TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO
TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRƯỜNG BỘ KINH
(Dìgha Nikàya)
Tập II
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli
Chuyển thể Thơ: Giới Lạc MAI LẠC HỒNG
NHÀ XUẤT BẢN PHƯƠNG ĐÔNG PL. 2555 - DL 2010
21. Kinh
ĐẾ THÍCH SỞ VẤN
( Sakka Panha-sutta )
Như vậy, tôi nghe :
1. Một thời, đức Thế Tôn du hóa
Vương Xá thành – Rá-Chá-Ga-Ha (1)
Thuộc vương quốc Ma-Kiệt-Đà (1)
Hay tên chính Ma-Ga-Tha (1) cũng là
Làng Bàn-môn Am-Ba-Sanh-Đá (2)
Trên núi Vê-Đi-Dá (Tỳ-Đà ) (3)
Trong hang Inh-Đá-Sa-La (4)
Thuộc về phía bắc, không xa ngôi làng.
Lúc bấy giờ Thiên-hoàng Sắc-Ká (5)
(Tức Đế Thích) vua cả Chư Thiên
Đao-Lợi – Tam thập tam thiên,
Khởi tâm náo nức muốn liền cung chiêm
Đức Thế Tôn tịnh nghiêm tôn quý
Rồi Thiên Chúa suy nghĩ, băn khoăn :
“ Nay đấng Thầy cả Thiên, Nhân
Chánh Đẳng Chánh Giác hiện thân nơi nào ? ”.
Với thiên nhãn thanh cao, ngài thấy
Đức Thế Tôn ở tại phía đông
_______________________________
(1) : Thành Vưong Xá – Ràjagaha , nước
(2) : Làng Bà-la-môn Ambasanda (Am-bà-la) .
(3) : Núi Vediya – Tỳ-Đà Sơn .(4) : Hang Indasàla (Nhơn-đà-sa-la)
(5) : Cõi trời Dục-giới Tàvatimsà – Đao Lợi hay cõi trời Tam
thập tam thiên ( cõi trời Ba mươi ba ) do vị Thiên Chủ Sakka
Deva Indra ( Thích-Đề-Hoàn-Nhân hay Đế-Thích ) chủ quản .
Trường Bộ - (T. 2) Kinh 21 : ĐẾ THÍCH SỞ VẤN * MLH – 372
Thành Vương Xá, làng Bàn-môn
Núi Vê-Đi-Dá gần thôn làng này
Trong hang đây : Inh-Đa-Sa-Lá.
Thấy như vậy, Sắc-Ká Chúa Trời
Nói với chư Thiên cõi trời
Băm Ba – Đao-Lợi, với lời hân hoan :
– “ Này quý vị ! Phật đang du hóa
Thành Vương Xá, xứ Ma-Ga-Tha
Hang núi Inh-Đa-Sa-La
Chỗ Ngài trú ngụ không xa ngôi làng.
Vậy chúng ta hãy sang chiêm ngưỡng
Đức Thế Tôn vô lượng Trí Bi ”.
– “ Xin vâng ! Chúng tôi thuận tùy
Mong an lành đến cho vì Thiên Vương ”.
2. Rồi Thiên vương cho vời Ngũ Kế
Tên thường kể : Banh-Chá-Sí-Kha (1)
Con của vị Ganh-Tháp-Ba (2)
Nói rằng : “ Nay đức Phật Đà trú an
Tại trong hang Inh-Đa-Sa-Lá
Thành Vương Xá xứ Ma-Ga-Tha
Vậy khanh hãy cùng theo ta
Đến nơi chiêm ngưỡng Phật Đà Trí Bi ”.
– “ Con sẽ đi theo ngài đến lễ ”.
Đoạn Ngũ Kế cầm lấy cây đàn
Bằng gỗ Bê-lu-va vàng
Đi theo Thiên Chúa cùng hàng chư Thiên.
Rồi an nhiên như người lực sĩ
_______________________________
(1) : Pancasikha – Ngũ Kế . (2) : Gandhabba - Càn-Thát-Bà :
Là những nhạc công cõi trời , chuyên tấu nhạc phục vụ chư Thiên .
Trường Bộ - (T. 2) Kinh 21 : ĐẾ THÍCH SỞ VẤN * MLH – 373
Duỗi cánh tay hay chỉ co tay
Cung trời Đao Lợi biến ngay
Hiện ra trên núi tỏa đầy hào quang.
3. Lúc bấy giờ , ngôi làng Phạm-chí
Dân chúng đang yên nghỉ đêm qua
Bỗng thấy rực sáng núi xa
Khắp làng cũng thấy chói lòa sáng trưng.
Hiện tượng ấy bỗng dưng thấy được,
Dân lo sợ, dựng ngược tóc lông,
Nói rằng : “ Cơ sự không xong !
Tỳ-Đà Sơn đã cháy không thể ngờ
Lửa đỏ rực làm mờ cả núi,
Làng này cũng tàn lụi mất rồi !
Lửa cháy sáng chói khắp nơi
Nhà cửa, của cải đi đời rồi đây ! ”.
4. Đứng trên núi, rồi ngài Thiên Đế
Bảo Ngũ Kế, con Càn-Thát-Bà :
– “ Này khanh Banh-Chá-Si-Kha !
Chư Thiên khó để người ta đến gần
Khó lại gần Thế Tôn, Thánh chúng
Vì các ngài hiện cũng nhập thiền
Hoan hỷ, an lạc trong thiền
Điều ấy cần đến tịnh yên đạo tràng.
Vậy khanh hãy gảy đàn tuyệt diệu
Khiến Phật hiểu hiện diện chúng ta
Và Ngài hoan hỷ, an hòa
Chúng ta mới đến để ra mắt Ngài,
Bậc Thế Tôn đủ đầy bi trí
Chánh Đẳng Giác tôn quý cõi đời ”.
Trường Bộ - (T. 2) Kinh 21 : ĐẾ THÍCH SỞ VẤN * MLH – 374
– “ Xin vâng Thiên chủ Cung Trời
Cầu mong an lạc, thảnh thơi đến ngài ”.
Rồi Ngũ Kế đến ngay đường cuối
Trước hang núi Inh-Đá-Sa-La
Đứng lại một bên, nghĩ là :
“ Nơi đây là chỗ không xa, không gần
Để bậc Thầy Thiên Nhân nghe được
Tiếng đàn hát phía trước của ta ”.
Thế rồi Banh-Chá-Si-Kha
Ngũ Kế – con Càn-Thát-Bà cõi Thiên
Gảy đàn cầm và liền cất tiếng
Giọng điêu luyện, hát với kệ ngôn
Liên hệ đến đức Thế Tôn
Đến Pháp, đến chúng Sa-môn Thánh hiền,
Cũng liên hệ tương duyên Ái dục
Vì cũng là một khúc tình ca :
5. “ Su-Ri-Da Vát-Cha-Sa !
Hỡi người yêu quý ngọc ngà ôn nhu
Ta đảnh lễ Tim-Ba-Ru
Cha nàng ; mong được thiên thu một nhà
Ông là vua Càn-Thát-Bà
Đã sinh thiện nữ tinh hoa là nàng.
Nàng là gió mát mơn man
Là nguồn hạnh phúc vô vàn của ta
Nước cho kẻ khát đường xa
Nàng chính là bản tình ca tuyệt vời
Như Pháp siêu việt sáng ngời
Cho vị Ứng Cúng mọi thời dựa nương
Như thuốc cho kẻ bệnh vương
Trường Bộ - (T. 2) Kinh 21 : ĐẾ THÍCH SỞ VẤN * MLH – 375
Đồ ăn cho kẻ đói thường cầu mong.
