Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

13. Kinh TEVIJJA

17/05/202013:38(Xem: 2224)
13. Kinh TEVIJJA

TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO

TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRƯỜNG BỘ KINH
(Dìgha Nikàya)
Tập I
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli
Chuyển thể Thơ: Giới Lạc MAI LẠC HỒNG
NHÀ XUẤT BẢN PHƯƠNG ĐÔNG PL. 2555 - DL 2010


13. Kinh  TEVIJJA

(Tevijja-sutta – Kinh Tam Minh)

 

Như vậy, tôi nghe :

 

 1.       Một thời, đức Thế Tôn, Ứng Cúng  (1)

          Du hành cùng Đại Chúng tịnh, hòa  (2)      

              Khoảng năm trăm vị Tăng-Già

       Cùng đi đến Kiều-Tất-La (3) nước này

          Làng Bàn-môn (4) nơi đây mộc mạc

          Có vườn xoài rợp mát mọi thì

              Sông A-Chi-Ra-Va-Ti  (4)

       Ở sát bên cạnh phạm vi vườn xoài

          Thuộc phía bắc làng này êm ả

          Ma-Na-Sa-Ka-Tá (4) tên làng.

              Phật cùng Đại Chúng trú an

       Vườn xoài thanh tịnh, nghiêm trang sáu thời.

 

 2.       Lúc bấy giờ, gần nơi vườn ấy

          Nhiều Bàn-môn thông thái, trứ danh

              Nhiều đại phú hào khôn lanh

       Ở tại làng ấy, tiếng lành đồn xa :

          Ta-Rút-Kha (5), Chân-Ky (5) Phạm-chí

          Pốt-Kha-Ra-Sa-Tí (5) Bàn-môn

              Hay Tô-Đây-Gia (5) Bàn-môn

    ______________________________

 

   (1): Hai trong 10 danh hiệu của Phật : Araham (Ứng Cúng) và   

Bhagavà (Thế Tôn).(2):Bản thể Tăng Già là thanh tịnh và hòa hợp.     

(3): Vua Pasenadi ( Ba-Tư-Nặc ) trị vì nước Kosala (Kiều-Tất-La).

(4) : Làng Bà-la-môn Manasàkata , có sông Aciravati .

          *  Bàn-môn  hay  Phạm-chí  tức là Bà-la-môn .

(5): Các vị Bà-la-môn :Tàrukkha (Đa-lê-xa), Canki (Thương-già),

        Pokkharasàti (Phí-già-la-bà-la) , Todeyya (Đạo-đề-đa) .

Trường Bộ (Tập 1)  Kinh 13 :    TEVIJJA        *  MLH  –  464

 

       Cha-Nút-Sô-Ni (1) Bàn-môn… các nhà

          Cùng Phạm-chí (2), Phú gia nhiều nữa.

 

 3.      Lúc bấy giờ, trang lứa thanh niên

              Cùng nhau tản bộ hoa viên

       Vừa đi vừa nghĩ sự duyên đáng bàn

          Rồi hai chàng Bàn-môn (2)  anh tuấn

          Đã nghị luận chánh đạo hay tà

              Khởi lên giữa Va-Sết-Tha  (3)

       Cùng với Pha-Rát-Va-Cha (3) hùng hồn.

       

 4.      Va-Sết-Tha Bàn-môn thì bảo :

       “ Đây con đường trực đạo chấp trì

              Của Pốt-Kha-Rá-Sa-Ti  (4)

       Dẫn đến cộng trú với vì Phạm Thiên ”.

 

 5.       Nhưng thanh niên Bàn-môn ý khác

          Là Pha-Rát-Va-Chá  bảo rằng :

           “ Con đường trực đạo, chánh chân

       Dẫn đến cộng trú vĩnh hằng Phạm Thiên

          Ta-Rút-Khá (4) trí hiền Phạm-chí

          Đã giảng dạy, dẫn chỉ thực hành ”.

 

 6.           Với ý kiến của mỗi anh

       Không ai chấp nhận, chỉ dành ý riêng.

