng lại trong bửa cháo chiều cho đại chúng, không được vứt bỏ, ai phạm bị phạt.
9- Không được đem nước sôi đổ ra trên đất giết chết trùng, kiến, ai phạm bị phạt.
10- Hương đăng xem xét hành lý của mọi người, mất là đền hay bị phạt.
Ngày… tháng… năm… Trụ Trì sao lục.
Chứng nghĩa ghi rằng: ba đời chư Phật chư Tổ đều từ hạnh môn mà ra, như Thiền sư Tuyết Phong Nghĩa Tồn, đầu tiên ở với Ngài Đức Sơn, làm việc nấu cơm, sau làm chủ núi Tuyết Phong là một đạo tràng lớn tới 1500 người thiện tri thức theo học. Thiền sư Quy Sơn Linh Hựu ở Đàm Châu đầu tiên ở với Ngài Bách Trượng làm điển tọa, về sau ở non Qui Sơn cũng lãnh đạo đồ chúng hơn 1500 người. Cho nên nay còn ghi rõ, nêu 2 vị làm gương khuyên nhau phát tâm, cũng như thấy cổ nhơn sắp xếp đâu vào đó; vốn không phân biệt cao thấp trong ngoài. Sách Vân Thê pháp vựng ghi rằng: tính lui về thời niên thiếu 10 ngón tay không đụng tới nước; trăm việc chẳng can dự tới, ngồi hương thì bảo nhức chân, đi lại bảo rằng đau lưng. Sớm tối tinh chuyên tu tập bèn cho rằng thân tôi ốm yếu nhiều bệnh. Hoặc có người gạn hỏi, bèn nói: người ngu dùng sức, kẻ trí dùng tâm; kẻ ngu tu phước, người trí tu huệ. Ôi! quả thật nếu nói như thế đâu chẳng thấy Tổ Ca Diếp theo hạnh Đầu Đà là ngu sao? Lục Tổ giả gạo là ngu; Tuyết Phong, Quy Sơn nấu cơm, điển tọa là ngu hết; đến Phật còn không bỏ việc xâu kim (cho cụ già) làm phước không chừng Phật cũng ngu ư? Ngoài ra, sách Sùng Hành lục ghi rằng: đời Tống Vân Cư Giản lúc đầu vào hầu Lịch, Lịch cho nói liền 3 ngày, lấy làm kỳ lạ. Nhưng sau dạy khắc khổ làm việc chúng, trong lúc đó Giản thưa bạch rành mạch: chủ việc, củi đuốc là phần vụ quản trị trong chùa, cổ kim không so đo phòng giữ. Ôi! người xưa phong thái cao vời đến như thế cũng khiến cho người nghe sanh lòng phấn khởi. Nhưng đây chẳng riêng là nhà trù khuyên làm 10 việc như thế mà tất cả mọi hành động đều cần phải biết ý nghĩa này.
Trị tuế: đúng lý ra là ruộng rẫy, vụ canh tác cày bừa các loại, như công việc thu hoạch (hoa lợi như lúa, đậu); kiêm quản lý trông coi cây cối tre trúc của chùa. Như sửa chữa phòng ốc phải dùng vật liệu chắc chắn, nếu như được chúng bàn nhau và đều cùng thuận. Trước trình ngài Phương Trượng rồi sau mới đốn hạ cây cối. Nếu tự ý đốn một gốc cây phạt bồi thường hay kỷ luật; như đem làm vật trao đổi hay tự ý cho người đều phải đền lại hay bị phạt cho ra khỏi viện. Đối với những công tác ruộng rẫy, canh tác, thu hoạch v.v.. mà lười biếng tránh nặng tìm nhẹ không thật tâm phải áp dụng biện pháp phạt hay cho ra khỏi viện.
Chứng nghĩa ghi theo sách khác bổ túc cho rằng, mùa hạ chuẩn bị củi cho tháng tiết trời mưa ngâu; mùa đông chuẩn bị đủ chất đốt cho nhiều tuần phòng khi tuyết rơi. Đây là công việc tối cần thiết. Đốn chặt cây, củi cần phải lựa chỗ đất hầu giữ lại những cây làm cho phát triển bảo vệ môi trường. Hể đốn củi phải lên núi chặt đốn lấy đem về dùng. Đại chúng ra ngoài làm việc nông đều phải nhiệt tâm không được lẫn trốn. Dao, búa, dây buộc, đồ chuyên chở v.v... phải luôn kiểm tra; người nào ở chỗ thâm sơn có thể làm công việc này an toàn.
Tri sơn: người trông coi về ruộng nương gọi là tri đầu; quản lý tổng quát là tri sản; phải biết đất đai của chùa giới hạn rõ ràng phân minh không được xâm lấn phạm vi người khác đến phải đưa tới kiện tụng. Mỗi năm tiết mùa xuân họp 2 chúng lại để làm việc và cùng xem xét lại giới hạn một lần. Đất đai nên khai khẩn kịp thời hợp vụ mùa trồng trọt, chậm trễ: phạt. Nếu có tư riêng phạt cho ra khỏi viện. Tới mùa thu hoa lợi phải đích thân tới nơi kiểm việc giao thu rõ ràng. Hể có người mới nhận công việc, đưa đi xem xét các nơi phòng khách, nhà kho và việc làm về trước; chỉ cho biết giới hạn rõ ràng tường tận; 2 bửa ăn thay đổi cơm cháo và nên đề phòng việc mất trộm. Nếu có người chôm lấy cắp phải đưa tới phòng khách xử lý, không được tự ý đánh đập đưa tới sự lôi thôi rắc rối.
Tuần sơn - hợp tác với Tri sơn làm việc: tre, gỗ, trà, măng tre… đều phải biết để quản lý. Như có kẻ trộm tre, gỗ không được tự thả dông mất, nếu điều tra biết được là phạt nặng.
Cơm cháo 2 buổi ở trai đường cũng quán sát y như vậy.
Sài đầu (chủ việc củi đốt) tức là việc nhỏ, mỗi ngày lo bổ củi cung cấp đủ cho nhà bếp. Chừng ấy công việc như quy định, nếu nhiều hơn phải chi thêm tiền, ít lại giảm bớt tiền chi tiêu. Quanh năm không được đẵn cây, đốn gỗ, như phá núi, đốn củi bán v.v…làm thiệt hại môi trường sống.
Tri sơn không được tự chuyên làm chủ, đốn củi không được bán riêng. Điều tra ra được phạt bồi thường. Dao, dây, đồ dùng trong nhà đều phải lo sắm đầy đủ. Trường hợp gặp vị tăng trong chùa viên tịch, nên luân phiên canh giữ kim quan; cử người tiếp nhận lễ vật, và bàn thảo lễ hỏa thiêu. Công việc này phần nhiều do Phật tử đảm trách.
Hương đăng sơn liêu: thay trà, châm nước, lo cơm cúng, đốt đèn suốt 3 ngày. Vào kho lấy giày cỏ cho khách. Mồng một, rằm lấy nhang đèn, trà quả cúng Phật phải tới kho lấy để dâng cúng. Quét dọn liêu phòng khách, trông coi hành lý (khách), nếu để bị mất phải đền bồi.
Phụ: sơn liêu qui định 7 điều. Luận về sơn mạch (sung thạnh) là một ngôi chùa núi có long mạch tốt; lâm thọ là một chùa có rừng cây (có sự che chở) sum thạnh. Tre, gỗ, hoa, quả, phòng chư tăng, kho chứa, đất đai, núi đá…nhờ phong thủy không làm thương tổn mọi vật chung quanh là hợp sự hưng thạnh của thiền môn. Tăng chúng vui hòa và được sống chung yên ổn. Vì vậy, nên giữ môi trường không nên đốn chặt bừa bãi; mọi đất đá không được tự tiện đào xới làm long lỡ.
Đây là điều đại cương của sơn liêu: ngoài ra, những điều khác có nêu rõ trong các quy tắc sau:
- Tuần núi bất luận gió mưa: chùa núi cử người tuần tra trong ngoài, trên dưới, chung quanh, không nên lười biếng đến đổi có kẻ trộm vào lấy đồ đạc. Người nào lười biếng lánh nặng tìm nhẹ, phát hiện được phạt nặng.
- Ở sơn môn có tre, gỗ, hoa, quả, củi v.v…không được tự đem bán. Nếu phạm bị phạt cho ra khỏi chúng.
- Công tác nhẹ phải nghe lời Tri sơn phân phối; đốn chặt cây gỗ, củi, cây cối; không được tự ý đốn chặt ngọn (cây lớn) hay phứt trụi không chừa lại cây nào. Vi phạm là phạt.
- Công tác, nếu chùa có công việc, vừa nghe kêu gọi liền đáp lời, nếu người nào cố tình phạm bị phạt.
- Nơi sơn liêu mà đánh bài không luận tăng tục, hể ai phạm đuổi ra khỏi chúng.
- Nếu đánh mắng ngay trong liêu phòng, không luận tăng tục, hể phạm là phạt ra khỏi chúng.
- Tri sơn, trông coi chúng các liêu nên thưởng phạt phân minh, nếu như thiên lệch là phạt.
Ngày…. tháng…năm… Trụ Trì…. sao lục (dán ở sơn liêu).
Chứng nghĩa ghi rằng: như chung quanh tòng lâm có tre, gỗ cần nuôi dưỡng làm cho cảnh trí thêm đẹp, phải chăm sóc cho xanh tốt để giữ long mạch. Vì phong thủy tốt thời tòng lâm mỗi ngày càng hưng thạnh; sơn khí ngày càng linh; không xuất hiện người tài cũng làm đẹp cảnh quan.
Trông coi dọn dẹp quản lý nhà tắm, kiêm việc coi sóc bệnh nhân về thuốc thang, cơm cháo các việc, hay chỉ xem xét các phần nhà tắm, củi rác v.v…phải lo dự trữ củi, đề phòng khi thiếu hụt, là phận sự các Ban liên hệ như đã nói trên.
Phần phụ: Qui tắc nhà tắm, nêu rõ trong 3 điều: đun nước nóng, dọn quét sạch sẽ, chà rửa tươm tất, vì đó là bộ mặt xưa nay, dù không là bậc chân nhân chưa đạt sắc không; nhưng thần thánh luôn thân đến cõi trần, biết hết nóng lạnh mới làm sáng cái tự tánh vốn linh:
Cho dù vắng khách lại qua
Thánh nhân cũng hẳn đoái hoài ghé thăm
(Tảo địa - lời ghi chú của người dịch).