Thiên nữ với nước tịnh trong
Hãy dập tắt lửa tình nồng quá yêu
Như voi bị nắng đốt thiêu
Đầm mình hồ nước mát, nhiều đóa sen
Có nhiều cánh sen, nhụy sen
Cũng vậy, ta muốn nhiều phen đắm chìm
Vào ngực nàng, cạnh trái tim
Như voi bị xích, cố tìm thoát xa
Hất móc câu, gậy nhọn ra
Ta điên vì ngực thơm hoa của nàng
Hành động ta loạn, điên càn
Tâm ta đã bị trói ngang tình trường
Tiến tới thì thật vô phương
Thối lui cũng chẳng có đường để sang
Như cá mắc câu vội vàng
Nàng hãy choàng cánh tay nàng ôm ta !
Ánh mắt diu hiền nhìn ta
Hãy ghì chặt lấy thân ta trong nàng.
Thiện nữ ! Ta van xin nàng !
Suối tóc nàng mượt như làn suối tiên
Ái dục ta tăng bội liền
Nhiều như đồ chúng hiện tiền Thánh Tăng
Bao nhiêu công đức thực hành
Dâng lên La-Hán tịnh thanh phước điền.
Ôi nàng kiều nữ như tiên !
Nàng là quả của phước duyên ta làm
Như vị Thích tử thiện lành
Thiền tu giác tĩnh thực hành nhất tâm
Đạo bất tử quyết cầu tầm
Trường Bộ - (T. 2) Kinh 21 : ĐẾ THÍCH SỞ VẤN * MLH – 376
Giống vậy, ta cũng thành tâm cầu nàng.
Như người tu đạo hân hoan
Bồ đề tối thượng vô vàn, chứng ngôi
Ta cũng sung sướng vô hồi
Được hòa nhập một, không rời ra xa.
Nếu ngài Thiên Chúa Sắc-Ka
Cho ta ước nguyện, thì ta ước nàng
Vì ta đã quá yêu nàng
Sa-la sinh quả, sau mang ra trồng
Vì sinh được khách má hồng
Ta xin đảnh lễ ân công cha nàng ”.
6. Đức Thế Tôn nghe vang vọng tới
Liền nói với Banh-Chá-Si-Kha
Con của vị Ganh-Tháp-Ba :
– “ Ngũ Kế ! Giọng khéo hòa ca với đàn
Huyền âm đàn, giọng ca hòa điệu
Ai thâm hiểu, nhận xét ngay là :
Tiếng đàn không át giọng ca
Giọng ca không át ngân nga tiếng đàn.
Này Ngũ Kế ! Để đàn và hát
Ngươi học đâu về các kệ này
Liên hệ Phật, Pháp, Tăng đây
Liên hệ ái dục, trình bày vừa qua ? ”.
– “ Bạch Thế Tôn ! Số là lúc trước
Lúc Thế Tôn đang vượt gian truân
U-Ru-Vê-Lá (1) khu rừng
Nê-Ranh-Cha-Rá (2) sông từng lưu danh
_______________________________
() : Khổ Hạnh Lâm Uruvela ( Ưu-lâu-tần-loa ).
(2) : Sông Neranjara ( Ni-Liên-thuyền ).
Trường Bộ - (T. 2) Kinh 21 : ĐẾ THÍCH SỞ VẤN * MLH – 377
Dưới cây lành A-Cha-Pa-Lá (1)
(Cội bồ đề) và đã đạt thành
Chánh Đẳng Chánh Giác tịnh thanh
Bậc Vô Thượng Sĩ trọn lành, Thế Tôn.
Lúc ấy con đang yêu điên dại
Người con gái của Tím-Bá-Ru (2)
Vua Càn-Thát-Bà toàn chu
Phách-Đa (3), tên gọi ôn nhu của nàng
Với biệt hiệu dịu dàng như nhạc
Là Su-Ri-Dá Vát-Cha-Sa (3).
Nhưng nàng lại yêu người ta
Chàng Si-Khách-Thí (4), con đà có nghe
Ma-Ta-Li (4) đánh xe thiên giới
Được biết tới là thân phụ chàng.
Không có phương tiện gặp nàng
Cũng không còn cách cùng nàng kết duyên
Nên con liền cầm đàn sẵn có
Bê-lu-va (5) loại gỗ màu vàng
Gảy đàn tại trước nhà nàng
Hát lên bài kệ nhẹ nhàng như kinh
Ý liên hệ cao minh Phật, Pháp
Đến Thánh Tăng ; lại hạp ái tình.
7. Bạch đức Thế Tôn ! Tự mình
Con đã đàn hát tự tình kệ ngôn
Y như lời Thế Tôn vừa mới
Nghe con tới đàn hát trước hang
Làm ồn tịnh địa đạo tràng
_______________________________
(1) : Cây Ajapàla – nigrodha . (2) : Timbaru .
(3) : Nàng Bhaddhà Suriya Vaccasà .
(4) : Sikhaddhi con của Màtali . (5) : Gỗ vàng Beluva .
Trường Bộ - (T. 2) Kinh 21 : ĐẾ THÍCH SỞ VẤN * MLH – 378
Xin Ngài thứ lỗi mọi đàng cho con.
Con xin tiếp : Khi nàng nghe thế
Nàng nhỏ nhẹ nói để con nghe :
“ Này Hiền-giả ! Tôi chưa hề
Thấy được sắc tướng quý về Thế Tôn
Nhưng có nghe Thế Tôn danh tiếng
Khi đến múa tại Thiện Pháp Đường.
Vì Hiền giả đã tán dương
Thế Tôn cùng Pháp vô lường siêu minh
Vậy chúng mình hôm nay gặp mặt ”.
Bạch Thế Tôn ! Quả thật sau này
Con có gặp được nàng đây
Không phải hôm ấy, vài ngày về sau ”.
Vị đứng đầu Thiên tầng cõi giới
Trời Đao Lợi – Tam thập tam thiên
Thiên Chúa Sắc-Ká uy quyền
Suy nghĩ về sự đang liền xảy ra :
‘ Nay Banh-Chá-Si-Kha – Ngũ Kế
Đang kể lể với Phật hân hoan
Thế Tôn cũng đối với chàng
Hoan hỷ nói chuyện hoàn toàn tự nhiên ’.
Rồi Thiên Chúa cõi Thiên Sắc-Ká
Nói với chàng Banh-Chá-Si-Kha :
– “ Này khanh ! Hãy thay mặt ta
Chí thành đảnh lễ Phật Đà Thế Tôn
Và nói : ‘Bạch Thế Tôn cao cả !
Vua Đế Thích với cả đình thần
Cùng các thuộc hạ thiên tầng
Cúi đầu sát đất dưới chân Phật Đà’.
Trường Bộ - (T. 2) Kinh 21 : ĐẾ THÍCH SỞ VẤN * MLH – 379
Ngũ Kế đã vâng qua lời dạy,
Bạch với Phật điều đấy rõ ràng
Thế Tôn an nhiên nói rằng :
– “ Mong cho Thiên Chủ càng tăng phúc lành.
Các đình thần cùng hàng thuộc hạ
Mong tất cả đều được an hòa
Chư Thiên, loài người, Na-Ga,
A-Tu-La, Càn-Thát-Bà - đều mong
Đều ao ước vừa lòng, hạnh phúc
Khắp chúng sinh tiếp tục cầu tìm
Những điều hạnh phúc cổ kim
Cầu mong tất cả đạt niềm ước mong ”.