 

 7.       Sau, thanh niên tên Va-Sết-Thá

          Bảo Pha-Rát-Va-Chá  ý này :

            “ Này bạn, tôi nghe gần đây

       Sa-Môn Thích Tử đủ đầy tinh hoa

    _______________________________

  (1) : Bà-la-môn Jànussoni (Sanh Lậu).

  (2) :Bàn-Môn hay Phạm-Chí  tức là Bà-la-môn .

  (3) : Hai thanh niên Bà-la-môn : Vàsettha và Bharadvàja .

  (4) : Hai vị thầy Bà-la-môn : Pokkharasàti và Tarukkha . 

Trường Bộ (Tập 1)  Kinh 13 :    TEVIJJA        *  MLH  –  465

 

          Giòng Thích-Ca, xuất gia chứng ngộ

          Gô-Ta-Ma là họ của Ngài

              Hiện đang trú tại vườn xoài

       Thuộc về phía bắc làng này không xa

          Gần sông A-Chi-Ra-Va-Tí

          Cùng với năm trăm vị Tỷ Kheo

              Đệ tử ngưỡng mộ vâng theo

       Trí và Giới đức thảy đều nghiêm minh

          Mười tôn hiệu uy linh diệu ngữ :

          Thế Gian Giải, Điều Ngự Trượng Phu,

              Phật, Thế Tôn, Thiên Nhân Sư,

       Chánh Đẳng Chánh Giác đại từ uy linh

          Vô Thượng Sĩ hay Minh Hạnh Túc,

          Bậc Thiện Thệ, Ứng Cúng, Như Lai,       

              Do sự chứng ngộ tự Ngài

       Xứng đáng cho chúng ta đây thân hành 

          Đến yết kiến hỏi rành nghĩa lý

          Ngài trả lời, ta chỉ thọ trì ”.

 

 8.           Anh kia đồng ý tức thì     

       Hai Bàn-môn trẻ cùng đi đến vườn.

          Gặp Thế Tôn, thông thường chào hỏi

          Lời chúc tụng họ nói xã giao.

              Sau khi cả hai đã chào

       Đến chỗ ngồi xuống, hỏi vào sự duyên

          Va-Sết-Thá thanh niên bạch hỏi :

 

    – “ Thưa Tôn Giả ! Cơ hội khởi lên

              Một cuộc nghị luận dựa trên

       Chánh đạo, tà đạo hai bên chưa rồi

          Hai chúng tôi đều đưa ý kiến

          Lại khác nhau về chuyện nói trên

Trường Bộ (Tập 1)  Kinh 13 :    TEVIJJA        *  MLH  –  466

 

              Trong khi tản bộ hàn huyên

       Đồng thời trong ý cũng liền tư duy

          Tôi thì nói : ‘Đường đi ngay thẳng

          Dẫn sống chung với đấng Phạm Thiên

              Do Bà-la-môn trí hiền

       Vệ Đà ba tập tinh chuyên tụng trì     

          Pốt-Kha-Ra-Sa-Ti truyền giảng’.

 

          Nhưng anh bạn Pha-Rát-Va-Cha

              Lại bảo : ‘Con đường thẳng qua

       Phạm Thiên cộng trú chính là chủ trương

          Một học thuyết hiện đương truyền bá

          Ta-Rút-Khá  Phạm-chí giảng ra’.

 

              Tôi và Pha-Rát-Va-Cha

       Đều cho ý kiến mình là đúng thôi

          Thưa Tôn Giả ! Thế rồi tranh biện

          Sự bất đồng ý kiến xảy ra ”.

 

 9.       – “ Va-Sết-Thá ! Nếu như là

       Điều ngươi vừa kể, trải qua bất đồng

          Sự tranh biện chưa xong luận chấp

          Nhưng luận chấp về vấn đề gì ?

              Bất đồng ý kiến điều chi ?

       Hãy nói cho rõ sở tri các người ! ”.   