Quả thật một tơ hào cũng chẳng buộc chân thiền khách được, chỉ có tâm hướng nội tìm lại chân diện mục mà thôi. Có bài minh rằng:
Núi cao đường xa
Đốn củi gia công
Nấu đốt nhiệt hỏa
Công sức bỏ ra
Người mê không biết
Tắm rửa tối đa
Trẻ thơ cười vui
Nước nóng ngâm đã
Việc tắm thích thỏa
Mọi sự an hòa
Rửa tâm tẩy ý
Ngày càng sáng ra
Báo đức làm sao
Chợt hiểu nước là
Nguyên nhân tất cả
Lời minh tuân thủ …
Sau đây là 13 điều quy tắc thuộc về nhà tắm:
1- Mỗi ngày tắm gội đầu sạch sẽ, chuẩn bị đủ vật dụng tắm như đốt củi, nước nóng cho vào bồn tắm
2- Đốt hương, mặc niệm cầu Thánh tăng thân lâm tới trong khoảnh khắc. Trước mời Phương Trượng, kế thỉnh khách lớn tuổi; sau gõ 3 tiếng bảng nhỏ cho 2 vị lãnh chúng 2 dãy tắm, tiếp đến 4 tiếng bảng cho chư tăng thiền đường.
3- Sau đó gõ 2 hồi 4 tiếng cho đại chúng; kế 3 hồi lại 6 tiếng cho khách khứa tắm. Không đợi bảng nhảy vô tắm đại bị phạt.
4- Có khách quí như các vị Kinh sư lo việc Kinh sám. Đun nước nóng trước mời khách tôn túc; kế các vị Kinh sư, sau hương đăng và người làm việc; tiếp theo những người làm việc nặng và sau cùng là đại chúng.
5- Những tiết Cốc Vũ đến Hạ Chí năm ngày tắm một lần. Mùa hạ đến xứ nóng mỗi ngày tắm một lần. Xứ nóng tiết thu 5 ngày tắm một lần; Thu phân đến Cốc Vũ nửa tháng tắm một lần.
6- Trong phòng tắm có treo một bảng nhỏ; nước vừa lạnh gõ 2 tiếng, nước đun sôi gõ 3 tiếng; phải cho thêm nước lạnh vào, gõ một tiếng bảng. Tắm không được réo gọi lớn tiếng, vi phạm là phạt.
7- Phàm khi tắm mỗi người phải nghe theo thứ tự hiệu lệnh bảng, không được làm trái (trừ tuổi nhỏ), người nào sai trái cuối cùng bị phạt.
8- Phải xem ngó 2 bên và mọi sự nói cười ồn ào, cũng như khạc nhổ v.v…bị phạt.
9- Thay quần mặc áo mỗi mỗi nên từ từ không được buông lung, vi phạm là phạt.
10- Khi tắm mỗi người tự lượng, không được tắm lâu quá làm trở ngại người sau, vi phạm bị phạt.
11- Xử dụng chủy giác (sừng nhọn) bị phạt
12- Có bịnh ghẻ lở nên từ từ tắm sau, không được tắm trước, người nào phạm bị phạt.
13- Tăng trực lo việc tắm gội lưu tâm quán sát xem có ai phạm, y theo Nội Quy để xử phạt; không chiếu Nội Quy bị phạt.
Ngày…tháng…năm….. Trụ Trì…. sao lục (dán bên phía ngoài tường phòng tắm).
Chứng nghĩa ghi rằng: Phật dạy lập phòng tắm để tẩy rửa thân thể hầu chuyển tải đạo. Phật dạy Bồ Tát - tụng giới - để nhập giới vào thân phát sanh định huệ. Sao lúc tắm còn phóng túng thì thân dơ chưa sạch; tâm dơ sanh trước, là người không biết tàm quí vậy. Vả lại, đã làm ông tăng tiểu giải, tắm gội nên tránh trống trãi; hong phơi đồ lót chớ nên phơi chỗ đường qua lại. Dựa theo sách Phật Tổ Thống Kỷ, có vị tăng Như Bảo tại Thường Xuyên, chùa Giác Hoa. Nghe cổ đức nói lấy nước cho chư tăng tắm, có công đức để hồi hướng sanh về Tịnh Độ; bèn sửa nhà tắm cúng chư tăng; cho đến 81 tuổi còn mời chư tăng đến nhà uống trà, nói lời giả biệt mà qua đời. Y cứ câu chuyện trên cho thấy rằng, người lo một công việc tắm rửa mà công đức thật là nhiều như vậy. Việc tạo lập nhà tắm hoặc do quyên góp hay xuất của Tam Bảo, tùy nghi thiết lập không thể thiếu được.
Tịnh đầu (dọn rửa cầu tiêu) 3 thời, thời quá đường sau khi đóng cửa: 4 tiếng bảng, bật đèn sáng, thời khóa tụng tại chánh điện, chọn thay các thùng sạch. Miền Bắc phần nhiều không dùng thùng sạch, chỉ dùng phòng vệ sinh nên phải quét dọn sạch sẽ. Đi xong cần rửa tay bằng nước sạch, lau khô bằng khăn tay. Sau thời công phu tối xong đem cất các thùng sạch vào. Phàm ngày tắm, nếu không có người lo, liền cử người thay thế theo qui tắc nhà tắm. Nồi nấu nước tắm có thể nhờ Tri viên lo liệu cũng được.
Chứng nghĩa ghi rằng: nhà xí dơ nhưng gọi là tịnh đầu có 2 nghĩa gồm cả sự và lý. Sự như trong luật có rất nhiều như để sám hối tội phá giới mà các tỳ kheo phạm; có nghĩa tỳ kheo phạm giới thường phải lau quét dọn cầu tiêu sạch sẽ làm cho chúng tăng hoan hỷ để phục giới đã phạm mà được lại giới thanh tịnh. Lý như luận Đại Thửa Chỉ Quán ghi rằng: phàm đại tiểu tiện cũng đọc lời quán tưởng để quán…Đang ở chỗ dơ nghĩ tới lời này: đây là những việc bất tịnh. Hẳn làm cho tâm Hữu liền thành phi hữu. Nay ta phải biến nơi bất tịnh này làm cho thanh tịnh, tức quán chỗ dơ thành ao báu, suối báu, trong đầy nước thơm thanh tịnh, hoặc đầy sữa lạc. Tự nghĩ thân ta thành thân 7 báu để vứt bỏ đại tiện liền thành sữa thơm, mật ngon v.v…Lại phải biết tướng tịnh này do tâm tạo, nó giả dối không thật. Đó là pháp quán được gọi là phương pháp chỉ (dừng, dứt), biết đây là chỗ bất tịnh từ thân thải ra cũng là vật bất tịnh. Do tâm quá khứ huân tập ác nghiệp nên hiện tại mới hiện tướng bất tịnh này. Nhưng nghĩ tâm Hữu tức phi Hữu, chỉ nhứt tâm bình đẳng vô niệm gọi là chỉ (pháp dừng dứt).
Hỏi: như trên nói có pháp tịnh, bất tịnh tuy do tâm tạo cũng đều do nghiệp quá khứ huân tập thành, làm sao có thể biến thân giả hiện tại gọi là chuyển tâm được?
Đáp: Tâm có đủ pháp tánh, nhưng không gặp duyên thời không khởi. Cho nên nhuộm trong dơ uế do nghiệp quá khứ mới có hiện tại. Ao báu, sữa lạc…nếu không qua các duyên hẳn không thành. Nếu gia tâm quán tưởng tức trừ dứt các pháp bất tịnh; tâm huân thanh tịnh nên các tướng dơ phải diệt. Đây nói cách ngăn dứt nghiệp quá khứ mà định có thể huân tâm khởi tướng. Công phu hiện đời cũng do tâm huân tập mà phát ra diệu dụng. Như đang trong nhà cầu (rest room) mượn quán tâm huân tập các giả tướng như thế. Vì tâm đã thay đổi tướng cũ nên trong hiện tại trừ bỏ được niệm yêu, ghét.v.v…Ngẫu Ích đại sư nói: “Quán tướng đại tiện dơ là sạch có thể trừ dứt tâm yêu, ghét. Quán đồ ăn sạch là dơ liền trừ hết tâm yêu, nên yêu, ghét ắt hẳn dứt sạch, bèn dứt hết phiền não.” Quán giả thuần thục (nhuần nhuyễn) ắt theo niệm chuyển đổi; phương tiện xuất thế thuần thục qua tiến trình này. Nếu ngộ được bản chất tịnh - uế này là có thể ngộ được cõi đại thiên không ngoài tâm. Từ đây dơ dứt tâm tịnh mà không biết thân là pháp giới, pháp giới là thân ta. Thân pháp giới của ta chẳng phải một chẳng phải 2 tức 3 độc tự trừ, các tội tiêu diệt. Đây chẳng phải do tịnh đầu là gì, nên quán sát như thế. Hết thảy mọi người đều có thể quán xét như vậy.
Tri ốc: trông coi bảo trì vật dụng, điện đường, phòng xá, nhà bếp, nhà kho các nơi, nóc nhà v.v…luôn luôn xem xét có chỗ nào dột hư phải gấp sửa lại; hoặc sửa chữa hay tạo mới cũng thưa cho Thầy Giám Viện biết để kịp thời sửa sang. Tháp Tổ và các tháp khác cho chí đường sá hư hỏng, đồ đạc tổn hại v.v…bàn thảo với Giám Viện tìm cách sớm lo tu bổ. Như sửa sang các cửa nẽo đều phải thận trọng, không nên xem thường. Nếu thực sự sửa không được nên thỉnh ý vị cao minh chịu khó xem qua mới được. Phàm ao, giếng không được lấp bừa; nhà mát không được tạo lộn xộn. Tre, gỗ, không được đốn chặt bừa, đất đai không được đào xới lung tung…Nếu cố tình đào lấp, đốn hạ bị ảnh hưởng gió mưa. Tri ốc cùng với chủ sự làm, đồng bị phạt cho ra khỏi viện. Nếu Trụ Trì đứng ra chủ chốt; 2 chúng thống nhất đồng ý đưa ra bàn công khai giữa chúng. Nếu người can gián lãnh thế Trụ Trì. Giám tu cho chí Tri ốc lo việc phụ. Nếu không có Tri ốc thì Giám tu sửa sang tu tạo trông coi thợ thầy, nhân công, tiền bạc vật liệu v..v…công việc này nên khéo nơi công tác, người lão luyện mới cử sung công việc này.
Hai phần này phải tuần tự mà làm. Điều quy định này, xem “Chứng Nghĩa, Chương Trụ Trì”, phần mục tu tạo tăng phòng ở trước có nói rõ.
Hóa chủ: Có nhiều dạng khác nhau, như nói gặp tòng lâm đơn sơ vô sản, lỡ ngộ năm mất mùa lúa thóc không đủ dùng phải xin Hóa chủ tiền mua gạo thóc; những việc liên hệ tới đại trùng tu Phật điện cũng thỉnh xin Hóa chủ để sửa chữa. Ngoài các việc ấy ra, còn có Hóa chủ thực phẩm, Hóa chủ muối, Hóa chủ giầy cỏ, Hóa chủ hương đèn v.v. Phàm Hóa chủ phải hóa duyên xin tiền bạc, vật dụng, đi nhận ở các địa phương, giả sử gặp trùng hợp chỉ nên xin tùy hỉ cúng dường mà không nên nài ép miển cưỡng. Nếu dưới hợp nhân tâm trên mới ứng với tâm Phật. Lời lẽ ngôn từ ứng xử cần phải cho thật khéo léo. Nếu có một chút gì sơ sót cẩu thả là phạt hay cho ra khỏi viện. Nói chung khởi sự không nên quyên góp nếu thấy bất đắc dĩ, như công việc điều hành tốt hẳn không lập công tác quyên giáo này. Nếu ai mượn danh nghĩa ra ngoài quyên góp riêng, lập tức tẩn xuất khỏi viện.