Chư Như Lai cũng đồng một cách
Để chào đón thượng khách chư Thiên
Biết ý, Sắc-Ká Đế Thiên
Bước vào hang núi trước tiên, sáng lòa
Hang Inh-Đá-Sa-La hẹp chật
Đảnh lễ Phật và đứng một bên
Chư Thiên Tam thập tam Thiên
Cùng với Ngũ Kế cũng liền vào trong
Đảnh lễ Phật vừa xong, đứng kế.
Lúc ấy nhờ uy thế vô biên
Thần lực Thiên Chúa & chư Thiên
Hang được mở rộng, nền liền phẳng phiu
Ánh hào quang muôn chiều sáng rực.
Thế Tôn nói với bậc Chúa Trời :
– “ Thật là hy hữu, tuyệt vời !
Thật là kỳ diệu đồng thời xảy ra.
Đại Đức Kô-Si-Da (1), Thiên chủ !
_____________________ (1) : Xem chú thích trang kế .
Trường Bộ - (T. 2) Kinh 21 : ĐẾ THÍCH SỞ VẤN * MLH – 380
Tuy có nhiều nhiệm vụ phải lo
Có nhiều trọng trách nhỏ to
Mà vẫn đến được, khiến cho huy hoàng,
( Làm sáng chói trong hang tăm tối
Với đại chúng câu hội thật đông ) ”.
– “ Bạch Thế Tôn ! Con ước mong
Được đến yết kiến Thế Tôn bao lần
Nhưng từ lâu bị ngăn trở mãi
Vì công việc ở tại Thiên cung.
Kính bạch Thế Tôn Đại Hùng !
Một thời Ngài đã trú cùng Chư Tăng
Sa-Vách-Thí (2) tức thành Xá Vệ
Sa-La-La (2) thất, kế thành này.
10. Con đã đi đến nơi đây
Nhưng thật đáng tiếc, gặp ngay trái thời
Ngài nhập định tại nơi tịnh thất
Đang hầu Phật, có vị nương nương
Phun-Cha-Ti (3), vợ Thiên Vương
Vết-Sa-Vá-Ná (3) tức Tỳ-Sa-Môn.
Con ôn tồn nói cùng người nữ :
– “ Này Hiền tỷ ! Xin thứ lỗi ta,
Thay ta đảnh lễ Phật Đà
Đình thần, quyến thuộc của ta cũng đồng ”.
– “ Thưa Thiên chủ ! Thật không phải lúc
Để yết kiến thoát tục Phật Đà
_______________________________
(1) : Kosiya ( có lẽ là tên tiền kiếp của vị Đế Thích , là một vị Tỷ
Kheo tu hành công đức , được tái sinh làm Vua Trời Đao Lợi ).
(2) : Tịnh thất ( cốc ) tên Salala tại thành Sàvatthi ( Xá-Vệ ) .
(3) : Bhunjàti - vợ của Tỳ-Sa-Môn Thiên Vương (Vessavana ).
Trường Bộ - (T. 2) Kinh 21 : ĐẾ THÍCH SỞ VẤN * MLH – 381
Ngài đang nhập định thiền-na
Cần sự vắng lặng, tránh xa ồn ào ”.
– ‘ Đức Thế Tôn khi nào xuất định,
Xin Hiền-tỷ thay chính chúng ta
Chí thành đảnh lễ Phật Đà
Cúi đầu sát đất, thiết tha chí thành ”.
Sau khi nhắn, con đành rời khỏi
Không biết bà có nói hay không ?
Có thay con lễ hết lòng ? ”.
– “ Sắc-Ka Thiên chủ ! Chính trong giao thời
Ngài vừa rời thì Ta xuất định
Vì nghe chính tiếng bánh xe ngài
Phun-Cha-Ti đã trình bày
Những lời ngài nhắn, nói ngay tức thời ”.
11. – “ Bạch Thế Tôn ! Cung trời Đao Lợi
Trước khi con sinh tới nơi này
Có nhiều Chư Thiên ở đây
Họ đã sinh trước, đủ đầy phước duyên
Chính con nghe chư Thiên ấy nói :
‘Phật xuất hiện tại cõi nhân gian
Chánh Đẳng Chánh Giác hoàn toàn
Đại A-La-Hán – đạo vàng truyền ra
Thì Thiên giới trải qua hưng thịnh
A-Tu-La nhất định suy vong’.
Bạch Thế Tôn ! Khi nghe xong
Con đã suy nghĩ đục trong tinh tường
Thì thấy rõ một đường, xác chứng
Nhận xét trên rất đúng, sâu xa
Như trường hợp Gô-Pí-Ka (1)
Trường Bộ - (T. 2) Kinh 21 : ĐẾ THÍCH SỞ VẤN * MLH – 382
Ca-Tỳ-La-Vệ sinh ra nơi này
Tin Tam Bảo sâu dày, cung kính
Giữ giới luật thanh tịnh, nghiêm minh
Nàng Thích nữ này bình sinh
Loại bỏ tâm niệm linh tinh đàn bà
Niệm đàn ông trải qua tu tập,
Khi thân hoại, sinh gấp cõi trời
Tam thập tam thiên thảnh thơi
Làm con Đế Thích, vua trời Băm Ba
Thiên tử Gô-Pá-Ka (1) tên gọi
Sống an lành một cõi đủ đầy.
Bạch Thế Tôn ! Cõi trời này
Ba Tỷ Kheo nọ trước đây tu hành
Với phạm hạnh không thanh tịnh mấy
Khi mạng chung đưa đẩy sinh qua
Hạ đẳng giới Càn-Thát-Bà
Họ sống ngụp lặn xa hoa cõi này
Năm món dục mê say thụ hưởng
Thường sung sướng được hầu chúng con
Phục vụ đàn hát nỉ non.
Gô-Pá-Ká lúc đang còn trong cung
Trách la họ vô cùng nghiêm khắc :
‘Các ngươi thật không biết hổ ngươi
Khi còn sống ở trên đời
Tu hành theo đấng tuyệt vời Thế Tôn
Lại giải đải, không dồn nỗ lực
Để tu hành thành thực, tinh cần
Phải làm Càn-Thát-Bà thân
Thuộc hàng hạ đẳng ; muôn phần đáng chê
_______________________________
(1) : Tín nữ Gopikà tái sinh làm Thiên tử Gopakà .
Trường Bộ - (T. 2) Kinh 21 : ĐẾ THÍCH SỞ VẤN * MLH – 383
Mà các ngươi không hề ân hận
Thật là điều chắc hẳn xấu xa !
Chính ta xưa là đàn bà
Một niềm tin kính Phật và Pháp, Tăng
Phần giới luật ta hằng nghiêm giữ
Ta lại tự tu tập trải qua
Loại bỏ tâm niệm đàn bà
Luôn luôn tâm niệm phải là đàn ông
Mệnh tận xong, sinh ngay Thiên giới
Làm con của Đao Lợi Chúa Trời’.
Sau khi nghe rõ những lời
Có tính khích lệ đồng thời trách la
Hai vị Càn-Thát-Bà xấu hổ
Chứng chánh niệm tại chỗ, sinh lên
Làm vị phụ tá Phạm Thiên
Một vị còn lại phan duyên lục trần
Vẫn tiếp tục bản thân thụ hưởng
Mọi dục lạc, chẳng ngượng thẹn chi ”.
12. “ Đệ tử đấng Chánh Biến Tri
Là bậc pháp nhãn uy nghi Phật-Đà
Ta tên là Gô-Pá-Ka
Tin tưởng, sùng kính Phật và Pháp, Tăng
Tâm niệm hoan hỷ vô ngần
Nhờ vào thiện pháp thánh chân Phật Đà
Sinh làm con của Sắc-Ka
Là Thiên Chúa Ba Mươi Ba cõi trời
Hào quang thiên giới sáng ngời
Gô-Pá-Ka chính tên trời của ta.
Ta thấy Tỷ Kheo có ba
Sinh hạ đẳng Càn-Thát-Bà, bê tha
Trường Bộ - (T. 2) Kinh 21 : ĐẾ THÍCH SỞ VẤN * MLH – 384
Trước cũng đệ tử Phật Đà
Vô Thượng Sĩ Gô-Ta-Ma cõi người
Hành phạm hạnh nhưng dể duôi
Phải sinh hạ phẩm, biếng lười vui chơi.
“ Trước kia sinh làm thân người
Ta là phụ nữ, không dời quyết tâm
Cúng dường vật dụng, thức ăn
Cho Tỷ Kheo chúng ; có phần các ngươi
Chỉ vì giải đải biếng lười
Các ngươi nay phải hầu nơi thiên đình
Mắt các ngươi bị thông manh
Không thấy được pháp tịnh thanh nhiệm mầu
Chánh pháp phải tự hiểu sâu
Nương bậc pháp nhãn trước sau dạy rành
Nhờ vào chánh pháp thực hành
Siêng tu theo Pháp trọn lành tịnh an
Nay làm Thiên tử rỡ ràng
Con đức Đế Thích, hào quang lực thần.
Ta thật khó chịu muôn phần
Thấy đồng môn lại chịu phần hạ sanh
Không được hạ phẩm thượng sanh
Càn-Thát-Bà phải quẩn quanh hầu Trời.
Ta Cư-sĩ nữ cõi đời
Các ngươi Phích-Khú (1), cũng thời đồng môn
Cùng theo lời dạy Thế Tôn
Ta nay nam tử, ngươi còn cầm ca ”.
Bị Thiên tử Gô-Pá-Ka
Khiển trách, chỉ trích thật là xấu xa
Hai trong ba Càn-Thát-Bà
_______________________________
(1) : Bhikkhu , âm là Tỳ-Khưu hay Tỷ-Kheo , nghĩa là Khất sĩ .
Trường Bộ - (T. 2) Kinh 21 : ĐẾ THÍCH SỞ VẤN * MLH – 385
Cảm thấy hổ thẹn, trải qua ưu phiền
Rồi đồng tự nguyện tinh chuyên
Thăng tiến nỗ lực vượt lên an bài
Không làm nô lệ cho ai
Thực hành lời dạy của Ngài Thích Ca
Nhờ pháp thanh tịnh, sáng lòa
Tẩy sạch tâm uế, tránh xa dục tình
Thấy nguy hiểm dục vọng sinh
Dẫn đến đọa lạc, vô minh phủ quàng
Như voi thoát giây buộc ràng
Tam Thiên các vị hoàn toàn vượt qua
Vứt bỏ dục-kiết-sử tà
Triền phược khó vượt cũng đà vượt đi.
Sắc-Ká, Ba-Cha-Bá-Ti (1)
Cùng với hội chúng uy nghi đang ngồi
Tại Thiện Pháp Đường thảnh thơi
Anh hùng ly dục cấu, rồi vượt lên
Không còn lo ngại mình hèn
Va-Sa-Va (1) giữa chúng bèn thấy ra
Chúng sinh hạ phẩm Thát-Bà
Nay Tam thiên đã vượt qua khỏi liền
Nhờ suy tư lời ưu phiền
Gô-Pá-Ka đã tùy duyên khích liền
Nói với Va-Sa-Va Thiên :
‘ Đế Thích nhân giới hiện tiền trải qua
Là Đức Phật hiệu Thích Ca
Chinh phục dục vọng mê tà lầm sai
Ba Tỷ Kheo đệ tử Ngài
Để cho thất niệm sinh lai Thát-Bà
_______________________________
(1) : Sakka , Pajàpati & Vàsava , tên khác của Đế Thích .
Trường Bộ - (T. 2) Kinh 21 : ĐẾ THÍCH SỞ VẤN * MLH – 386
Hạ đẳng, thụ hưởng dục tà.
Hai vị chánh niệm nhờ ta trách rầy,
Một vị trong ba vị này
Tiếp tục sa đọa, không rày đổi thay.
Hai vị tỉnh ngộ hành ngay
Hướng đến Chánh Giác vốn đầy tinh hoa
Bỏ Thiên giới, nhập thiền-na
( Sinh làm phụ tá dưới tòa Phạm Thiên )
Không thể nghi ngờ thắng duyên
Hai vị chứng pháp, Phạm Thiên sinh liền.
Chúng ta đảnh lễ Phật tiền
Thích Ca Đại Giác an nhiên thường hằng
Vượt khỏi bộc lưu trở ngăn
Là giòng nước lũ dữ dằn cuốn trôi
Diệt trừ nghi ngờ chơi vơi
Bậc đã chiến thắng mọi nơi muôn loài
Chứng pháp chân chính tại đây
Tiến bước, thù thắng đạt ngay quả này
Thắng vị hai vị đạt đây
Sinh làm phụ tá cho ngài Phạm Thiên.
Kính bạch Thế Tôn hiện tiền
Con và thiện hữu đến liền rất đông
Mong được chứng pháp viên thông
Nếu Ngài cho phép thuận đồng chúng con
Chúng con xin hỏi Thế Tôn
Về những nghi vấn vẫn tồn lâu nay ”.
13. Đức Thế Tôn điều này suy nghĩ :
“ Từ lâu, vị Thiên Chúa Sắc-Ka
Sống đời trong sạch từ hòa
Câu nào Đế Thích hỏi ta bây giờ
Trường Bộ - (T. 2) Kinh 21 : ĐẾ THÍCH SỞ VẤN * MLH – 387
Cũng đem lại vô bờ lợi ích
Không phải là vô ích, viễn vông
Câu trả lời vốn chờ mong
Sắc-Ka sẽ hiểu nằm lòng thật nhanh ”.
Rồi Thế Tôn an lành nói kệ
Với Đế Thích, chủ tể cõi trời :
“ Va-Sa-Va, Chúa cõi Trời !
Hãy hỏi, Ta sẽ trả lời suốt thông
Điều ngươi thắc mắc trong lòng
Ngươi sẽ thỏa mãn, không còn hoài nghi ! ”.
- II -
1. Được Đức Phật từ bi cho phép
Thích-Đề-Hoàn-Nhơn đẹp lòng liền
Nêu lên câu hỏi đầu tiên :
– “ Bạch đức Điều Ngự ! Do nên cái gì
Do từ kiến-sử chi đã khiến
Mà các loài quý, tiện, gần, xa
Trời, Người lẫn A-Su-Ra
Càn-Thát-Bà đến Na-Ga – loài rồng
Tất cả loài ở trong Tam giới
Đều ao ước sống với yêu thương
Không thù hận, không đả thương
Cũng không ác ý hại thường đến nhau.