10. –“ Thưa Tôn Giả ! Trên đời nhiều ý

          Chánh – tà đạo, nhiều vị Bàn-môn

              Thuyết dạy khác nhau, tuyên ngôn

       Nhiều đường sai khác, Bàn-môn các nhà

          Như Át-Tha-Ri-Da (1) Phạm-chí

          Bà-la-môn Tít-Tí-Ri-Da  (2)    

    _______________________________

* Các vị Bà-la-môn danh tiếng :(1) : Addhàriyà . (2) : Tittiriyà .

Trường Bộ (Tập 1)  Kinh 13 :    TEVIJJA        *  MLH  –  467

 

              Bà-la-môn Chanh-Đô-Ka  (1)

       Bà-la-môn Chan-Đa-Va (2), cùng là

          Bram-Má-Cha-Ri-Da (3) Phạm-chí…

          Các vị này đều chỉ con đường

              Dẫn đến Đại Phạm Thiên Vương

       Để được cộng trú, ai đương thực hành.

 

          Thưa Tôn Giả ! Như gần làng nọ 

          Hay thị trấn, đã có nhiều đường

              Khác nhau do từ nhiều phương

       Nhưng các đường đó đều vươn vào làng.

          Cũng như thế, các hàng Phạm-chí

          Đã kể trên, đều chỉ nhiều đường

              Nhưng tất cả các con đường

       Chúng đều dẫn đến sống cùng Phạm Thiên ”.

 

11. –“ Va-Sết-Thá !  Ngươi liền vừa nói 

         ‘Chúng dẫn đến’, Ta hỏi phải không ? ”

 

           – “ Thưa Tôn Giả ! Tôi thật lòng

       Nói ‘chúng dẫn đến’, chính trong ý phần ”.

 

          Đức Thế Tôn ba lần hỏi tận

          Va-Sết-Thá xác nhận cả ba.

 

12.           Ngài hỏi lại Va-Sết-Tha :

 – “ Có vị nào đó trong Bà-la-môn 

          Ba Vệ Đà tinh thông, quán triệt

          Sự hiểu biết họ rất tinh chuyên

              Các Bàn-môn này hiện tiền

       Có ai đã thấy Phạm Thiên rõ ràng ? ”.

 

    –“ Thưa Tôn Giả ! Các hàng Phạm-chí

     _______________________________

   (1) : Chandokà .  (2) : Chandavà . (3) : Brahmacariyà .

Trường Bộ (Tập 1)  Kinh 13 :    TEVIJJA        *  MLH  –  468

 

           Chưa một ai thấy vị Phạm Thiên ”.

.  

           – “ Va-Sết-Thá ! Vậy truy nguyên

      Tôn Sư đời trước, hiện tiền Bàn-môn

          Vốn tinh thông Vệ Đà ba tập

          Có tận mắt thấy được Phạm Thiên ? ”.

 

          – “ Thưa Tôn Giả ! Nếu truy nguyên

       Cũng chưa ai thấy Phạm Thiên bao giờ ! ”.

      

    – “ Vậy bảy đời Tôn Sư thuở trước

          Của Bàn-môn thấy được hay không ?

              Dù cho các vị thảy đồng

       Vệ Đà ba tập thuộc lòng, tinh thông ? ”. 

 

    – “ Thưa Tôn Giả ! Thật không ai thấy ”.

.      

13. – “ Va-Sết-Thá ! Như vậy từ nơi

              Những vị Tu Sĩ cổ thời

       Thuộc Bàn-môn hệ nhiều đời đã qua

          Ba Vệ Đà tinh thông mọi thứ

          Hoặc sáng tác thần chú bí truyền

              Trì tụng, ngâm vịnh, hát lên

       Ngày nay Phạm-chí vẫn bền lòng tin

          Vẫn trì tụng, giảng bình, ngâm vịnh

          Như danh tiếng của chính các vì

              Bà-la-môn hệ danh tri

       Sưu tầm thánh cú, chú trì tụng qua :