Chứng nghĩa ghi rằng: Tòng lâm xưa nay phần nhiều được an ổn là do Hóa chủ tiếp xúc, lạc quyên; Trụ Trì tán dương công khó nhọc, tưởng thưởng công lao đáng kính, cho đến kẻ khoe công, khi chúng, giữ bám đàn gia hoặc chứa của riêng, sai lầm nhân quả làm thoái tâm đàn việt. Thời Phật tại thế có các đệ tử từ xa về ghé qua các thôn lạc, dân trông thấy nhưng đóng cửa lại. Hỏi họ vì cớ gì, họ bèn nói rằng, sợ chư tăng tới quyên giáo. Ôi! Há không lấy đó làm bài học soi sáng hay sao! Không biết ý nghĩa chữ “Hóa” có nghĩa là lấy đức cảm hóa người, chứ không phải chỉ việc quyên góp đồ vật của người; nên xem lại ý nghĩa này mà suy nghĩ cho kỹ.
Kinh Hoa Nghiêm phẩm Tịnh Hạnh ghi rằng: “thấy người không xả, cầu cho chúng sanh, thường chẳng xả lìa, được công đức hơn. Thấy người hay xả, nguyện cho chúng sanh, trọn được xa lìa, 3 đường ác khổ”. Căn cứ 2 bài kệ này đối với người không xả còn phát tâm từ, đâu thể khẳng quyết với người đã xả của cải mà ý còn giữ lợi lộc. Người làm Hóa chủ phải hiểu rõ việc này.
Hóa phạn: vai trò này so với Hóa chủ ở trước không giống. Đây chỉ hóa duyên để nhận trai phạn mà thôi, do lấy ý từ chữ “khất thực” mà ra, tức tiếp nạp ghi nhận để thâu thập đồ cúng. Công việc này phần nhiều giao cho người rành việc. Không thể nhân đây làm chiếu lệ, lơ là được, hoặc quản lý nhân sự hoặc đến nhà ngưòi nhầm chỗ khuất nói chuyện với người nữ, gởi tặng vật qua lại v.v... đều bị phạt.
Chứng nghĩa ghi rằng: Hóa phạn (xin cơm) cũng gọi là hóa duyên. Công việc này phần nhiều gần gũi người thế tuc. Cho nên tránh không được ở chỗ khuất cùng người nữ nói chuyện để tránh 2 việc: ngoài tránh sự gièm pha, tỵ hiềm, và trong phòng hộ tâm mình. Kinh Pháp Hoa chép rằng: nếu có nhân duyên lúc vào nhà người một mình, chỉ nhất tâm niệm Phật. Nếu có thuyết pháp cho người nữ nghe không được cười hở răng, không để lòi ngực bụng mà nhẫn đến vì pháp; do không muốn thân cận, huống gì là việc khác ư? Đây là lời vàng tha thiết răn nhắc đó. Ngoài ra, Kinh Hoa Nghiêm, Phẩm Tịnh Hạnh ghi rằng: thấy người nghiêm tốt, nguyện cho chúng sanh, đủ 32 tướng tốt, lấy làm trang sức. Thấy người tướng xấu, cầu cho chúng sanh, bỏ trang sức hảo, hành hạnh đầu đà. Thậm chí nói rằng:Thấy người đoan chánh, cầu cho chúng sanh, đối với Phật, Bồ Tát, thường sanh lòng tin thanh tịnh. Thấy người xấu xí, nguyện cho chúng sanh, đối với việc bất thiện, không sanh ưa đắm.
Luận về tướng đoan nghiêm đối với người nữ chiếm đa phần. Cho nên 4 bài kệ trên để giáo hóa cần phải ghi khắc trong tâm; không chỉ vị Hóa chủ mà tất cả tăng chúng cũng nên ghi nhớ.Thu nhận đồ cúng là vai trò của Hóa phạn. Người đem cơm cúng vị tăng; vị tăng liền dùng cơm này dâng cúng Phật trước, sau mới thọ dùng. Phần nhiều những vị tăng tu khổ hạnh mà người phát tâm làm việc này được phước. Bởi vì, tòng lâm ngày nay đa phần liên hệ loại hóa phạn này, quy ra tiền bao nhiêu cúng bấy nhiêu. Giả sử cúng một ngày đủ số 30 cân, đem 30 cân tính ra số tiền bao nhiêu. Tiền do sức lực tạo nên không thể không quan tâm; huống nữa nhân được cúng dường đại chúng là đã có công đức rồi. Duy phải thật tâm hết lòng mà làm, những việc khác qui định nói rõ ở sau. Nhận cơm đầy đủ rồi đem tới nhà khách mời các Thầy trong chúng chia đều.
Ngày Tết: mồng một mỗi người lãnh trách nhiệm trông coi tiếp khách, chuẩn bị thức ăn. Sáng mồng 2, lên phòng Phương Trượng dùng cơm, dùng trà; rồi phân nhau đưa thiệp chúc Tết tới thí chủ.
(Trong nguyên bản, có một số việc thấy không thích hợp như: cơm chúng thường trụ qui ra mỗi cân bao nhiêu tiền, mỗi quí hợp bàn giao công việc, phân phối giày dép, mỗi tháng cấp phát mỗi người bao nhiêu v.v…Người dịch lược bỏ không dịch chừng 6, 7 dòng. Mong các vị cao minh hoan hỷ).
Nếu có cúng trai tăng, đại chúng đến trai đường theo chúng thọ trai.
Chứng nghĩa ghi rằng: người được đề cử vào việc thu vật cúng là thay thế sự vất vả khất thực của chúng tăng. Trong lúc thu nhận đồ vật cúng đó mà tìm hiểu ý nghĩa của việc thu nhiếp bản tánh mình. Luận khi Phật còn tại thế lưu tiếng thơm, chỉ lấy khất thực làm món ăn chánh mạng.
Tiếng Phạn là Tỳ Kheo, Trung Hoa dịch là khất sĩ. Có nghĩa là người xin ăn; trong xin Pháp để dưỡng tánh; ngoài xin đồ ăn để nuôi thân. Xin ăn để nuôi thân, xem phần sau nói rõ. Xin Pháp để dưỡng tánh như nói, tôi xin tức đồng với kia xin. Kinh Hoa Nghiêm phẩm Tịnh Hạnh ghi rằng, vào xóm khất thực, nguyện cho chúng sanh, nhập sâu pháp giới, tâm không chướng ngại, đến cửa nhà người, cầu cho chúng sanh nhập vào hết thảy trong cửa Phật Pháp. Vào nhà người rồi, nguyện cho chúng sanh, đạt được Phật thừa, bình đẳng 3 đời. Dựa theo 3 bài kệ đây, ta thấy rõ ràng, nghĩa lý sâu xa cần phải tham cứu kỹ lưỡng. Như nói nhập sâu pháp giới tức lấy tục hiển chân, lấy sự đạt lý. Pháp giới tức bản thể thân tâm chúng sanh vậy. Từ xưa tới nay, sáng suốt rỗng thông, rộng lớn như hư không chỉ có một chân cảnh mà thôi, không có ngằn mé mà bao hàm muôn loại, rỡ rỡ ở khoảng giữa mắt tâm nhưng cùng chẳng thấy nhau. Lồng lộng ở nơi sắc trần mà lý không thể phân biệt; không thấu triệt con mắt pháp, lìa minh trí của nghĩ suy, không thể thấy tự tâm không chướng ngại như thế đấy. Đây gọi là nhập vào hết thảy cửa Phật Pháp, và cũng còn gọi là đạt nhập Phật thừa 3 đời bình đẳng vậy.
Xin Pháp để dưỡng tánh như thế, trọn ngày nhận vật cúng nhưng không thấy chỗ thu nhận đồ; suốt ngày vất vả nhưng không thấy có vất vả vì trong đó phước huệ không thể nghĩ bàn. Đây chính là nghĩa của việc thu nhận vật cúng vậy.
Lời phụ: thu cúng vật dụng có qui định 18 điều. Ba đời chư Phật đều từ hạnh môn mà ra, huống chi chấp một việc thu cúng, khuân nước, vét bùn, xông pha với lạnh lẽo, dãi dầu với nóng bức, cũng thành không. Tâm thành cúng chúng mà không nghĩ tới đạo thật cũng khó đảm trách công việc này.
Cổ nhân nói rằng: nhận đồ của 10 phương thí chủ cúng làm cho họ tăng thêm phước huệ; cúng dường cơm cho 10 phương tăng, người cúng thành đạo nghiệp. Phi người phát đại nguyện không thể làm được như đã phát nguyện thực hành nên cần dựng cờ tinh tấn, mặc áo nhẫn nhục, ngồi xe cửu viễn, mang tâm lợi tha ắt được phước báo trong tương lai. Người gây tội lỗi sợ hãi vây chặt thêm sâu, tâm buông lung khởi lên, nhân sắp thành Phật lại là địa ngục, có ăn năn cũng đã muộn. Cho nên Thanh Quy lập ra để giữ chí, nay đặt cử 2 người thủ liêu để kiểm soát người ra vào sớm tối; có lỗi hẳn nêu lên, lỗi nhỏ chỉ thưa bạch nơi nhà khách, lỗi nặng trình lên Phương Trượng. Nếu thủ liêu biết lỗi nhưng vẫn dung túng che đậy, bị chúng phát giác cùng bị phạt theo như nguyên tắc sau đây, mỗi người phải tôn trọng:
1- Ra ngoài bôi bác Tam Bảo, phạt nặng đuổi ra khỏi viện
2- Nhận vật cúng về (khất thực), rửa chân, về phòng, tọa thiền, không được đàm luận làm động người khác, ai vi phạm bị phạt
3- Người đồng hành cải cọ gây náo loạn, phạt nặng
4- Thùng đựng cơm mỗi năm sửa mới một lần; như cố ý làm hư hỏng mà không chịu sửa lạI bị phạt
5- Khiêu khích, kình cải om sòm động chúng, cho ra khỏi viện
6- Phàm có việc gì, trước thưa cho chúng trưởng, đưa lên Phương Trượng, người nào vi phạm bị phạt
7- Quyên góp tiền của riêng hoặc lấy cơm canh, tiền gạo bị đuổi khỏi viện
8- Nhân lo việc riêng đến đổi bỏ việc ăn uống bị phạt
9- Gió mưa, lạnh nóng không chịu nấu ăn, phạt
10- Ra ngoài gây sự tranh đấu với người, phạt
11- Đem của Tam Bảo như tre gỗ, hoa quả v.v.. cho người bị phạt
12- Tới bữa ăn không theo chúng, xài tốn nhiều củi nước của Tam Bảo và dấu chứa củi riêng, nấu đồ ăn riêng trong phòng, phạt
13- Vô cớ một ngày không đi khất thực, phạt như nấu cơm một số ngày
14- Nếu có bịnh phải nhờ người thay thế, cho đến nửa tháng không hết bịnh, giao qua người khác đảm trách, vi phạm bị phạt
15- Để tăng hay tục ở trong phòng ăn uống tại nhà ăn
16- Tự ý ra ngoài ngủ qua đêm hoặc đem cơm cho người bị phạt
17- Ngoài phòng ngủ nói cười lớn tiếng, tháng hạ ngủ cởi trần mặc quần đùi là vi phạm Nội Quy; chúng trưởng không đưa ra, đồng bị phạt
18- Không chờ hiệu lệnh bảng, chuyên lấy đồ đựng cơm cháo ngoài 3 bửa ăn, lấy thức ăn như cơm canh mà không đem trả lại nhà trù. Quá thời đem trả bị phạt
Ngày… tháng… năm… Trụ Trì …. sao lục.
Dán Nội Quy ngay trong trai đường chỗ nhận đồ cúng.
Chứng nghĩa ghi rằng: Thời Phật tại thế phân chia đi khất thực, xem đó là qui định đúng đắn. Ngày nay ở Đông độ số nhà cúng dường rất ít không đủ cúng cho chư tăng một bửa ăn. Vả lại, tăng chúng đa phần phức tạp không có oai nghi, nếu cùng ra ngoài khất thực không khéo khiến mọi người không phục. Hơn nữa, ngăn gìn giữ đạo nghiệp nên lập công tác này thay cho chúng đi khất thực. Nhưng việc nhận đồ cúng để thay sự lao nhọc cho chúng rồi, chư tăng cớ sao ngồi an hưởng? Cho nên luật định lúc thọ thức ăn, phải tưởng 5 phép quán này:
1- Kể công nhiều ít, xem của kia từ đâu đem đến
2- Xét đức hạnh mình đủ thiếu để nhận của cúng
3- Ngăn phòng tội lỗi mà tâm tham là gốc
4- Đúng là món lương dược để trị liệu thân khô gầy
5- Vì muốn thành đạo nghiệp nên mới thọ thức ăn này.
Do 5 phép quán này thích hợp với việc tăng tấn đạo nghiệp, cho nên nói rằng thân nhờ thức ăn mà tồn tại; đạo do thân tu mà thành. Như thế, lần lượt không để tiêu hao của tín thí, nếu không như vậy, cũng khó mong đền trả. Sách Thiền Tông bí yếu ghi rằng: xưa tôn giả Đề Bà sau khi đắc pháp đến nước Ca Tỳ La, ở đó có một trưởng giả tên là Phạm Ma Tịnh Đức. Một hôm có một cây trong vườn mọc tai nhưng thoảng mùi thơm rất ngọt ngào. Chỉ có trưởng giả và người con trai thứ hai La Hầu La Đa hái ăn; ăn xong thân thành cao lớn. Ngoài ra, những quyến thuộc khác không ăn. Tôn giả Đề Bà biết nguyên nhân đời trước bèn đến sanh vào nhà kia. Ông trưởng giả hỏi nguyên nhân đó, Đề Bà đáp:
- Ông từng cúng dường một vị Tỳ Kheo phải không? Song vị Tỳ Kheo này đạo nhãn chưa minh, tiêu hao của tín thí mà quả báo là làm tai cây. Chỉ ông và đứa con trai tinh tấn cúng dường nên mới được hưởng.
Đề Bà hỏi ông trưởng giả:
- Ông bao nhiêu tuổi?
- 79 tuổi.
Đề Bà nói:
- Ông học đạo không thông lý, chuyển thân trả nợ tín thí. Năm Ông 81 tuổi thời cây ấy không mọc tai nữa!
Như qua câu chuyện này nên lấy đây làm bài học.
Kinh Phạm Võng ghi rằng: “Thà vì miệng này nhai nuốt hoàn sắt nóng, và lửa đỏ hừng hực cháy trải qua trăm nghìn kiếp, chứ trọn không phạm khẩu nghiệp.” Ăn thức ăn trăm vị của tín thí đàn việt mà không biết xét nghĩ. Đây là lời chân thật của chư Phật dạy. Tăng thọ nhận của cúng dường phải nên suy xét nghĩ đó.
Trang chủ hay cũng gọi là Tịnh chủ: làm chủ tịnh thất. Người đời hay gọi là viện dưới. Phàm trang trại, công việc đất đai đều là chuyên gia làm chủ. Đất ruộng, nhà cửa, nông cụ… hẳn đều thuộc quyền kiểm soát, tu bổ. Nông trại nhỏ tùy thời phân phối; còn như trang trại lớn phải bạch chư tăng thường trú định đoạt việc canh tác, thuế má…nhứt loạt phải minh bạch. Đừng để chủ tá điền xéo bớt, như canh tác ruộng rẩy trước hết phải kiểm tra rõ người điền chủ tốt xấu, và trình chư tăng thảo luận rồi mới cho lãnh ruộng canh tác. Đừng vì tham lợi nhỏ mà đem tâm riêng tư chia cấp đến nổi về sau gặp khó khăn khốn đốn. Giám thu trông coi việc thu xuất lúa gạo, nộp thuế các khoản phải giao nộp rõ rằng minh bạch, đừng để sai sót. Lấy nhiều trả ít, lấy ít trả nhiều… không thể như vậy được. Thuế má phải xem xét chi li việc này. Trang chủ giám sát 2 việc: thu, chi; việc đơn giản phải có là người liêm chính, lão luyện mới phát tâm làm; phụ tá Trụ Trì sung chức này.
Qui tắc cổ cho rằng Trang chủ, Giám thu đều liên hệ công việc trên; ngày nay đổi lại là Tự chấp.
Chứng nghĩa ghi: Kinh Tăng Hộ chép rằng; ngươi thấy người chủ đất đầu tiên thời Phật Ca Diếp, là người xuất gia; trong số ruộng chư tăng lấy làm của riêng, không trả lại cho tăng trực. Lúc đó có một vị Tỳ Kheo giữ gìới luật, y giới quở trách:
- Ngươi nay tại sao không trả lại cho tăng trực?
Lúc đó người kia dựa thế lực vua không nghe lời dạy khuyên, trả lời các vị tỳ kheo:
- Tôi là tôi tớ các Ngài, nếu các vị có sức tại sao không tự trồng trọt lấy?
Do vì nhân duyên đó nên sa vào địa ngục bị lửa đốt cháy đến nay chưa dứt. Ngươi thấy người chủ đất thứ nhì thời Phật Ca Diếp, là người cư sĩ làm ruộng cho chư tăng, không trả lại cho tăng trực. Do nhân duyên đó đọa vào địa ngục làm đại nhục địa, thọ vô lượng khổ đến nay chưa dứt.
Viên đầu hay người trông coi viên cảnh - vườn hoa. Bốn mùa vun bón không nên bỏ hoang phế. Mọi vật sản hợp thời quản lý đừng để hữu danh vô thực mà không giúp gì được cho đại chúng. Phàm tới mùa rau dưa tươi tốt không được tự ăn trước hoặc đem rau vườn gởi bán riêng. Nếu phát hiện được, phạt nặng.
Chứng nghĩa ghi: Kinh Hoa Nghiêm phẩm Tịnh Hạnh chép rằng:
Thấy vườn rau cải,
Cầu cho chúng sanh,
Năm dục thanh sạch,
Dọn trừ cỏ ái.
Y cứ vào bài kệ trên tức lấy sự hiển lý. Người làm tri viên không những phải tận lực dọn cỏ rác mà còn phát đại tâm nhẫn đến khi đạt ngộ đại đạo.
Dựa theo sách Thiền, xưa dưới tay Lương Sơn Quán Hòa Thượng, có một Tri viên tham thiền đạt định. Trong chúng phần nhiều nghi ngờ không tin. Một hôm có vị tăng đến trêu chọc tức ông ta mới lộ chân tướng, bèn hỏi Tri viên:
Tại sao không tới hỏi Hòa Thượng một vài công án để kết duyên?
- Trừ tôi ra không đến hỏi ai hết. Nếu xuất hiện phải bị giáo hóa, lão quê mùa này dưới thấp nơi quê, so với Lương Sơn đứng ở trên cao.
Viên đầu lại hỏi:
Lúc đạo tặc vào nhà phải làm sao?
- Biết rồi không gây oán cừu.
Biết rồi sau đó phải làm gì?
- Nhẫn nhục hướng về cõi vô sanh.
Để đừng cho y có nơi an thân mạng chăng?
- Nước tù không dung được rồng.
Rồng bơi trong nước như thế nào?
- Sóng êm chẳng tạo nên sóng dữ.
Bổng chốc ao nghiêng đỗ, sụp núi thì sao?
Lương Sơn bỗng từ pháp tòa đứng dậy đi xuống nắm ghì chặt hỏi:
- Xà Lê (A Xà Lê) đừng dạy lão tăng mặc chéo cà sa ướt!
Ngài Đại Huệ Cảo nói rằng, phải biết người triệt ngộ, cùng gặp người triệt ngộ tự nhiên đạt đến nhất quán. Ôi, y cùng làm tốt vườn chùa, do đấy làm gì chẳng được!
Lời phụ: Qui Tắc Tri viên, liêu phòng có 9 điều. Tri viên xả thân lao động, gieo trồng đúng cách. Vườn 4 mùa không để cỏ mọc, đất phải tận dụng canh tác không để một tấc đất bỏ trống. Mỗi ngày lao động tưới cây, sáng sáng gắng gỏi bừa xới đất gieo hạt; trưa cúng ngọ Phật, tích tụ công đức ít nhiều. Tới mùa thu lợi cho chúng hưởng mà tựu thành nhân duyên rộng lớn. Nên suy nghĩ làm việc hết mình, không tự bỏ bê biếng nhác, có những Qui Tắc ở liêu phải chân thật tôn trọng 9 điều sau đây:
1- Rau cải các loại đem bán riêng bị phạt đuổi. Tự đem cho người hay dùng ăn một mình, phạt đền bồi.
2- Làm mất dụng cụ, đồ đạc, các thứ v.v.. phải thường
3- Chứng trưởng lãnh chúng trồng cây, như có người lánh nặng tìm nhẹ hoặc ra ngoài ngao du hoặc không theo sự sắp xếp phân công, trách phạt cho ra khỏI
4- Trừ chúng trưởng, mỗi người phải luân phiên trị nhựt, nấu cơm cháo, châm trà. Người nào tháo thác từ chối, phạt
5- Xối nước tưới không hợp thời, hữu danh, không thực, phạt
6- Lấy rau dưa xài riêng trong các phòng, chúng trưởng vị nể không đưa ra giữa chúng nghị bàn, phạt cả hai bên.
7- Cho khách tăng tục đến ở trong phòng riêng và dọn cơm nước đãi, bị phạt
8- Ăn mặn (hành), uống rượu, đánh bạc v.v. phạt đuổi
9- Như những điều Nội Quy trên nếu có phạm, chúng trưởng phải nêu lên; biết mà không đưa ra, đồng bị phạt.
Ngày … tháng… năm… Trụ Trì…. sao lục.
Dán Nội Quy tại liêu chúng.
Chứng nghĩa ghi rằng: y cứ như trong luật, tự trồng tỉa ruộng vườn là hoàn toàn trái lời Phật dạy. Song thời mạt pháp, đời sống tòng lâm quá khó khăn không thể không làm vậy. Duy người phụ trách việc này nên nghĩ cần duy trì sắc thân đại chúng có liên hệ tới huệ mạng, phải thật tâm quản lý, tận lực lao tác, ngõ hầu mới không hổ thẹn. Phước báo dù nhiều cũng do lấy từ đất đai mà có, như nói tâm điền của ta, tâm địa ta… hẳn hàm luôn cả phước huệ. Kinh Hoa Nghiêm quyển 77, Ngài Di Lặc tán thán Thiện Tài (đồng tử) bài kệ rằng:
Thiện Tài thấy chúng sanh
Tâm điền thậm bẩn nhơ
Để trừ 3 độc căn
Chuyên cầu lợi trí lành.
Nay lấy bài kệ ấy giải thích Tâm ta như ruộng vườn, các giống lộn không nạp; xanh, vàng cùng trắng, đỏ theo đó sản sanh ra. Bồ Đề ví như lúa trồng (gieo) xuống tiết mùa thu; giữ giới làm ranh vực, nhẫn nhục đừng quên khuấy, bố thí ngăn lòng tham, tinh tấn trừ cỏ rác, trí tuệ là mưa móc kịp thời càng đượm nhuần. Trị tâm như trị ruộng, hoang phế cỏ mầm sanh. Nếu không trái thí dụ này mới thật sự biết công việc điền viên.
Lời phụ: Quy Tắc việc ngoài viện gồm Trang chủ, Tri viên lãnh phần trách nhiệm, nếu nói xa một chút nên gọi là hạ viện. Luận hạ viện tuy có liên hệ tới hạnh, hạnh của đất cũng không quên huân tu, ngõ hầu không cô phụ chí người xuất gia, đừng cho rằng công việc bên ngoài mà không chịu gia tâm thực hiện. Nên biết rằng việc gánh nước, bửa củi… cũng đều là Phật sự: lúa mùa xuân làm nên cơm, phải chuyên cần đúng mức. Người xưa độc hành mà tri thức các bậc cao nhân không thiếu, có nghĩa bẩm tánh mê muội thô kệch nhờ niệm Phật dần dần mà được, nên mỗi người cần phải nổ lực chớ phụ sơ tâm của mình. Đã thuộc một pháp hệ tức nên giữ gìn, lời Tổ Thầy dạy khuyên; hạnh tướng bề ngoài không làm tổn tới gia phong.
Sau đây là 9 điều quy định:
1- Có thí chủ đến hết thảy đồ đạc để ở nhà ngoài - hạ viện - phải gia tâm xem xét, nhất nhất nhận số, chỗ cất, để thông báo cho người làm biết. Một mặt ứng tiếp thí chủ theo như lễ nghi quy định
2- Qui định ở chung giống như chư tăng ở chùa, nhứt luật tuân hành, ai phạm bị phạt
3- Trang chủ, tri viên, lo củi, phụ nước, linh tinh gồm 6 việc, mỗi việc một người phụ trách. Mỗi tháng bao nhiêu gạo muối, mỗi quí (3 tháng) chừng đó ngân khoản tùy theo đó qui định thích hợp cho hai bửa ăn
4- Trang chủ, phàm ngoài viện có việc lớn nhỏ gì đều có người chuyên lo chăm sóc chịu trách nhiệm. Trừ việc công, không cho ra ngoài. Sáng tối 2 thời công phu đốc chúng tụng kinh không được buông lơi. Không cho tự ý lưu khách ăn trong phòng ngủ. Tất cả những người làm việc có lỗi nhẹ thì dạy khuyên; nặng nên trình chúng định cách phạt
5- Thiếp án (niêm yết thực đơn menu) liệt ra thức ăn dưới viện (nhà bếp), giờ cơm đại chúng khai bảng, gõ bảng; dọn dẹp nhà trù phối hợp cùng người phụ trách củi, nước xong theo chúng dự thời khóa tụng
6- Tri viên: vật dụng, đất vườn phải gieo trồng hợp thời, không được trể lười bỏ đất trống
7- Hỏa đầu lo củi lửa, dập than cũng như cẩn thận việc củi đuốc. Dù lạnh không để lửa, nếu vi phạm trình Trang chủ phạt
8- Gánh nước kiêm bửa củi; tạp vụ kiêm hành đường và những việc lau quét, cùng xem xét cửa nẽo, để ý vật của Tam Bảo
9- Làm việc Tam Bảo chỉ Giám viện, Phó Trụ Trì, Tri Khách, Giám Thu v.v.. có việc được phép ăn ngủ ở trang trại. Ngoài ra, qui định chung không cho phép, ai phạm trình Trang chủ phạt.
Ngày… tháng… năm… Trụ Trì… sao lục.
Ấn ký.
Chứng nghĩa ghi rằng: đường tới viện dưới cách hơi xa, nếu chúng cùng ở chung rất khó, vì thiếu chỗ đủ rộng dung nạp mọi người hiền; sự thật còn tùy hình thức viện lớn, nhỏ nữa. Nếu bảo rằng đã sung vào công tác hạ viện hẳn tâm không có dụng thứ hai, theo Thanh Quy trong việc huân tu như mọi người. Tại sao vậy?
- Đáp: Nếu lấy tọa thiền, quán tưởng làm đề mục rồi ngưng chấp tác là không đúng; chưa nói đến gặp việc thành ra trở ngại. Sách Vân Thê Sùng Hành Lục ghi rằng: đời Tống có Viên Chiếu Bổn thiền sư theo học dưới Ngài Vĩnh An Thăng mà Ngài An Thăng đạo cao đức trọng, nhận làm đồ đệ. Bổn mặt mũi lem luốt, áo rách dơ, giữ phần việc nấu đồ ăn cung cấp chúng. Ban đêm nhập thất tham thiền, ngài An Thăng bảo:
- Đầu đà (người tu khổ hạnh)! Đeo mang chúng chi thêm khổ, lại chịu vất vả nữa chứ?
- Nếu bỏ một pháp chẳng gọi được là viên mãn Bồ Đề, hẳn muốn đời này chứng đắc, đâu dám nói lao khổ!
Ngài Liên Trì nói:
- - Nắm giữ mọi việc mà không ngại, tham cứu lễ tắc cổ kim, nấu ăn nhưng chẳng trở ngại nhập thất tham thiền. Sa môn đời nay ngửa tay nhận của cúng cho rằng, ta là người làm đạo. Kia làm việc đó là cho cái gì so với xưa có khác , cho nên đạo ngày càng suy vi là vậy.
Liêu nguyên: Trước đã nói công việc các liêu, phần phụ có thêm tự chấp. Phần này nêu không liên hệ công việc các liêu, cho nên liệt riêng ở đây.
Xưa người nắm giữ vai trò này lo hàng chục thứ: trà nước, củi lửa cung ứng theo nhu cầu; rưới quét, hong phơi, cạo tóc, trải khăn v.v... các việc. Ngày nay chú trọng một ngày quá đường – cũng gọi là Vân thủy đường (Vân Thủy là Tỳ Kheo) tức nhà phục vụ chư tăng. Phàm có khách tăng đến lấy lễ tiếp đãi, phân phối dãy Đông hay Tây dọn đơn (giường); chỉ cho xem Nội Quy để giữ đạo phong chúng thường trụ. Đứng ra mặt hoặc ẩn đều là công việc của liêu nguyên. Phải chọn người chin chắn đảm trách phần vụ này.
Lời phụ: Qui tắc ngày hóa duyên cũng gọi Vân Thủy đường gồm 13 điều như sau:
1- Đặt đơn ở nhà chính hay Đông, Tây. Hể thời công phu, tọa hương, ngồi thiền, chỉ tịnh…đều theo qui tắc thiền đường. Sáng chiều 2 thời Kinh đốt nhang dài; tối nhang ngắn. Sau giờ thiền định mới xã thiền; tối ai ra ngoài vui chơi phạt; lúc ngủ giởn đùa cười, phạt
2- Gần đến giờ ngọ, ngọ trai phải theo chúng, cũng như đến giờ cơm tối, theo chúng dùng cháo (gọi là dược thạch). Quá giờ ăn mới đến phạt. Bửa ăn chiều đem về phòng ngủ, ngày hôm sau tới giờ ngọ trai bạch sám hối tại quá đường. Trời mưa đợi dứt mưa, có bịnh chờ hết bịnh mới đi quá đường
3- Người bịnh gởi đến phải hỏi lai lịch rõ ràng mới nhận; ghi tên vào sổ sách để lưu giữ
4- Trong chúng không giữ Thanh Quy, liêu nguyên khéo khuyên giải, nếu không nghe, liền trình Ban lãnh chúng hỏi rõ phạt qùy nhang. Không tuân đưa ra nhà khách chơ dời đơn, nếu không bạch chúng mà tự làm ầm lên, la lối làm loạn, phạt; ấu đả: phạt nặng
5- Bổn đường, Thầy Hương Đăng xem xét trà nước cho khách tăng, nếu không có Liêu Nguyên phải lo quán xuyến
6- Tự ý đi ra ngoài, lâu không trở về bị phạt
7- Nghe tiếng bảng hiệu không theo chúng đi ra núi, phạt
8- Không giữ oai nghi chỉnh tề, phạt
9- Cấm hút thuốc, ai hút phạt. Cấm rượu, người nào phạm đuổi khỏi viện
10- Bàn luận hay dỡ, tốt xấu về tri thức chư tăng, phạt (ham mê ưa thích khí giới nhọn, phạt)
11- Đi quá đường, vào chánh điện không đắp y, phạt; trừ người chưa thọ giới
12- Nếu lúc đi, trong liêu chúng có người già yếu một mình phải thưa ra ở phòng khách để tìm cách giúp đỡ
13- Gặp người đến tỏ ra dối trá lạ lùng, ngôn từ sắc são liền phải xét hỏi, sợ có bọn côn đồ trá hình mang đến hậu họa; bỏ mặc lầm lẫn thiếu quan sát, phạt.
Ngày… tháng…năm…. Trụ Trì….sao lục.
Ấn ký.
Chứng nghĩa ghi rằng: Thập phương đệ tử có 2 loại y chỉ, tăng hành cước. Y chỉ có nghĩa chỗ nương tựa, lấy thiền đường làm chỗ nghĩ, hành cước là tăng vân thủy rày đây mai đó như mây bay nước chảy; trong đó đã thấu triệt đại sự, tùy duyên hành cước. Có việc nào chưa sáng tỏ, phải tìm thầy hỏi bạn; có cơ duyên chưa giải tỏa tìm đến bậc tri thức. Có triều sơn (lạy 3 bước 1 lạy), tấn hương nên tùy hỷ kết duyên. Người có tánh thích vân du không chuyên làm đạo mà đã tới đây cũng phải tiếp đãi.
Liêu Nguyên nên tận tâm đáp ứng, có nghĩa hợp duyên khách ở lại; hợp lý, hòa nhã, rộng lượng mới có thể tiếp mời cùng tham thiền. Nếu quả đúng vì sanh tử người phát tâm luận đạo thời mời đến nhà khách thảo luận. Tới phòng khách liền thông báo cho Trụ Trì hay dẫn vào thiền đường hoặc tới phòng nghỉ. Ngoài ra, sự hưng suy của tòng lâm do người mà được nên phải giữ pháp lục hòa cùng ở chung. Ngoài không nói ly gián cho chí trong nhà, không nêu lỗi lầm, ban đêm không tới phòng ngủ khách. Hôm sau, giờ ngọ trai liền tự động đi theo chúng. Ngày nay đổi gọi là vân thủy (nhà sư khất thực), là lấy ý kẻ đi ở bất định.
Nhàn trụ tức ở không trong liêu phòng. Nhà sư thư nhàn không làm việc gì, cũng chỉ người kỳ cựu; kỳ là niên trưởng, cựu là đã từng làm việc lâu năm, là người có công với Tam Bảo trước đây, nay tuổi lớn nên được đặc miển ở trong liêu không phải làm việc nữa.
Phải tham gia công tác - người già được miễn. Phàm thời khóa tụng phải theo chúng. Nếu vào điện, tọa hương, chiếu Nội Quy mà thi hành. Vào trai đường thọ trai, tụng kinh, đi nhiễu Phật, làm việc nơi thiền đường sau khi xong không được cải vả ồn ào. Theo Ích Cổ tòng lâm, không có độc đơn gối chiếc cho nên liêu phòng chỉ để cho người lớn tuổi nghỉ hay người làm việc lâu năm, nhưng sức lực hao mòn nghỉ việc, được ở. Song cũng phải xem Kinh, niệm Phật, lễ bái mới được chấp thuận hay không chấp thuận.
Chứng nghĩa ghi: Kinh Tăng Hộ rằng, ngươi xem cục thịt thứ nhất này, thời Phật Ca Diếp là vị Thượng Tọa trong tăng không tham thiền, tụng kinh, không giữ giới luật, ăn no rồi lại ngủ và chỉ bàn luận việc vô ích, lựa chọn món ngon cúng dường hưởng trước. Do nguyên nhân đó nên sa vào địa ngục làm viên thịt tròn lớn bị lửa thiêu đốt, phải thọ khổ, đến nay chưa dứt.
Lời phụ: Theo qui ước xưa nói là kỳ cựu; kỳ cựu khác với kỳ túc. Cựu chỉ niên lão nhắm người sống lâu, tức là bậc trưởng lão có đức độ.
Nhà kỳ cựu ở tòng lâm là nhà Đông cũ mà người đời còn gọi là lão đường. Phàm bước vào nhà này phải sanh lòng hổ thẹn liền nghĩ tới cái thân này: mắt mờ, tai điếc, tóc bạc, mặt nhăn, bụng hóp, lưng khòm, xương nhức,gân mỏi. Bước đi bãi hoải, tinh thần lú lẫn, cho nên biết rằng thân này không tồn tại lâu, ắt sắp đến cửa tử. Đường trước mờ mờ rốt lại chẳng biết đi về đâu. Nếu đã biết việc như thế rồi sao còn vất vả nhiều lời làm gì; nếu người nào chưa tới tuổi như thế nên nhiếp tâm niệm Phật. Có 6 điều qui định người già yếu như:
1- Năm 70 tuổi ở chùa chuyên tu không lỗi lầm mới có thể đi được xa hơn, 80 tuổi lượng sức, 90 tuổi vô chừng (ít có người)
2- Người già cần thuốc men, ăn uống bất thường. Tri khố, hỏa đầu quân, điển tọa chấp nhất không cho họ, phạt. Sự thật không phải bảo không cho nhưng đối với chúng phải nói rõ. Nếu tự ý bạc đãi bất công bị phạt
3- Người già không còn răng, hay răng yếu không theo kịp chúng nên cho họ món ăn mềm chín nhuyễn
4- Người lớn tuổi suy nhược, thời công phu sáng đi bất thường, nhưng thời kinh tối nên theo chúng, không đi tụng kinh phạt. Người 80 tuổi châm chước, 90 tuổi được miễn
5- Ở trong nhà đôi khi nổi trận tranh cải hay ra ngoài gây sự, cho ra khỏi
6- Hương Đăng cho ở một chỗ riêng vì khổ cực, trừ khi đốt đèn, gánh nước, tưới quét, hong phơi cần gia tăng trợ lực thuốc men.v.v…cho nên sức trẻ còn mạnh khỏe phát tâm làm việc. Người lớn tuổi bổ sung, đã bổ sung vào rồi giải đãi lánh nhẹ, phạt.
Ngày….tháng… năm… Trụ Trì….sao lục.
Ấn ký.
Chứng nghĩa ghi rằng: Lão tức là xưng tán bực đức cao, lạp trưởng. Ở đây chỉ có thể xưng là lão cựu tức chỉ lạp trưởng (hạ lạp hay tuổi hạ) tuổi hạ cao vậy. Luật Tỳ Ni Vô Luận ghi rằng: từ không hạ đến 9 hạ (an cư kiết hạ) gọi là hạ tọa; 10 hạ đến 19 hạ gọi trung tọa; 20 hạ đến 40 hạ xưng là thượng tọa. Từ 50 hạ trở lên được chư tăng tôn kính xưng là kỳ cựu (kỳ túc). Việc này y cứ năm thọ giới mà xét, căn cứ tuổi đủ 20 mới thọ tỳ kheo. Cho nên vị tăng 70 tuổi xưng là vị kỳ cựu. Song do sự sắp xếp của tòng lâm, trong sách Thiền Lâm Bảo Huấn đối với người già bịnh, Ngài Cao Am cho rằng, bần đạo thường đọc Tạng giáo suy ngẫm ý Phật không cho phép tỳ kheo ngồi không thọ thực mà sanh tâm sa đắm; khởi lên chỗ thấy của ta. Mỗi sáng sớm ôm bát đi khất thực, không lựa giàu nghèo để tất cả đều gieo phước; sau này xưng là tăng thường trụ. Nguyên vì tỳ kheo già bịnh không thể đi khất thực được nếu không nhờ tỳ kheo tuổi trẻ không có mà ăn. Nhưng sau Phật diệt độ Phật giáo đến Trung quốc cho phép tỳ kheo thu nhận đồ cúng, thành chỗ lợi dưỡng chứa làm của tăng thường trụ để bảo đảm số chúng đông. Ngày nay nghe có một số chùa các vị Trụ Trì không biết nhân quả, chẳng phải già bịnh lại trái tôn chỉ Phật dạy làm bại hoại pháp môn tu; bê bối không ở chùa viện, lấy cớ già sắp hưu. Xưa lúc Thế Tôn còn tại thế như không có người mời thỉnh, Ngài đi tuần khắp các tăng phòng xem xét những vị tỳ kheo già bịnh ân cần thăm hỏi; để khuyến khích chư tăng kính trọng lẫn nhau v.v…Việc này nhằm an ủi các tỳ kheo lớn tuổi bịnh hoạn.
Điện chủ: buổi sáng 4 tiếng bảng cùng tới chỗ nước sạch, đốt hương, nghe tiếng đại hồng chung dứt, đốt đèn, gõ bảng, cúng hương. Nhịp 3 hồi khánh, cúng hương xong, lau quét bụi, bàn ghế sạch sẽ, ngay ngắn, rưới quét điện Phật và chung quanh hành lang, châm dầu, thay đèn; ngoài ra chuẩn bị thích hợp cho thời khóa tụng. Hiệu bảng cúng ngọ, buổi chiều đốt đèn Dược Sư. Ngày mồng một, Rằm và những ngày lễ vía khóa tụng buổi sáng dùng tiếng chụp chả, trống cơm tán tụng tại chánh điện. Phép cúng ngọ dâng cơm lên cúng xong hạ xuống; tụng Kinh sám, đến y bát, liêu xá, các đồ pháp khí trang nghiêm mỗi mỗi ngăn nắp sắp xếp chỉnh tề. Chú ý trông coi đèn đuốc, kinh tụng xong sắp cho ngay ngắn, trả nguyên lại chỗ cũ. Các tôn tượng Phật Thánh nửa tháng lau quét một lần, mỗi năm tắm lau một kỳ; căn cứ theo nghi tắm Phật ở trước. Nếu treo đại hồng chung, xem điều 9 phần Pháp khí ở sau nói rõ.
Hương đăng nhà giảng: quét dọn nhà giảng trong ngoài sạch sẽ, trải bồ đoàn cho Trụ Trì hành lễ. Khóa tụng tối: đốt hương, châm đèn, bật đèn lối đi 2 bên hành lang, bảng chỉ tịnh. Sáng sờm 3 hồi bảng thức chúng, trời sáng tắt đèn; lên chánh điện gióng nhịp trống lớn, tùy việc nhiều hay ít; theo chúng tụng kinh; đi quá đường…
Hương đăng lầu chứa kinh tạng, sớm tối đốt nhang, đốt đèn, châm trà, lau quét, xem xét Kinh tạng, trông coi hành lý chư tăng. Hai buổi đi quá đường, lên chánh điện, gióng đại hồng chung. Khi cúng ngọ, dâng cơm cúng Phật xong hạ xuống; ngoài ra, cũng lo đèn nhang ở giảng đường.
Quản thủ tháp bên trong chỉ trông coi quản lý tháp Phật lo hương đèn, lau quét mọi việc v.v… Theo chúng vào điện, đi thọ trai; như có cúng tháp các món thức ăn được, trừ tháp Phật không cúng các đồ ăn.
Trông coi bên ngoài tháp như quét dọn các ngôi tháp Tổ, và kịp thời dẫy cỏ; sớm tối lo việc nhang đèn. Phàm tiết Thanh Minh có cúng tháp như trước đã nêu giống như hương đăng. Hể chư tăng viên tịch nhập tháp cúng thức ăn đúng pháp, giả như có vị ở ngoài xin nhập tháp nên thưa trước ở trai đường cho đại chúng biết. Nếu nhận lễ riêng mà thâu nhập bị phạt.
Tổ đường là nơi thờ bậc hiền đức: hương đăng mỗi tối đốt hương, lo việc sạch tịnh v.v… giống như thiền đường hay cùng đồng như hương đăng lầu Kinh các. Ngoài ra, hương đăng các chỗ tuy khác nhau, nhưng việc châm đèn, đốt nhang, lễ bái đều giống nhau. Sớm tối đốt hương, trước phải súc miệng rửa tay sạch sẽ; kế tụng bài “Lư hương sạ nhiệt” tán hương xong, tiếp theo tụng chú:
Án thập phiệt lật đa mạt nể. A bát la cú thác; tô phá ra ni tì ca tri, hổ hồng (3 lần).
Tiếp tụng chú dâng hương như:
Án tát bà đát tha yết đa. Đổ ba, bố xà, minh già, tam mộ đạt ra, tốt phát ra nổ, tam mạt duệ hồng (3 lần).
Dâng hương, tụng chú, quán tưởng khói hương bay khắp 10 phương các cõi Phật, hết thảy thánh hiền đều khởi tâm hộ niệm. Cho nên gọi là lò hương vừa nhen nhúm cõi pháp được xông lên. Chư Phật trong hải hội thảy đều xa nghe, tùy xứ kết mây lành, lòng thành mới ân cần, các Phật hiện toàn thân. Như đốt đèn hay đốt nhang trước nên đọc chú dâng hiến đèn như:
Án tát bà đát tha yết đa, nể bà bố xà minh già, tam mộ đạt ra, tốt phát ra nổ, tam mạt duệ hồng (3 lần).
Châm dầu, đèn hoặc nến cũng tụng chú, tưởng quán đèn phảng phất bay đến trước các vị Thánh hiền, cho nên nói là đuốc ngọc vừa soi cõi pháp sáng trưng. Tụng 3 câu chú này rồi đốt nhang, châm đèn nên diệt tội trừ oan trái, tăng phước vô lượng. Nếu không tụng chú mà quán tưởng, là không thành tâm. Tuy đốt nhang đèn đi chăng nữa e Tam Bảo, thiên thần cũng không thọ lãnh.
Chứng nghĩa ghi rằng: điện chủ là trưởng của chúng hương đăng, thay chúng tăng làm việc chăm chỉ, lo cho Phật đà; ngoài ra, hương đăng ý nghĩa cũng giống như đây, hương hoa, đèn dầu, quả phẩm 6 loại cúng dường. Dùng hương đèn làm danh xưng, 5 món uế trược trong đời bay mùi xú uế không thể nghe; trong đêm tối âm u không thể thấy. Muốn cầu Tam Bảo, chư vị thiên thần thường ở cõi này hộ niệm cho ta…Nên thường đốt hương thơm để trừ mùi hôi hám, gặp tối đốt đèn dùng ánh sáng soi vật, khiến không còn che lấp tối đen u ám mà thành mùi thơm vi diệu, tia sáng rực rỡ, đây là ý nghĩa hương đèn vậy. Cho nên công việc làm hương đăng hoàn toàn do tâm thành mới thật tỏ lòng dâng cúng. Nên nói rằng, hương từ tâm sanh, tâm do hương mà đạt được không ở nơi 3 thì (quá-hiện-vị lai) nhưng có thể biến khắp 10 phương chư Phật. Huệ soi tỏ tâm dễ thấu đạt lý; lại hẳn nương tụng chú mà tâm tưởng thành mới hết lòng dâng hiến là làm đầy đủ bổn phận của hương đăng vậy. Đây không riêng hương đèn đốt nhưng tâm mọi nguời đều phải như vậy. Không chỉ kính Tam Bảo mà còn kính cả thiên thần đều phải như thế.
Kinh Kim Quang Minh phẩm Tứ Thiên Vương ghi rằng: là mùi hương vi diệu trong khoảng một niệm liền bay đến thiên cung. Mùi thơm biến thành vòng tỏa hương vi diệu, sắc vàng chói lọi chiếu tận thiên cung như cung trời Đế Thích, cung Phạm Thiên cho chí cõi chư Phật trong không trung trên chư Phật cũng biến thành hương vòng; ánh sáng vàng chiếu khắp cũng lại như thế.
Kinh Hoa Nghiêm phẩm Hiền Thủ ghi rằng: Lại phóng tia sáng trang nghiêm, đủ loại diệu hương nhóm tụ xông lên rải khắp các cõi trong 10 phương để cúng dường chư Phật. Lại phóng ánh sáng hương bột trang nghiêm đủ loại mạt hương nhóm xông lên rải khắp các cõi trong 10 phương để cúng dường hết thảy Đại Đức tôn. Căn cứ theo đây toàn dựa vào sự thành tâm quán tưởng để làm việc cúng dường là một loại biện hương biến khắp cả 10 phương thành đài ánh sáng, trổi thiên nhạc, đốt hương thiên bảo, trình lên các món mỹ vị, đặt áo thiên bảo, diễn nói đại pháp. Mỗi mỗi biến khắp tới cõi cõi vô ngại, chỉ thành tâm quán tưởng mà thành tựu. Sáng chiều dâng hương như thế, thời khóa tụng sớm tối như thế, lễ bái tụng kinh như thế, cầu nguyện sám hối như thế được Tam Bảo thiên thần cảm ứng như nguyện. Là mỗi ngày dùng hương hoa, đèn nước, sáng chiều dâng cúng bằng tâm thành kính nên đạt được phước báo không thể nghĩ bàn. Ngoài ra, hể người nào thành tâm đốt đèn được cảm báo nhiều hơn.
Kinh Đồ Vương Thọ quyết ghi rằng: nhà vua thỉnh Phật thọ trai hỏi rằng:
- Phải làm sao cho thích hợp?
Kỳ Bà nói:
- Chỉ có cách là nên đốt đèn.
Vua ban sắc xuống đem đủ 100 hộc dầu mè thắp suốt từ cung đến tinh xá Kỳ Hoàn. Lúc bấy giờ có bà lão nghèo cảm kích xin được 2 tiền cũng mua dầu cúng Phật.
Vua nói:
- Bà quá nghèo tại sao không đem tiền mua thức ăn?
Bà lão đáp:
- Nay thấy nhà vua làm việc đại công đức, dù nghèo khó lão cũng muốn đốt một ngọn đèn làm nhân cho đời sau.
Người chủ bán dầu nghe vậy đong thêm 3 tiền dầu thành 5 tiền; số dầu của vua thắp không đủ tới nửa đêm. Bà phát nguyện rằng: “Nếu đời sau con đắc đạo như Phật, mong cho ngọn đèn này cháy suốt đêm không tắt”. Sáng ra, Ngài Mục Kiền Liên thấy những ngọn đèn khác tắt hết, duy chỉ ngọn đèn bà lão còn nguyên vẹn, Ngài dùng oai thần theo hơi gió thổi cho đèn tắt, đèn vẫn cháy sáng và còn cháy mạnh hơn. Phật bảo Ngài Mục Kiền Liên: “đây là ánh quang minh đức Phật tương lai, không thể dùng thần lực của ông mà có thể dập tắt được. Bà lão này đời trước gặp Phật pháp mà chưa tu tập nên đời nay nghèo khổ, sau đây 30 kiếp bà sẽ thành Phật hiệu là Tu Di Đăng Quang Như Lai.”
Lại nữa Kinh Thí Đăng Công Đức ghi rằng: nếu người nào cúng đèn thắp sáng nơi chùa tháp Phật, lúc lâm chung được 3 loại ánh sáng:
1- Trước đã tạo phước lúc chết đều hiện ra ở trước nhớ lại không mất, sanh tâm vui đẹp
2- Nhân đây mà phát tâm niệm Phật, hay làm việc bố thí nên lòng rất hoan hỷ, chết được an lạc
3- Nhân phước này mà liền có tâm niệm nghĩ tới pháp.
Lại cũng còn có được 4 thứ ánh sáng soi chiếu:
1- Thấy mặt trời hiện
2- Thấy mặt trăng hiện
3- Thấy chư thiên
4- Thấy Phật ngồi trên tòa sen
5- Thấy mình đang chắp tay cung kính hầu Phật.
Người nào thấy 4 loại ánh sáng đây bèn sanh lên cõi trời thứ 33.
Kinh Hoa Nghiêm phẩm Hiền Thủ ghi rằng: lại phóng quang chiếu diệu, ảnh trùm hết ánh sáng chư thiên. Chỗ nào có ngăn chướng được trừ hết, khắp vì chúng sanh mà làm cho được lợi ích. Đây là ánh sáng giác ngộ hết thảy chúng sanh khiến cầm đèn cúng dường Phật. Đem đèn cúng dường chư Phật nên trong đời được vô thượng đăng. Y cứ theo đây việc cầm một cây hương đèn cúng dường Phật chóng thành tựu vô lượng công đức.
Tuần chiếu tức đi tuần gồm ban ngày và ban đêm khác nhau. Đi tuần ban ngày do tự chấp, là trông coi những việc tạp chúng thường trụ, phụ giúp với ban trực nhựt. Không phải lúc nào cũng ở các nơi quét dọn, làm sạch sẽ, mà cũng không cho tăng chúng ra ngoài đùa giởn nữa. Như có quan chức đến tới trình bạch nơi nhà khách theo chúng thọ trai quá đường hai lần một ngày. Tuần ban đêm là do liệt chấp, tối định hương, đến hầu hương, gõ 3 tiếng bảng, châm trà, bật đèn phòng, mở nước. Gõ 4 tiếng bảng đốt đèn nhà trù (bếp), dứt một tuần hương; gõ 5 tiếng bảng định hương nên phải đúng giờ. Như để trể sáng không đúng giờ, cúng cháo sáng, giờ quá đường là phạt quỳ trước trai đường. Thời khóa tụng nghe 3 hồi đại hồng chung, gõ nhịp bảng, lên điện cúng Phật cũng như thế; thời kinh tối nghe 3 hồi chuông ở thiền đường và nhịp bảng là theo chúng lên chánh điện tụng kinh. Ban đêm sau giờ chỉ tịnh hồi một hồi bảng. Lúc rảnh việc bèn giúp điện chủ làm việc. Nếu thủ trống xem ở sau, Chương 9 nói về Pháp khí.
Quét dọn mỗi ngày: quét tước trên dưới, trong ngoài các con đường đông tây cũng như ở trước sau các hành lang không để bê bối; cần phải nhổ cỏ sạch sẽ; kiêm luôn việc hương đăng nơi điện Thiên Vương.
Chứng nghĩa ghi: bộ luật bổn ghi rằng: ông trưởng giả Cấp Cô Độc mỗi ngày vào buổi sáng sớm thường đến rừng Thệ Đa quét đất, lạy Phật. Một ngày nọ trưởng giả bận việc không vào chùa, đức Phật thấy đất dơ, liền cầm chổi quét. Lúc đó Ngài Xá Lợi Phất v.v…thảy đều quét đất; quét dọn chung quanh xong tất cả vào nhà cùng ngồi. Phật bảo các Thầy tỳ kheo rằng: phàm quét đất có 5 điều lợi như sau:
1- Nhân quét đất mà tự tâm thanh tịnh
2- Người thấy đất sạch làm cho tâm họ thanh tịnh
3- Chư Thiên hoan hỷ do đất sạch không bụi bặm, liền trừ hết bẩn kiêu mạn
4- Gieo được nghiệp đoan chánh điều phục tâm
5- Nhân quét đất chùa mà công đức càng tăng trưởng, sau khi chết được sanh lên cõi trời.
Sách Thiền Lâm Bảo Huấn ghi rằng: vào chùa đường tắt mở ra, lối đi (hành lang) khai thông, sửa sang. Việc này phải biết do bậc trưởng lão đãm trách.
Thỉnh tự chấp - mời biệt chấp không cần phải có nghi lễ.
Thỉnh tự chấp phải trình ở phòng khách; Duy Na đưa cho chư tăng một danh sách để mỗi người tùy nghi chọn. Trình cho Trụ Trì xem qua, nếu chấp thuận giữa Duy Na, Tri Khách; sai thị giả mời Duyệt Chúng đồng làm việc. Tới phòng Phương Trượng đảnh lễ, ngồi rồi tuần tự trình bày một số công việc đã cắt cử, để tùy nghi. Ngày kế, dùng cháo sáng, đi quá đường ngay tại trai đường, công bố mời thỉnh thành phần chức sự: 4 trưởng ban, một Giám Viện, Đô Giám hay Phó Giám Tự, Trụ Trì đồng ý, Tri Khách đồng ý…
Trước đó dán thông báo rằng, thừa lịnh Hòa Thượng mời Thầy A làm chức Y v.v…Sau khi nghe 2 tiếng bảng, bảng hiệu chính là để mời tự chấp mới. Đắp y, mang tọa cụ, người nhận việc trước không đắp y đều tới phòng khách. Tri Khách liền theo thứ tự đọc danh sách các Ban v.v…Đọc xong, bạch chúng rằng: “xin chúc mừng quý vị sư phó”, rồi lễ xuống một lạy. Những vị làm việc cũ đến phòng Phương Trượng đứng 2 bên; kế đến Tri Khách hướng dẫn Ban chức sự mới đến trước Phương Trượng bạch:
- Bạch Hòa Thượng, việc thỉnh tân Ban chức sự đã hoàn mãn, chúng con xin ra mắt và đảnh lễ Hòa Thượng.
Lễ 3 lạy xong, tân Ban chức sự lui ra. Những vị làm việc cũ tiến vào đứng theo thứ tự, cựu chúng trưởng bạch:
Đảnh lễ Hòa Thượng xong, Phương Trượng bảo:
- Vào tham đường.
Trước hết, Ban chức sự cũ tới giảng đường đứng qua 2 bên. Tri Khách gõ bảng báo hiệu 3 hồi, và nói:
- Xin mời quý Thầy tân Ban chức sự tham đường hành lễ.
Cho đến lúc lễ xong, 4 chúng trưởng, Trụ Trì trở về chỗ; tức liền lui ra, chỉ những vị khác ở lại. Duy Na tiếp tục theo thứ tự giao việc cho từng người. Giao việc từng người xong, Duy Na nói:
- Xin chúc mừng quý vị sư phó.
Rồi lạy một lạy. Lạy xong mỗi người chiếu theo từng việc thứ tự mà làm. Công việc là tụng kinh tối, trải bồ đoàn trên chánh điện, đem trở về liêu sau khi khóa lễ xong. Duy Na nói:
- Mời các Thầy tân Ban chức sự xuất ban (tiến ra trước)
Lễ 1 lạy xong, chúng trưởng chỉ việc, xem phần sau chỉ rõ.
Duy Na nói:
- Mời quý Thầy tân Ban chức sự vào Tổ đường lễ Tổ.
- Kế tới lễ Phương Trượng, lễ xong Tri Khách hướng dẫn tân Ban chức sự đi tuần tra các liêu, nhịp khánh một hồi 3 tiếng, bạch:
- Mời quý Thầy tân Ban chức sự đi tuần liêu.
Tới hỏi thăm từng Thầy cho tới khi xong; mỗi người lui về. Gõ bảng ở phòng khách nhóm chúng xem đơn. Phương Trượng mời dùng trà, uống trà xong trở về liêu phòng. Y cứ theo vị trí tọa hương cho chí trước lúc chỉ tịnh, phân ngồi hương xong, Duy Na nói rằng:
- Mời quý Thầy tân Ban chức sự đứng lên lễ thập phương Tam Bảo.
Nếu liên quan tới chúng trưởng thời lúc hành lễ, các tự chấp (nhân sự) nên xuống giường, đứng vào
vị trí của mình. Riêng người không phận sự không theo các chúng chấp sự cùng lễ. Vì đây là phần việc ban tự chấp đã được lập xong. Duy Na lại nói:
- 2 dãy các vị sư phó, thay các vị sư phó đi xem đơn.
Bạch xong, Duy Na cùng chúng đi xem xét giường các phòng, 2 dãy đông tây lang mỗi nơi cẩn thận xong, mỗi người về ngồi theo chỗ của mình vào giờ chỉ tịnh.
Việc mời Ban chức sự: dán thông báo tại chùa ở lễ đường nơi hành lễ. Nếu người hầu liêu chỉ ghi là tham đường, ảnh đường; thị giả tuy thông báo nhưng không vào tham đường. Ngoài ra, Đô Giám, Giám Viện, Tri Khách v.v.. đều không vào tham đường.
Mời xong các phần vụ, Giám Viện, Duy Na, Tri Khách, Thị Giả 4 người cùng đì xem các liêu, các đơn và phòng khách. Tại phòng khách mời tân Ban chức sự cùng dùng trà. Ngoài ra, 4 trưởng nhóm nên chọn tên Thánh đặt cho chúng như Văn Thù, Phổ Hiền v.v…để giúp ích công việc. Giám Viện, Tri Khách, Duy Na v.v.. gọi là hiền chấp. Phật, các bậc Thánh hiền đều làm như vậy. Thư Ký, Thị Liêu, Điển Tòa v.v…gọi là năng chấp, có nghĩa là hay bàn Phật sự ở thế gian hay xuất thế gian. Những công việc trên đều nên tận lực mà làm và đem toàn tâm giúp đỡ chúng; nhờ vậy đó đây đều được lợi nhuần mà không phụ người làm việc vậy.
Chứng nghĩa ghi rằng: Phật sự ở tòng lâm không đầy đủ cũng có nghĩa Phật Pháp không thông và khó giữ được huệ mạng. Pháp thế gian không khác, điều khó là ở lý, thường trụ trước phải hòa rồi sau mới làm đẹp được. Chọn người làm việc nên phân biệt khách tăng mới đến không biết rõ, có thể tạm để nhàn hạ là tiện lợi nhất. Để chờ một thời gian tự thấy thông suốt, không nghi mới có thể nhận lãnh việc quan trọng; đến như người nhận công việc cũng phải chuyên cần làm việc, không được sợ khó từ chối. Đất Tam Bảo phải tận tâm tận lực chẳng than phiền không tốt.
Sách Chích Cổ ghi rằng: Vân Phong Duyệt thiền sư đầu tiên đến học với Đại Ngu tới phòng xin Thầy khai thị. Ngài Đại Ngu sai làm hóa chủ xuống phố phường đi phổ hóa; lại do trời tuyết lạnh vì chúng xin than, sư bèn thuận theo lệnh Thầy; xin than xong làm dơ nhà thiếu người dọn dẹp. Thầy lại phiền đến ông, sư gắng nhận làm. Đồ tọa cụ bề bộn sau tọa thiền, đai thùng sút rớt từ trên giá xuống, bổng nhiên đại ngộ liền thấy ngay cái diệu của chỗ dụng; bèn đắp y vào phòng, Nham cười nói:
- Duy Na vô cùng hoan hỷ!
Sư bèn lạy không kịp thốt một lời rồi đi ra. Ôi! 3 cái việc dễ làm như đáy thùng lủng, làm đâu nở phụ ngươi sao?
Ban thủ cầm phất có 2 ý:
a- Mời người mới nhận việc:
Thủ Tọa; tòng lâm tiêu biểu nơi tai mắt của nhân thiên. Tọa thiền, lãnh chúng đề xướng tông phong tìm người khó được. Hễ mời ngưòi lãnh chúng, Trụ Trì dự định ngày tại trai đường, công bố giữa chúng rằng: “nay có Thầy A, B hoặc Hòa Thượng… tài đức song toàn, chúng rất nể phục, tri kiến cao minh nơi gởi trao huệ mạng. Làm mưa pháp nhuần thấm khắp nơi không thiếu sót, đại chúng các Thầy đã cung thỉnh, mong Ngài từ bi nhận lãnh.”
Sau giờ ngọ gõ bảng hiệu, bảng nhóm chúng tại phòng khách để cung thỉnh. Nghi thỉnh xem ở phần trước. Thỉnh xong, đưa lên phòng Phương Trượng làm lễ, xong tới tham đường; Trụ Trì trao công tác, chúng làm lễ xong đưa về hậu liêu. Thời kinh tối hôm đó, thị giả cầm bài phất lên. Trên văn bài bên phải phía trên dán tên chữ hồng. Trên bảng đề tên viềt rằng: Thỉnh Hòa Thượng A làm Thủ Tọa hoặc xưng đại sư, các việc khác tùy theo đó mà thay đổi… Trụ Trì vâng hầu liêu, truyền lư, đắp hồng y, tích trượng đến phòng Thủ Tọa, thăm hỏi, Thủ Tọa đắp y, thị giả cầm tích trượng đứng sau. Duy Na bạch: “Xin cung thỉnh Thủ Tọa sư!” Dẫn khánh đi trước, rước đến trước tòa, Thủ Tọa lạy, lạy xong thăng tòa ngồi. Thị giả đứng hầu 2 bên.
b- Duy Na cử bài tán, Thủ Tọa niệm hương xong, Duy Na xướng: “Đảnh lễ Thủ Tọa Sư”. Sư nói: “Không”. Liền ngưng, đợi thời pháp xong, Duy Na xướng: “Đảnh lễ Thủ Tọa Sư 3 lạy”. Lễ xong bước xuống tòa, chúng tiễn về liêu, nếu Sư từ chối bèn thôi không tiễn. Thủ Tòa lên phòng lễ Phương Trượng, trình cao kiến, lễ tạ một lễ. Phương Trượng đãi trà, Thư Ký viết pháp ngữ treo lên. Ngày kế, Thủ Tọa chi tiền nhờ Thủ Khố sắm đồ đãi chúng. Nếu Thủ Tọa nghèo không có tiền, lấy tiền chùa thay thế. Ngày Mồng một, Rằm và những ngày lễ, trước lễ Phương Trượng, kế đến lễ Thủ Tọa hoặc Trưởng Chúng mới nhận vai trò cầm phất trần, nghi giống nghi này. Khóa lễ xong thiết bàn hương án khác tại chánh điện.
Gửi ý kiến của bạn