Nhưng sự thật không sao có được
Họ đã sống trái ngược điều mong ? ”
– “ Này Thiên Chúa ! Hãy hiểu thông :
Xan tham, tật đố trong lòng thậm đa
Khiến Trời, Người, Na-Ga, loài khác
Trường Bộ - (T. 2) Kinh 21 : ĐẾ THÍCH SỞ VẤN * MLH – 388
A-Tu-La, Càn-Thát-Bà thường
Ác ý, thù hận, đả thương
Sống với nhau chỉ kiếm đường hại nhau ”.
Nghe Thế Tôn trước sau giải thích
Vị Đế Thích sung sướng hân hoan
Hoan hỷ tín thọ lời vàng :
– “ Kính bạch Thiện Thệ ! Hoàn toàn chánh chơn
Khiến nghi ngờ của con diệt tất
Mọi do dự, thắc mắc không còn.
2. Nhưng xin hỏi tiếp Thế Tôn :
Xan tham, tật đố bắt nguồn từ đâu ?
Nhân duyên gì, đìều nào tập khởi ?
Đã khiến chúng sanh-khởi, có ra ?
Cái gì không có mặt ra
Xan tham, tật đố cùng là mất đi ? ”
– “ Này Thiên Chúa ! Do tùy Ưa, Ghét
Mà xan tham, tật đố khởi liền
Do ưa, ghét làm nhân duyên
Ưa, ghét tập khởi, chúng liền khởi sanh.
Do ưa, ghét chúng nhanh hiện hữu
(Là hiện hữu tật đố, xan tham).
Không còn tật đố, xan tham
Khi nào ưa, ghét hoàn toàn không sinh ”.
– “ Bạch Thế Tôn ! Nhân tình ưa, ghét
Nhân duyên gì ưa, ghét khởi sinh ?
Do tập khởi gì chúng thành hình ?
Ưa, ghét có mặt do sinh từ gì ? ”.
– “ Này Thiên Chúa ! Khởi đi từ Dục
Làm tập khởi, do dục nhân duyên
Trường Bộ - (T. 2) Kinh 21 : ĐẾ THÍCH SỞ VẤN * MLH – 389
Khiến ưa, ghét khởi sinh liền
Dục không có mặt, mất liền ghét, ưa ”.
– “ Bạch Thế Tôn ! Xin đưa câu hỏi :
Dục đã nói, do tập khởi gì ?
Hay là do nhân duyên chi ?
Cái gì có mặt, Dục thì có ra ? ”.
– “ Này Sắc-Ka ! Do Tâm tập khởi
Làm nhân duyên cũng bởi do tâm
Tâm khiến Dục sinh khởi ngầm
Hễ tâm có mặt thì tầm dục ngay ”.
– “ Bạch Thế Tôn ! Tâm này do bởi
Lấy gì làm tập khởi, nhân duyên ?
Cái gì khiến tâm khởi liền ?
Cái gì không có, tâm liền mất đi ? ”
– “ Này Thiên Chúa ! Chỉ vì Vọng Tưởng
(Các hý luận vọng tưởng) làm nên
Làm tập khởi, làm nhân duyên
Khiến tâm sinh khởi, mối giềng là đây
Do vọng tưởng với đầy hý luận
Tâm có mặt, trạng huống tức thì
Vọng tưởng hý luận mất đi
Tâm không có mặt, chẳng chi phải phiền ”.
3. – “ Bạch Thế Tôn ! Cần chuyên Phích-Khú
Phải chứng đạt đầy đủ thế nào,
Phải thành tựu con đường nào,
Để cho thích hợp hướng vào diệt đi
Các vọng tưởng mê si hý luận ? ”.
– “ Này Thiên Chúa ! Tường tận kể ra :
+ Hỷ có một loại tránh xa
Trường Bộ - (T. 2) Kinh 21 : ĐẾ THÍCH SỞ VẤN * MLH – 390
Một loại thân cận, đó là có hai.
+ Ưu cũng hai loại, thường đối đải
Một thân cận, một phải tránh xa.
+ Xả cũng hai loại kể ra
Một loại phải tránh, một là cận thân.
– Này Sắc-Ká ! Ta cần phân loại
* Hỷ đã có hai loại tạo nên
Tại sao tuyên bố như trên ?
Loại hỷ nào có thể liền biết ngay :
‘Với hỷ này, khi tôi thân cận
Bất thiện pháp thừa thắng tăng dần
Thiện pháp suy giảm nhiều phần
Hỷ ấy dứt khoát phải cần tránh xa’.
Loại hỷ nào mà ta biết đấy :
‘Khi thân cận hỷ ấy hằng ngày
Bất thiện pháp suy giảm ngay
Thiện pháp tăng trưởng, điều này lành thay !
Loại hỷ này phải nên thân cận’.
Có hỷ vẫn câu hữu với Tầm
Câu hữu với Tứ âm thầm
Hoặc không câu hữu với tầm, tứ đâu,
Loại hỷ nào vốn không câu hữu
Với tầm, tứ – thù thắng hơn nhiều.
Này Thiên Chúa ! Đó là điều
Ta đã tuyên bố Hỷ đều có hai
Loại tránh ngay, loại nên thân cận.
* Ưu cũng vậy, thân cận, tránh xa
Tuyên bố vậy, nhân duyên là
Loại ưu có thể biết qua thế này :
‘Với ưu đây khi tôi thân cận
Trường Bộ - (T. 2) Kinh 21 : ĐẾ THÍCH SỞ VẤN * MLH – 391
Bất thiện pháp thừa thắng tăng dần
Thiện pháp suy giảm nhiều phần
Ưu ấy dứt khoát phải cần tránh xa’.
‘Loại ưu nào mà ta biết đấy
Khi thân cận ưu ấy hằng ngày
Bất thiện pháp suy giảm ngay
Thiện pháp tăng trưởng, điều này lành thay !
Loại ưu đây phải nên thân cận’.
Có ưu vẫn câu hữu với tầm
Câu hữu với tứ âm thầm
Hoặc không câu hữu với tầm, tứ đâu.
Loại ưu nào vốn không câu hữu
Với tầm, tứ – thù thắng hơn nhiều.
Này Thiên Chúa ! Đó là điều
Ta đã tuyên bố Ưu đều có hai
Loại tránh ngay, loại nên thân cận.
* Xả cũng vậy, thân cận, tránh xa
Tuyên bố vậy, nhân duyên là
Loại xả có thể biết qua thế này :
‘Với xả đây khi tôi thân cận
Bất thiện pháp thừa thắng tăng dần
Thiện pháp suy giảm nhiều phần
Xả ấy dứt khoát phải cần tránh xa’.
‘Loại xả nào mà ta biết đấy
Khi thân cận xả ấy hằng ngày
Bất thiện pháp suy giảm ngay
Thiện pháp tăng trưởng, điều này lành thay !
Loại xả đây phải nên thân cận’.
Có Xả vẫn câu hữu với tầm
Trường Bộ - (T. 2) Kinh 21 : ĐẾ THÍCH SỞ VẤN * MLH – 392
Câu hữu với tứ âm thầm
Hoặc không câu hữu với tầm, tứ đâu.
Loại xả nào vốn không câu hữu
Với tầm, tứ – thù thắng hơn nhiều.
Này Thiên Chúa ! Đó là điều
Ta đã tuyên bố Xả đều có hai
Loại tránh ngay, loại nên thân cận.
Này Đế Thích ! Chắc chắn điều này :
Tỷ Kheo phải chứng đạt ngay
Cần phải thành tựu đường này vẻ vang
Mới thích hợp, hoàn toàn hướng dẫn
Các vọng tưởng hý luận diệt trừ ”.
Nghe trả lời của Đạo Sư
Thiên Chúa Đế Thích thấy thư thái lòng
Rất sung sướng hiểu thông, tín thọ
Vào lời dạy sáng tỏ thẳng ngay :
– “ Như vậy là phải, bạch Ngài !
Thế Tôn giải thích đủ đầy, chánh chơn
Khiến nghi ngờ của con diệt tắt
Mọi do dự, thắc mắc không còn.
4. Nhưng xin hỏi tiếp Thế Tôn
Tỷ Kheo trong Chúng tâm hồn thanh cao
Phải thành tựu thế nào ưu việt ?
Phải thành tựu chi tiết ra sao
Biệt giải thoát luật nghi này ? ”.
– “ Thiên Chúa ! Ta nói việc đây như vầy :
+ Thân hành vốn có hai loại thấy
Loại thân cận, loại phải tránh xa.
+ Khẩu hành hai loại kể ra :
Trường Bộ - (T. 2) Kinh 21 : ĐẾ THÍCH SỞ VẤN * MLH – 393
Một loại thân cận, hai là tránh xa.
+ Và Tầm Cầu có qua hai loại
Một thân cận, một loại tránh xa.
– Này Thiên Chúa ! Tại sao Ta
Tuyên bố như vậy, đâu là nhân duyên ?
* Thân hành nào ta liền hiểu tận :
‘Một khi tôi thân cận thân hành
Bất thiện pháp tăng trưởng dần
Thiện pháp suy giảm – phải cần tránh xa’.
Thân hành nào mà ta hiểu tận :
‘Khi thân cận, thiện pháp tăng dần
Bất thiện pháp suy giảm dần
Cần nên thân cận với thân hành này’.
Này Thiên Chúa ! Như vầy tuyên bố
Do nhân duyên đã có như vầy.
* Tiếp đến, Khẩu hành có hai
Một loại thân cận, loại rày tránh xa.
Khẩu hành nào mà ta hiểu tận :
‘Một khi tôi thân cận khẩu hành
Bất thiện pháp tăng trưởng dần
Thiện pháp suy giảm – phải cần tránh xa’.
Khẩu hành nào mà ta hiểu tận :
‘Khi thân cận, thiện pháp tăng dần
Bất thiện pháp suy giảm dần
Cần nên thân cận khẩu hành này đây’.
Này Thiên Chúa ! Như vầy tuyên bố
Do nhân duyên đã có như vầy.
* Thứ ba, Tâm Cầu có hai
Một loại thân cận, loại rày tránh xa.
Tâm cầu nào mà ta hiểu tận :
Trường Bộ - (T. 2) Kinh 21 : ĐẾ THÍCH SỞ VẤN * MLH – 394
‘Một khi tôi thân cận tâm cầu
Bất thiện pháp tăng trưởng cao
Thiện pháp suy giảm – phải mau tránh liền’.
Tâm cầu nào căn nguyên hiểu tận :
‘Khi thân cận, thiện pháp tăng cao
Bất thiện pháp suy giảm mau
Cần nên thân cận tâm cầu này đây’.
Này Thiên Chúa ! Như vầy tuyên bố
Do nhân duyên đã có như vầy.
Tỷ Kheo phải đạt tức thì
Đạt biệt giải thoát luật nghi như vầy ”.
Nghe Thế Tôn điều này giảng giải
Vị Thiên Chúa thư thái vô vàn
Hoan hỷ tín thọ lời vàng
Nói rằng :“ Bạch Phật ! Minh quang hiển bày
Những lời dạy đủ đầy, sâu sắc
Đã diệt tận thắc mắc của con
Nghi ngờ, do dự tiêu tan
Nay con xin được hỏi sang vấn đề :
5. Bạch Thế Tôn ! Nói về điểm khác
Vị Tỷ Kheo phải đạt thế nào
Hộ trì các căn ra sao
Để được thành tựu nhằm vào điều trên ? ”.
– “ Này Thiên Chúa ! Hãy nên nhận biết :
Sắc do mắt phân biệt, có hai.
Tiếng phân biệt được do tai
Do mũi phân biệt hương này hương kia
Vị do lưỡi chẻ chia phân biệt
Xúc do thân phân biệt có nên
Pháp do Ý phân biệt lên
Trường Bộ - (T. 2) Kinh 21 : ĐẾ THÍCH SỞ VẤN * MLH – 395
Sáu căn & trần ấy vốn liền có hai :
Một loại đây ta nên thân cận
Một loại nên cẩn thận tránh xa ”.
– “ Bạch đấng Thế Tôn Phật Đà !
Ngài vừa tóm tắt giảng qua căn & trần
Nhưng đến đây tự thân con hiểu
Nghĩa vi diệu một cách rộng sâu :
Loại Sắc, mắt phân biệt đầu
Khi con thân cận thì mau thấy rằng
Bất thiện pháp vẫn hằng tăng trưởng
Thiện pháp có hiện tượng giảm suy
Loại sắc ấy tránh tức thì.
Trái lại, thân cận với vì sắc đây
Thì thiện pháp thấy ngay tăng trưởng
Bất thiện pháp, hiện tượng giảm ngay
Loại sắc mắt phân biệt này
Phải nên thân cận loại đây thường thường.
Cũng vậy, Pháp, Thinh, Hương, Vị, Xúc
Đều hai loại, liên tục kể ra
Hoặc thân cận, hoặc tránh xa
Khi nào thân cận nó, mà hiểu ra
Bất thiện pháp dần dà tăng trưởng
Thiện pháp có hiện tượng giảm ngay,
Thinh, hương, vị, xúc, pháp này
Do tai, mũi, lưỡi, thân hay ý phần
Phân biệt do các căn như thế
Cần tránh xa, không thể tiếp gần.
Còn khi thân cận các trần
Mà bất thiện pháp nhiều phần giảm suy
Còn thiện pháp tức thì tăng tấn
Trường Bộ - (T. 2) Kinh 21 : ĐẾ THÍCH SỞ VẤN * MLH – 396
Nên thân cận các loại trần này.
Con đã hiểu rõ điều đây
Nghi ngờ, do dự diệt ngay không còn.
6. Bạch Thế Tôn ! Nay con nhân dịp
Xin hỏi tiếp là các Sa-môn
Hay tất cả Bà-la-môn
Đều đồng tư tưởng hay đồng cầu mong ?
Đồng giới hạnh và đồng chí hướng ? ”.
– “ Này Thiên Chúa ! Tư tưởng bất đồng
Mong cầu, gìới hạnh không đồng
Kể cả chí hướng chẳng hòng giống nhau ! ”.
– “ Bạch Thế Tôn ! Vì sao lại khác ?
Bà-la-môn và các Sa-môn
Tư tưởng, giới hạnh không đồng
Mong cầu, chí hướng cũng không một chiều ? ”
– “ Này Thiên Chúa ! Vì nhiều loại Giới
Sai biệt nhau, dẫn tới điều chi ?
Các loại hữu tình tức thì
Thiên chấp một loại giới, vì ý riêng.
Họ kiên trì chấp liền định kiến :
‘Đây vĩnh viễn sự thật, không sai.
Loại giới khác của những ai
Đều là lầm lạc, toàn loài si mê !’.
Do vậy, về Sa-môn, Phạm-chí (1)
Tất cả không cùng chí, cùng lòng
Không đồng tư tưởng, cầu mong
Không đồng chí hướng, Giới thường khác xa
Cũng không qua thuận đồng cứu cánh
Không đồng một phạm hạnh, bình an
Trường Bộ - (T. 2) Kinh 21 : ĐẾ THÍCH SỞ VẤN * MLH – 397
Không đồng mục đích minh quang
Chỉ vì thiên chấp trái ngang hữu tình ”.
– “ Bạch Thế Tôn ! Bình sinh con nghĩ
Các Sa-môn, các vị Bàn-môn (1)
Tại sao không thể thuận đồng
Cứu cánh, phạm hạnh cũng không có cùng ?
Không có chung bình an, mục đích ? ”.
– “ Này Thiên Chúa ! Toàn bích đáng tôn
Là Sa-môn, Bà-la-môn
Khi đã giải thoát không còn ái tham
Những vị ấy không làm sai khác
Thì mới đạt cứu cánh thuận đồng
Đồng một phạm hạnh vô song
Cùng một mục đích, cõi lòng bình an.
Còn những vị hoàn toàn chưa đạt
Sự giải thoát, tham ái, vô minh
Thì những vị ấy tự mình
Không thể đồng thuận, đồng tình với ai ”.
Nghe Như Lai trả lời câu hỏi
Giải thích kỹ cốt lỏi điều đây
Đế Thích sung sướng tỏ bày
Hoan hỷ tín thọ lời này, vội thưa :
– “ Bạch Thế Tôn ! Ngài vừa giảng giải
Thật minh bạch, phải trái rõ ràng
Nghi ngờ con được tiêu tan
Không còn do dự, lời vàng tin vâng ”.
7. Sau khi đã tự thân tín thọ
Lời Thế Tôn sáng tỏ vấn đề
_______________________________
(1) : Bàn-Môn hay Phạm-Chí tức là Bà-La-Môn .
Trường Bộ - (T. 2) Kinh 21 : ĐẾ THÍCH SỞ VẤN * MLH – 398
Vị Thiên Chúa lại hỏi về
Một nghi vấn khác mọi bề chưa thông :
– “ Bạch Thế Tôn ! Chỉ vì tham ái
Dẫn con người mãi mãi tử sanh
Nó là bệnh tật chẳng lành
Nó là mụt nhọt đã thành trầm kha
Tham ái là mũi tên trong ngực
Khiến người ta đau nhức triền miên
Dẫn dắt chúng sinh đọa triền
Tái sinh cao thấp tùy duyên nghiệp mình.
Đức Thế Tôn anh minh siêu việt
Đã giải thích, phân biệt suốt thông,
Trong khi Sa-môn, Bàn-môn
Các vị không phải là môn-đồ Ngài
Không thể đáp thẳng ngay câu hỏi
Lại hỏi ngược về mọi điều mà
Chính họ cũng chưa biết qua
Trong khi Ngài đã giải ra rõ ràng
Những nghi vấn con hằng thắc mắc
Như nhổ phắt ra được bây giờ
Mũi tên do dự, nghi ngờ
Khiến con sáng suốt , mê mờ tiêu tan ”.
– “ Này Thiên Chúa ! Hoàn toàn cởi mở
Ngươi có nhớ câu hỏi đặt ra
Cho các vị đó những là …
Và các Phạm-chí hay là Sa-môn
Đã trả lời hay còn ngang trái
Nếu không gì trở ngại cho ngươi
Xin hãy nói lại những lời ”.
– “ Bạch đấng Thầy cả Trời Người ! Không sao !
Trường Bộ - (T. 2) Kinh 21 : ĐẾ THÍCH SỞ VẤN * MLH – 399
Ngài là bậc thanh cao oai đức
Con thành thực kể lại đuôi đầu :
Con nhớ trước đây không lâu
Vì nghĩ những vị rừng sâu tu trì
Các Sa-môn, các vì Phạm-chí
Sẽ trả lời những ý hoài nghi.
Con đến rừng ấy một kỳ
Đặt những câu hỏi như khi hỏi Ngài,
Các vị này đã không đáp trả
Lại hỏi ngược : “ Tôn giả tên gì ? ”.
Con trả lời lại tức thì :
“ Ta là Sắc-Ká, trị vì Thiên cung
Là Thiên Chúa, vua chung Đao Lợi ”.
Các vị ấy hỏi tới câu này :
“ Do việc gì ngài đến đây ? ”.
Con liền nhân đó giảng ngay Pháp mầu
Chánh pháp nào con từng nghe được
Đã học hỏi và được hiểu thông.
Chỉ có từng ấy, nghe xong
Các vị hoan hỷ và đồng tán dương :
“ Nay Sắc-Ká Thiên Vương được thấy,
Được trả lời như vậy, quý thay !
Chúng tôi xin đảnh lễ ngài
Mong làm đệ tử của ngài từ nay ”.
Bạch Thế Tôn ! Điều này quá tệ
Vì đáng lẽ đệ tử là con,
Nhưng họ trí mỏng, tài mòn
Nên họ quy ngưỡng, tôn con làm thầy.
Nhưng hiện nay con là đệ tử
Của Thế Tôn Điều Ngự nghiêm oai
Trường Bộ - (T. 2) Kinh 21 : ĐẾ THÍCH SỞ VẤN * MLH – 400
Đã chứng Dự-lưu, Thất Lai
Không rơi đọa xứ, mai ngày Vô Sanh ”.
– “ Này Thiên Chúa ! Chân thành cho biết
Phải trước kia ngươi thiệt bất an
Không được thoải mái hoàn toàn
Không được hỷ lạc như đang có này ? ”.
– “ Bạch Thế Tôn ! Trước đây con thấy
Không bao giờ thoải mái, lạc an ”.
– “ Này Thiên Chúa cõi Thiên đàng !
Tại sao ngươi biết rõ ràng trước đây
Không an lạc, không rày thoải mái ? ”.
– “ Bạch Thế Tôn ! Nhớ lại thuở xưa
Một trận chiến thật chẳng vừa
Do A-Su-Rá không chừa tánh sân
Kéo quân đánh Thiên thần Đao Lợi
Bại trận bởi uy lực Chư Thiên
Dù A-Tu-La vẫn liên miên
Tấn công Thiên giới, nhưng chuyên thua hoài.
Sau thắng trận, con ngồi suy nghĩ :
“ Nay cam lộ không chỉ cõi Thiên
Mà con còn được nếm liền
Đối phương cam lộ trận tiền trải qua.
Nhưng mà A-Tu-La cam lộ
Do gậy trượng khủng bố, kiếm đao
Những sự ly dục thanh cao, an lành.
Không đem đến tịnh thanh đáng quý
Đến thắng trí, giác ngộ, Niết bàn.
Nhưng nghe Chánh Pháp lời vàng
Trường Bộ - (T. 2) Kinh 21 : ĐẾ THÍCH SỞ VẤN * MLH – 401
Không do gậy trượng hay bằng kiếm đao
Sẽ đưa vào yểm ly, ly dục
Sự tịch diệt, nhiếp phục, tịnh an
Thắng trí, giác ngộ, Niết bàn
Thoải mái, hỷ lạc hoàn toàn khởi sinh ”.
8. – “ Này Thiên Chúa ! Tự mình cảm thọ
Sự thoải mái và có lạc an
Ngươi thấy lợi ích rõ ràng
Hay là ngươi thấy cảm quan thế nào ? ”.
– “ Bạch Thế Tôn ! Khi vào cảm thọ
Sự thoải mái và có lạc an
Con cảm thấy rất rõ ràng
Có Sáu lợi ích hoàn toàn đến ngay :
“ Nay con đứng tại nơi này
Với thân Thiên Chủ đủ đầy phước danh
Con thấy sẽ được tái sanh
Bạch Ngài ! Con biết đành rành điều đây ”.
Bạch Thế Tôn ! Rõ bày lợi ích
Điều thứ nhất thỏa thích, lạc an
Mà con cảm thấy rõ ràng
Khi con cảm thọ lạc an, hài lòng.
“ Sau khi đã mệnh tận xong
Bỏ thân Thiên giới trong vòng phi nhân
Không hề mê muội, phân vân
Tái sinh, con chọn nhập thần vào thai ”.
Đó là điều thứ hai lợi ích
Khi cảm thọ thỏa thích, lạc an.
“ Câu hỏi được đáp rõ ràng
Trường Bộ - (T. 2) Kinh 21 : ĐẾ THÍCH SỞ VẤN * MLH – 402
Hoan hỷ Chánh giáo được mang trình bày
Con sống với Chánh trí này
Giác tỉnh, chánh niệm, thấy ngay chánh tà ”.
Đó là điều thứ ba lợi ích
Khi cảm thọ thỏa thích, lạc an.
“ Sống với Chánh trí nghiêm trang
Bồ đề quả đạt, minh quang đủ đầy
Một vị Chánh Đẳng Giác này
Không còn sinh lại, đời đây cuối cùng ”.
Điều thứ tư vô cùng lợi ích
Khi cảm thọ thỏa thích, lạc an.
“ Từ thân con người thanh nhàn
Đến khi mệnh tận, sinh sang tức thời
Thành chư Thiên ở cõi trời
Thiên giới vô thượng tuyệt vời cao thâm ”.
Đó là điều thứ năm lợi ích
Khi cảm thọ thỏa thích, lạc an.
“ Thù thắng hơn Thiên các hàng
A-Ká-Nít-Thá (1) vinh quang tên này
Sống đời cuối cùng ở đây
Là nơi an trú thanh trai như vầy ”.
Điều thứ sáu đủ đầy lợi ích
Khi cảm thọ thỏa thích, lạc an.
Bạch Ngài ! Con thấy rõ ràng
Sáu sự lợi ích hoàn toàn như trên
Khi cảm thọ lạc yên, thoải mái
Đó những điều cảm thấy của con ”.
_______________________________
(1) : Akanittha ; danh xưng của vị Đế Thích .
Trường Bộ - (T. 2) Kinh 21 : ĐẾ THÍCH SỞ VẤN * MLH – 403
9. “ Tâm không thỏa mãn, vẫn còn
Nghi ngờ, do dự làm mòn đức tin
Mong cầu Như Lai giúp mình
Thời gian như vậy thực tình quá lâu.
Con đã suy nghĩ thoáng mau :
“ Hoặc vị Phạm-chí hay dầu Sa-môn
Một mình họ sống cô đơn
Chắc đã chứng đắc chánh chơn Phật Đà
Bậc Chánh Đẳng Giác từ hòa ”.
Nghĩ vậy, con đến tìm qua các vì
Nêu lên câu hỏi tức thì :
“ Thế nào thất bại ? Cái gì thành công ? ”.
Các vị này nghe hỏi xong
Ngẩn ngơ, không biết phải không là gì
Không thể chỉ ra hướng đi ,
Họ liền hỏi lại : “ Ngài thì là ai ? ”.
Biết con thường trú vân đài
Sắc-Ká Thiên Chúa nghiêm oai cõi trời
Họ liền hỏi con một hơi :
“ Ngài do duyên sự nào thời đến đây ? ”.
Con đem Chánh Pháp giảng bày
Những điều con được nghe, hay hiểu tường.
Nghe xong, hoan hỷ vô lường
( Họ bèn quy ngưỡng Thiên đường Sắc-Ka )
Nói rằng : “ Đức Va-Sa-Va
Làm cho ta thấy đâu là thiệt hơn
Thiên Chúa sáng suốt đại ơn
Đã giải nghi vấn, chánh chơn trả lời ”.
( Thật là một chuyện ngược đời
Muốn làm đệ tử Vua Trời là con
Trường Bộ - (T. 2) Kinh 21 : ĐẾ THÍCH SỞ VẤN * MLH – 404
Lẽ ra diễn tiến đúng hơn
Nếu họ cao thượng, chính con nương về )
Bạch Ngài ! Hướng đến lìa mê
Con được thấy Phật, mọi bề trang nghiêm
Giảng rõ điều con muốn tìm
Nghi ngờ, thắc mắc đều chìm, tiêu tan.
Con nay vô úy, vững vàng
Được hầu hạ đấng Phật Toàn Giác đây.
Mũi tên độc tham ái này
Được đấng Chánh Giác nhổ ngay lên rồi.
Đảnh lễ Đại Hùng sáng ngời
Bậc thân tộc của mặt trời vô biên
Vị Tôn giả như Phạm Thiên
Được sự đảnh lễ chư Thiên vân đài
Nay con xin đảnh lễ Ngài
Là bậc Đại Giác, muôn loài kính chung
Đạo Sư cao thượng vô cùng
Kể cả Thiên chúng Phạm cung khó bì ”.
10. Rồi Thiên Chúa tức thì nói với
Chàng trẻ tuổi Banh-Chá-Si-Kha
Con của vị Càn-Thát-Bà :
– “ Này khanh ! Khanh đã giúp ta rất nhiều
Trước là điều nhờ khanh đàn hát
Làm Thế Tôn Đại Giác khen tài
Nhờ đó ta được gặp Ngài
Bậc Chánh Đẳng Giác, Như Lai trọn lành.
Với công cán của khanh, ân tứ
Ta nhận khanh dưỡng tử của ta
Phong khanh : Vua Càn-Thát-Bà.
Trường Bộ - (T. 2) Kinh 21 : ĐẾ THÍCH SỞ VẤN * MLH – 405
Su-Ri-Dá Vách-Cha-Sa (1) hiền lành
Tức Phách-Đa (1) mà khanh mong ước
Ta tác hợp để được sánh đôi ”.
Thiên Chúa Đế Thích nói rồi
Lấy tay sờ đất, bồi hồi ngâm lên
Bài kệ với nỗi niềm cảm hứng
Đọc ba lần cảm ứng tâm hồn :
“ Đảnh lễ đấng Chánh Giác Tôn
Đại A-La-Hán, Thế Tôn, Phật Đà.
Đảnh lễ đấng Chánh Giác Tôn
Đại A-La-Hán, Thế Tôn, Phật Đà.
Đảnh lễ đấng Chánh Giác Tôn
Đại A-La-Hán, Thế Tôn, Phật Đà ”.
Khi thốt ra những lời tuyên thuyết
Tâm Thiên Chúa đặc biệt khởi nhanh :
“ Phàm pháp gì đã tập sanh
Pháp ấy sẽ hoại diệt nhanh, rõ rành ”.
Là pháp nhãn tịnh thanh vô cấu
Vị Đế Thích an hảo chứng tri.
Tám vạn Chư Thiên cùng đi
Cũng chứng tương tợ những gì như trên.
Vì khởi lên từ duyên đối thoại
Đế Thích hỏi, đức Phật trả lời
Giải thích nghĩa lý tuyệt vời
“ Đế Thích Sở Vấn ” tức thời là tên ./-
_______________________________
(1) : Bhaddà Suriya Vaccasà .
( Chấm dứt Kinh ĐẾ THÍCH SỞ VẤN – Sakka Panha-sutta )