- 1.1 Lời Tự Trần
- 1.2 Lời Tựa Đầu Tiên
- 1.3 Nguyên Tựa Thanh Quy Chứng Nghĩa
- 1.4 Tựa Khắc In Lại Thanh Quy Chứng Nghĩa
- 1.5 Lời Bạt
- 1.6 Thanh Quy Thiền Môn
- 1.7 Tán
- 1.8 Thanh Quy Tòng Lâm Nguyên Nghĩa Của Tổ Bách Trượng
- Quyển 01: Chúc Diên – Chúc Quốc Vương
- Quyển 02: Báo Ân
- Quyển 03: Báo Đáp Nguồn Gốc
- Quyển 04: Ân Đức Tổ Sư
- Quyển 05: Trụ Trì
- Quyển 06: Hai Dãy Đông Tây Lang
- Quyển 07: Đại Chúng - Phần Thượng
- Quyển 07: Đại Chúng - Phần Hạ
- Quyển 08: Tuổi Đạo
- Quyển 09: Những Đồ Pháp Khí, Hiệu Lệnh
Quét tháp
Tiết Thanh Minh tại phòng khách, trai đường chùa viết tờ thông cáo dán cho biết ngày quét dọn tháp. Thông cáo viết: ngày mai là lễ Thanh Minh quét tháp. Chư tăng sau khi nghe hiệu lệnh, đắp y chỉnh tề đến trước tháp Tổ để làm lễ và quét dọn.
Thầy Tri Sự phân phối người quét dọn các tháp từ trong ra ngoài cũng như con đường tới tháp. Thầy Tri Khách lên phòng Phương Trượng hỏi thầy Trụ Trì thời giờ, phân định giờ giấc và thông báo cho Duy Na biết lễ tiết, chuẩn bị mọi việc.
Đúng ngày Thanh Minh sau thời Kinh sáng hoàn tất, đại chúng điểm tâm, công tác xong. Khi nghe hiệu lệnh, tất cả tập trung tại Tổ đường lễ Tổ, Thầy Trụ Trì có thể nói sơ về công hạnh Tổ hoặc cắt đặt lau quét tháp. Hòa Thượng Phương Trượng chỉ định việc phải làm. Sắp xếp đồ cúng trên bàn thờ Tổ, bàn thờ chư hương linh đàn na đều bày đồ cúng, hương hoa, đèn nến, thức ăn. (Xem 2 chương đầu, trong điều chấp sự).
Đến giờ hành lễ, đại chúng vân tập lên chánh điện. Thầy Trụ Trì niệm hương (nghi thức xem nghi lễ tháp có đầy đủ), lễ 3 lạy xong. Thầy Trụ Trì cầm chổi quét tháp từ trên chóp đến dưới nền, bỏ chổi, quay lại bàn, tái niệm hương.
Thầy Duy Na cử tán:
Lư hương….Nam Mô Thanh Tịnh pháp thân Tỳ Lô Giá Na Phật (3 lần).
Kế tụng Tâm Kinh, chú biến thực, cam lồ thủy, phổ cúng dường… Cúng xong, Thầy Trụ Trì thuyết pháp. Tháp Tổ Khai Sơn và các vị kế thừa, ngoài ra tùy nghi. Thuyết pháp xong, kết thúc hồi hướng. Dẫn khánh tiến ra ngoài cúng tháp. Nghi thức như trên. Sau khi cúng xong, đại chúng phân đều ra thăm các tháp, Thầy Trụ Trì lui về.
Thầy Giám Viện niệm hương, lễ tháp, đại chúng tụng Kinh Di Đà, chú vãng sanh (3 lần), cúng ngọ. Cuối cùng xướng:
Nơi pháp hội liên trì
Có đức Phật A Di
Và Quan Âm, Thế Chí
Rước người lên sen quí
Xin giữ nguyện kiên trì
Cõi trần quyết thoát ly
Nam Mô Tịnh Độ Phẩm Bồ Tát (3 lần).
Đại chúng cùng lạy 3 lạy rồi lui. Ban Kinh sư tới bàn cúng cô hồn tiếp tục cúng thí hoặc tới các tháp Tổ, hoặc một ngày khác, chỉ Thầy Trụ Trì và 2 thầy có phận sự quét tháp và dâng đồ cúng, đại chúng không cần đi. Như chi phái chính hoặc có giới tử hay đệ tử thế độ (xuất gia) từ nơi khác đến tảo tháp, nên tiếp ở phòng khách; hỏi họ tôn ti mối liên hệ, nếu là đệ tử cả của Trụ Trì xử lễ như bậc tôn túc (xem chương Trụ Trì ở sau, điều nói về các bực tôn túc). Nếu như đồng hàng trở xuống thông báo cho Thầy Trụ Trì, thủ khố, Duy Na biết và mời ấn định thời gian theo nghi cúng đầy đủ như nghi tảo tháp có cúng ngọ như trên. Nhưng mời đại chúng cùng tụng kinh, Trụ Trì phụ quét hay chỉ quét một tháp hoặc 2 tháp tùy theo sự thích hợp của cá nhân; hoặc tách riêng đại chúng không phải tụng kinh, hoặc trừ Trụ Trì không dám phiền sự lao nhọc, cũng tạm đủ. Việc lễ các bậc tôn túc tùy nghi sắp xếp, vị tri khách nên hỏi rõ ràng trước (phải cho thật tế nhị việc này).
Chứng nghĩa ghi rằng: lễ tháp, quét dọn tháp đều thích thời tôn kính tổ tiên; thấy đá tháp hư hao, xem xét cây cối suy tàn. Trên do Tổ linh, dưới đặt mối liên hệ thường trụ không thể bỏ lơ là được. Gần đây phần nhiều bỏ việc tảo tháp, chẳng phải chỉ làm mất gốc lại còn là nổi lo tổ ấn khiếm khuyết không còn người nữa. Là đệ tử của Tam Bảo, ta nên cúng kiến chư Tổ chu đáo để mong ân đức Tổ gia hộ tâm thành của hàng hậu bối.
------------Hết quyển 4------------
[1] Bích quán Bà La Môn: người Bà La Môn nhìn vào vách để chỉ Tổ Bồ Đề Đạt Ma. Ngài tới Trung Quốc năm 520 không hội được ý vua LươngVõ Đế, nên tới dãy Tung Sơn tu thiền quán và xoay mặt vô vách chín năm và sau đó đạt thành Sơ tổ Thiền Tông Trung Quốc và là vị Tổ thứ 28 của phái Thiền nói chung.
[2] Ba minh: ba sự sáng suốt: 1. Túc mạng minh: biết rõ tất cả kiếp sống trước của mình và của những người khác; 2. Thiên nhãn minh: mắt thiên biết rõ đời mình và những chúng sanh khác sẽ diễn tiến ra sao; 3. Lậu tận minh: đoạn sạch hết phiền não, đau khổ và mê lầm trong đời sống hiện tại.
[3] Lục thông: 6 phép thần thông: phép thông của thiên nhãn, phép thông của thiên nhỉ, thông đạt tâm kẻ khác, phép thông vận hành (thần túc thông), thông suốt các kiếp trước của mình và sạch hết phiền não trói buộc dù nhỏ nhiệm đến đâu (lậu tận thông).
[4] Tam bạch yết ma: Tăng già hòa hợp chúng làm pháp Bố Tát hay truyền giới đều phải làm phát yết ma hỏi ba lần mới hợp luật và đạo lý. Hỏi lần thứ nhất, hỏi lần thứ hai và hỏi lần thứ ba. Khi hội đồng tăng biết chắc là trong chúng không còn ai có ý kiến khác, tức là tất cả đồng thuận việc mới thành tựu viên mãn.
[5] A Xà Lê: Tàu dịch là giáo thọ tức vị Thầy dạy đạo pháp. Trong đại giới đàn 3 vị ngồI trên cao. vị chính giữa là đàn đầu Hòa Thượng, vị bên phải là Yết Ma A Xà Lê, vị bên trái là Giáo thọ A Xà Lê.
[6] Bát nạn: 8 nạn trong đời sống là: 1. sanh vào cõi địa ngục; 2. sanh trong loài ngạ quỉ; 3. sanh vào loài súc sanh; 4. sanh lên cõi trời Trường Thọ; 5. sanh miền Bắc Cu Lô Châu (giá băng suốt quanh năm không có ánh mặt trời); 6. sanh trước Phật hay sanh sau Phật cũng đều bất hạnh; 7. giỏi luận biện bác làu thông theo thế trí; 8. đui (mù), điếc, ngọng, câm.
Gửi ý kiến của bạn