          Át-Tha-Ka, Va-Ma-Đê-Vá,   

          Va-Ma-Ká, Vết-Sa-Mít-Ta, 

              Da-Ma-Tắc-Ghi, Pha-Gu,  

       Âng-Ghi-Ra-Sá, Pha-Rà-Va-Cha, 

          Va-Sết-Tha và Káp-Sa-Pá,  

          Những vị này đều đã nói lên :

Trường Bộ (Tập 1)  Kinh 13 :    TEVIJJA        *  MLH  –  469

 

             ‘Chúng tôi biết, đã có duyên

       Thấy được chỗ ở Phạm Thiên chính ngài

          Và đã thấy chỗ ngài đi, đến’.

          Sụ việc ấy xảy đến hay không ? ”.

 

         – “ Thưa Tôn Giả ! Quả tình ‘không’ ! ”

 

14. –“ Này Va-Sết-Thá ! Vậy trong lời mình 

          Chính ngươi đã xác minh sáng tỏ

          Là không có Phạm-chí Tôn Sư

              Hoặc là các Đại Tôn Sư

       Cho đến Tu Sĩ cổ từ căn nguyên

          Các thần chú bí truyền sáng tác

          Được tụng tán, ngâm vịnh, hát lên

              Vẫn được truyền lại vững bền

       Tuy nhiên tất cả vị trên chưa từng

          Đến tận nơi Phạm Cung chiêm bái

          Tận mắt thấy vị Đại Phạm Thiên.

       

              Các Bà-la-môn thường chuyên

       Vệ Đà ba tập mối giềng tinh thông

          Đã nói : ‘Chúng tôi không biết rõ

          Không thấy được sáng tỏ con đường

              Cộng trú Phạm Thiên hằng thường’,

 

       Nhưng lại thuyết dạy về đường ấy ra :

         ‘Đây đường thẳng, đây là đường chánh,

          Dẫn sống chung với đấng Phạm Thiên

              Cho ai thực hành cần chuyên’.

 

      Này Va-Sết-Thá ! Sự duyên vậy thời  

          Có phải lời Bàn-môn các vị

          Không chính xác, vô lý hay không ? ”.        .

 

          – “ Thưa Tôn Giả ! Quả tình ‘không’ ! ”.     

Trường Bộ (Tập 1)  Kinh 13 :    TEVIJJA        *  MLH  –  470

 

15. –“ Này Va-Sết-Thá ! Bàn-môn các nhà

          Dù tinh thông Vệ Đà, quán triệt

          Nhưng không thấy, không biết con đường

              Cộng trú Phạm Thiên hằng thường

       Mà lại thuyết dạy con đường ấy ra

          Thì không thể có qua sự kiện

          Cũng giống chuyện ví dụ như sau :

              Chuỗi người mù ôm lưng nhau

       Người trước không thấy, người sau chẳng tường

          Cả đoàn người không phương hướng tới

          Cứ lẩn quẩn, chới với xoay tròn.

 

              Giống như vậy, Bà-la-môn

       Trì tụng chú thuật, tinh thông Vệ Đà

          Nhưng trải qua, người đầu không thấy

          Cũng không thấy đến kẻ cuối cùng

              Vậy những người ấy, nói chung

       Lời nói mù quáng, mông lung sai lầm.

          Lời những người uyên thâm Phạm-chí

          Lại đáng bị chỉ trích, chê cười

              Vì họ chỉ có những lời

     Nói suông, không tưởng ; những lời rỗng  không !

 

16.      Va-Sết-Thá !  Tinh thông ba tập

          Kinh Vệ Đà như khắp Bàn-môn

              Những vị này số rất đông

       Vừa đi quanh tụng với lòng lành ngay

          Vừa cầu khẩn, chắp tay tán thán

          Rồi đảnh lễ về mạn đông, tây

              Nơi mọc và lặn hằng ngày

       Mặt trăng buổi tối, ban mai mặt trời.

Trường Bộ (Tập 1)  Kinh 13 :    TEVIJJA        *  MLH  –  471

 

          Họ có thấy mặt trời phía trước

          Hay mặt trăng thấy được hay không ? ”.

 

          – “ Thưa Tôn Gỉả ! Các Bàn-môn

       Vệ Đà ba tập tinh thông trên đời

          Cũng giống như mọi người đây đó

          Cũng thấy rõ trăng lẫn mặt trời ”.

.

17.      – “ Va-Sết-Thá ! Vậy theo ngươi

       Những Bàn-môn nọ trên đời tinh anh

          Đã thấy rành mặt trời, trăng tỏ

          Vị này có thuyết giảng con đường

              Đi đến nguyệt điện, thái dương

       Hay là chỉ dạy : ‘Con đường thẳng đây

          Là đường chánh hướng ngay cộng trú

          Với mặt trời, tinh tú, mặt trăng,

              Họ có thể chỉ được chăng ? ”.

 

 – “ Kính thưa Tôn Giả ! Không hằng được đâu ”.

 

18. –“ Va-Sết-Thá ! Với câu nói ấy

          Ngươi xác nhận không thấy vị nào

              Trong số Bàn-môn tối cao

       Vệ Đà thông hiểu biết bao tột vời

          Dầu đã thấy mặt trời, trăng đó

          Nhưng không thể chỉ rõ con đường

              Cộng trú nguyệt điện, thái dương.

 

       Và như ngươi nói câu thường vô tư

          Rằng các Đại Tôn Sư Phạm-chí

          Không tận mắt thấy vị Phạm Thiên

              Bảy đời Phạm-chí tiền hiền

       Tu Sĩ thời cổ lưu truyền thánh gia :

 

          Át-Tha-Ká (1), Va-Ma-Đê-Vá  (2)

Trường Bộ (Tập 1)  Kinh 13 :    TEVIJJA        *  MLH  –  472

 

          Va-Ma-Ká (3), Vết-Sa-Mít-Ta  (4)

              Da-Ma-Tắc-Ghi (5), Pha-Gu  (6)

       Âng-Ghi-Ra-Sá (7), Pha-Rà-Va-Cha  (8)

          Va-Sết-Tha (9) và Káp-Sa-Pá  (10)

          Thì tất cả những vị nói trên

               Không ai nói : Thấy Phạm Thiên

       Hoặc : ‘Chúng tôi biết’ Phạm Thiên cơ mầu

          Từ đâu đến, đi đâu, nơi ở

          Các vị ấy không rõ con đường

              Cộng trú Phạm Thiên hằng thường.

  

       Như vậy Phạm-chí các phường tinh thông

          Kinh Vệ Đà suốt trong ba tập

          Nói không thấy, không gặp con đường

              Dẫn đến cộng trú vĩnh trường

       Với Phạm Thiên đó, nhưng thường thuyết ra

         ‘Đây đường thẳng, đây là đường chánh

          Dẫn sống chung với đấng Phạm Thiên

              Cho ai thực hành cần chuyên’.

      Này Va-Sết-Thá ! Sự duyên vậy thời

          Có phải lời Bàn-môn các vị

          Không chính xác, vô lý hay không ? ”.

 

          – “ Thưa Tôn Giả ! Quả tình ‘không’ ! ”

 

 – “ Này Va-Sết-Thá ! Thuận đồng, lành thay !

          Những Bàn-môn giỏi hay, quán triệt

          Nhưng không thấy, không biết con đường

   _______________________________

*  Các vị Tu Sĩ  thời cổ của Bà-la-môn : (1) :Atthaka (A-sá-ca) ,

   (2) : Vamadeva  (Bà-ma- đề-bà) . (3) : Vàmaka  (Bà-ma) .

   (4) : Vessàmitta . (5) : Yamataggì . (6) : Bhagu (Bà-Cửu) .              

  (7): Angirasa  (Ương-kỳ-la). (8) : Bhàradvàja (Bạt-la-đà-phan-

     xà) .  (9) : V àsettha  (Bà-tất-sá) . (10) : Kassapa  (Ca-Diếp) . 

Trường Bộ (Tập 1)  Kinh 13 :    TEVIJJA        *  MLH  –  473

 

              Sống chung Phạm Thiên hằng thường

       Mà lại thuyết dạy: ‘Đây đường chánh chuyên

          Cộng trú với Phạm Thiên miên viễn

          Cho những ai thực hiện chẳng trừ’.

              Đây là sự kiện huyễn hư

       Không bao giờ có, suốt từ khứ lai.

19.      Va-Sết-Thá ! Như Lai ví dụ       

          Có một người thường cứ nói là :

             ‘Tôi yêu, ái luyến thiết tha

       Một cô gái đẹp, nết na vùng này’.

 

          Có người hỏi : ‘Hỡi này ông bạn !

          Ông có biết tường tận người yêu ?

              Thuộc giai cấp nào ?  giàu nghèo ?

       Quê quán, tên tuổi, mỹ miều ra sao ?

          Người bậc trung hay cao hoặc thấp ?

          Thân ốm mập, da dẻ thế nào ?

              Đen sẫm hay là hồng hào ?

       Ở thành hay ở làng nào, gần xa ?’.

 

          Nghe hỏi vậy, anh ta ngơ ngẩn

          Trả lời rằng : ‘Tôi chẳng biết chi !’

              Có người hỏi lại tức thì :

      ‘Có phải anh đã yêu vì thiết tha

          Thật ái luyến người mà chưa biết

          Chưa từng gặp, cũng tuyệt thấy đâu ?’

              Nghe hỏi, anh ta gật đầu.

 

   –  Này Va-Sết-Thá ! Nghĩ sao việc này ?

           Sự kiện đây, phải chăng người ấy

          Nói vô lý, trật bậy phải không ? ”.

       

          –  “ Vâng phải, bạch đức Thế Tôn !

Trường Bộ (Tập 1)  Kinh 13 :    TEVIJJA        *  MLH  –  474

 

       Sự kiện như vậy thật không đúng rồi !

          Không chính xác, đồng thời vô lý ”.

       

20. – “ Cũng như vậy, các vị Bàn-môn

              Ba tập Vệ Đà tinh thông

       Không thể tận mắt thấy trông tận tường

          Vị Phạm Thiên vĩnh trường, phúc lạc.

          Đại Tôn Sư của các vị này

              Bảy đời Tôn Sư bậc thầy

       Tu Sĩ thời cổ đến nay lưu truyền

          Các thần chú luyện chuyên, sáng tác

          Mãi bây giờ vẫn hát, tụng, ngâm

              Nhưng khắp các vị uyên thâm

       Không vị nào thấy một lần Phạm Thiên

          Không một ai nói liền : ‘Tôi biết,

          Chúng tôi thấy siêu việt Phạm Thiên

              Ngài từ đâu đến tùy duyên

       Và sẽ đi tới một miền vui an’.

 

          Va-Sết-Thá ! Khách quan ngươi nghĩ

          Lời của những Phạm-chí uyên thâm

              Trên đây đề cập trọng tâm

       Là không hợp lý, sai lầm phải không ? ”.

 

    – “ Thưa Tôn Giả ! Thật không chính xác

          Không hợp lý trong các việc này ! ”.

 

          – “ Này Va-Sết-Thá ! Lành thay !

       Những Bàn-môn nọ kỳ tài, tinh thông

          Ba Vệ Đà thuộc lòng, quán triệt

          Nhưng không thấy, không biết con đường

              Cộng trú Phạm Thiên hằng thường

       Mà lại thuyết dạy: ‘Đây đường chánh chuyên

Trường Bộ (Tập 1)  Kinh 13 :    TEVIJJA        *  MLH  –  475

 

          Cộng trú với Phạm Thiên miên viễn

          Cho những ai thực hiện chẳng trừ’

              Đây là sự kiện huyễn hư

       Không bao giờ có, suốt từ khứ lai.

 

21. –  Va-Sết-Thá !  Như Lai ví dụ :

          Một người chuyên hưởng thụ, lông bông

              Một hôm chợt nghĩ trong lòng

       Nẩy ra ý tưởng cuồng ngông, dự trù

          Sẽ xây tại ngã tư đường cả

          Một cái thang để gã lên lầu

              Có người hỏi gã : Lầu đâu ?

       Hướng Nam, hướng Bắc hay lầu hướng Tây

          Hay là lầu được xây phương khác

          Về hướng Đông cho hạp ý mình ?

              Lầu ấy cao, thấp, trung bình ?

       

       Ông ta nghe hỏi, thật tình bảo ‘không’ .

 

          Họ hỏi tiếp : ‘Vậy ông muốn dựng

          Một cầu thang đẹp vững lên lầu

              Cái lầu ông chẳng biết đâu

       Cũng chưa từng thấy cái lầu phải không ?’

 

          Nghe hỏi vậy, thì ông xác nhận

          Là không biết, không tận thấy lầu.

 

              Va-Sết-Thá ! Ngươi nghĩ sao ?

       Sự kiện như vậy phải đâu bình thường

          Lời người ấy không tường chính xác

          Không hợp lý, sai lạc phải không ? ”.

 

          – “ Vâng phải, bạch đức Thế Tôn !

       Sự kiện như vậy thật không đúng rồi !

          Không chính xác, đồng thời vô lý ”.

Trường Bộ (Tập 1)  Kinh 13 :    TEVIJJA        *  MLH  –  476

 

22. – “ Va-Sết-Thá ! Hãy nghĩ điều mà

              Bàn-môn tinh thông Vệ Đà

       Dẫu từ quá khứ suốt qua nhiều đời

          Đại Tôn Sư các thời Phạm-chí

          Cả thời cổ Tu Sĩ các vì

              Sáng tác thần chú tụng trì

       Tất cả vị ấy chẳng chi không tường.

          Nhưng không biết con đường ; không thấy

          Sự cộng trú với Đại Phạm Thiên

              Không dám nói mình có duyên

       Đã thấy, đã biết Phạm Thiên đủ điều

          Nhưng thuyết dạy : ‘Đây chiều đi thẳng

          Dẫn cộng trú với đấng Phạm Thiên’.

              Vậy khách quan với ý riêng

       Ngươi nghĩ sự kiện tương duyên thế nào ?

          Lời các vị biết bao mâu thuẩn

          Không hợp lý, không chuẩn phải không ? ”.       

 

          – “ Thưa Tôn Giả ! Chính là không

       Vô lý, dù họ tinh thông Vệ Đà ”.

 

23. –“ Va-Sết-Tha ! Lành thay  ý tưởng  

          Lời của ngươi đúng hướng, vô tư

              Đây là sự kiện huyễn hư

       Không bao giờ có, suốt từ khứ lai.

 

24.      Va-Sết-Thá ! Như vầy được ví

          A-Chi-Ra-Va-Tí sông đầy

              Con quạ đứng trên bờ này

       Có thể uống nước được ngay dễ dàng.

          Có một người muốn sang phía trước

          Bờ bên kia cho được gấp liền

              Nhưng sông lại chẳng có thuyền

Trường Bộ (Tập 1)  Kinh 13 :    TEVIJJA        *  MLH  –  477

 

       Anh ta bèn gọi : ‘Cảm phiền bờ kia !

          Hãy qua đây, hãy lìa bên ấy

          Giúp cho ta qua đấy đi nào ! ’.

 

              Va-Sết-Thá ! Ngươi nghĩ sao ?

       Có phải vì sự khẩn cầu, van xin

          Mà bờ kia nể tình qua đến

          Vâng theo lệnh người ấy không nào ? ”.

 

          – “ Thưa Tôn Giả ! Dẫu van cầu       

       Sự kiện ấy chẳng thể nào xảy ra ”.

 

25. –“ Va-Sết-Thá ! Vệ Đà ba quyển

          Những Bàn-môn quán triệt, tinh anh

              Loại bