- 1.1 Lời Tự Trần
- 1.2 Lời Tựa Đầu Tiên
- 1.3 Nguyên Tựa Thanh Quy Chứng Nghĩa
- 1.4 Tựa Khắc In Lại Thanh Quy Chứng Nghĩa
- 1.5 Lời Bạt
- 1.6 Thanh Quy Thiền Môn
- 1.7 Tán
- 1.8 Thanh Quy Tòng Lâm Nguyên Nghĩa Của Tổ Bách Trượng
- Quyển 01: Chúc Diên – Chúc Quốc Vương
- Quyển 02: Báo Ân
- Quyển 03: Báo Đáp Nguồn Gốc
- Quyển 04: Ân Đức Tổ Sư
- Quyển 05: Trụ Trì
- Quyển 06: Hai Dãy Đông Tây Lang
- Quyển 07: Đại Chúng - Phần Thượng
- Quyển 07: Đại Chúng - Phần Hạ
- Quyển 08: Tuổi Đạo
- Quyển 09: Những Đồ Pháp Khí, Hiệu Lệnh
Cúng Dường Đất Đai
Cúng ruộng (núi), cúng đất, cúng thuốc, cúng nhà…nghi thức đều giống nhau, chỉ thay vật muốn cúng thôi.
Tiếp đãi thí chủ như trên, nghi cách giống nhau, Trụ Trì sai thị giả mời người đứng chủ chốt điều hành biết trông coi trong ngoài, cắt đặt người phụ trách phòng khách, nhà kho, thư ký, tri sản. Đây nói tổng quát, nếu nêu riêng phải gọi người trông coi sơn môn là tri sơn, lo việc đất đai là tri điền, cùng tới Ngài Phương Trượng tạ ơn thí chủ bằng cách lập thành bản văn để dễ dàng sau này làm bằng. Thí chủ, Trụ Trì và luật sư đều ký tờ cam kết (giao kèo), giao bằng khoán bản chính, thân nhân thuận cúng, lúa thu, thuế khóa… đều giao đầy đủ. Phương Trượng vào chánh điện thuyết pháp để đáp tạ ân thí chủ. Sau thời thuyết pháp, mời chúng cùng thí chủ đi xem đất; cũng đem theo 10 cành tre để làm móc ranh giới, cho rõ ràng đất cúng chùa. Không được lẫn lộn phạm vi đất người khác để tránh sự tranh tụng. Mỗi năm, tiết mùa xuân 2 bên cùng tới xem lại hạn giới đất một lần. Trong năm, Giám Viện phải khai báo chủ mới và nộp thuế, tức là đất đã thuộc chùa quản trị, khắc đá làm dấu, lập sổ bộ lâu dài. Ngày viết giấy giao kèo có cúng Phật và đãi cơm chay khách dự. Đọc sớ như sau:
Cung kính vì: Cây Bồ Đề cao lớn tỏa rợp bóng che mát khắp 10 phương; hoa Ưu Đàm ngát hương khôn sánh, biến quốc độ này trải rộng mùa xuân, vui ngắm già lam đại giác, dũ lòng chiếu giám cho đàn na… tên thí chủ..sanh năm… tuổi… làng, xã, huyện… đem sở đất số… cúng cho chùa… Trụ Trì tên… Thành tâm niệm tưởng thí chủ… gia duyên ràng buộc, theo nghiệp luân hồi. Tuy tỏ đường giác 1 trương nhưng chưa ra khỏi trần lao nghiệp hệ. May nhờ vạn đức đấng tôn mở bày thiện pháp, nay vì muốn trồng căn lành nên dâng cúng đất làm tài sản tăng chúng. Vì chọn hôm nay nên cung kính trước điện, kính dâng tấc lòng thành hiến cúng, nguyện đem công đức này hồi hướng nhân duyên, cúi xin Tam Bảo chứng minh.
Lại nguyện: trai chủ… túc nghiệp tiêu trừ, phước thọ càng tăng; cúng Phật và tăng nhờ công đức này không bao giờ cùng tận. Bỏ tham tạo phước, quả báo 3 đời thường tan, toàn gia sum họp vui vầy, cháu con gội nhuần ân đức. Nương nhờ phước điền này cho đến trọn thành Chánh giác. Kính thành dâng sớ thỉnh Vi Đà tôn thiên Bồ Tát chứng minh, chúng con nguyện xin hồi hướng.
Ngày… tháng... năm… Trụ Trì… dâng sớ.
Sớ này đọc trước bàn Phật xong, đem trình trước bàn hộ pháp Vi Đà rồi mới đem đốt. Nếu thí chủ muốn cúng cho tiên linh ông bà, nên ghi tên tuổi vào lòng sớ, hoặc cầu nguyện cho cha mẹ, ông bà còn sanh tiền được sống thọ, phước lộc dồi dào. Cũng chính dịp này tới nơi thờ linh lạy tạ hay thiết trai cúng đầy đủ, như nghi tiến linh.
Chứng nghĩa ghi rằng: cúng ruộng như trên là cách cúng dường cao thượng để hộ trì Tam Bảo, giúp việc hoằng pháp lợi sanh nhờ đó mà đầy đủ thiện duyên, đây là chân chánh phước điền. Bởi vì thiết trai phạn cúng dường tăng chỉ trong nhất thời hay hiện thời. Còn cúng đất ruộng kéo dài nhiều đời, công đức thật hết sức to lớn. Cúng đất, cúng thuốc, cúng nhà… các thứ như thế mà suy ra. Cho nên phải cúng ngọ, tuyên đọc sớ để đáp tạ ân đức thí chủ.
Xưa thiền sư Sơ Sơn Tánh vì thí chủ cúng ruộng nên vào Phật điện nói rằng:
- Mỗi người ngồi một tọa cụ vuông, tròn trang nghiêm, xưa nay hành tọa chưa từng dời đổi, ngày tiết lạnh mòn kiếp thạch, đêm chẳng thuộc âm dương. Lại cũng không lương dịch, 4 tiết đến phân minh, bằng khoán thấy rõ ràng đủ chứng minh lô đất thật. Mọi việc đều tự tại, nếu vấn đề (giấy tờ) không đầy đủ, xử dụng thật khó khăn. Như vậy nên người bố thí làm sao không cảm kích, trưởng dưỡng Phật tánh 10 phương, thường sanh lòng đại trí, thí thực sang bố thí các bậc phàm thánh công đức không thể nghĩ bàn. Nếu không tâm cầu cũng không tâm đạt được, nên hiểu rõ ý xuân phong chớ nhận lầm ngọc xuân sơn. Đại nhân duyên vô thượng biết nguồn gốc tâm niệm; nhân quả đã hiển nhiên nên mới tồn đạo lực. Phỏng công người đem đến canh cơm, đồng thiếc, nước nôi… mặc nhiên 3 luân vắng lặng (kẻ thí, người nhận, vật thí). Hư không ảnh vô tung tích, đèn lồng mờ tỏ sáng thâu canh, nương cựu sơn chất đá cao; liễu uốn theo chiều gió, hoa hướng dương hướng mặt trời.
Thuyết pháp như thế có thể nói là không phụ ân thí chủ vậy.
Gửi ý kiến của bạn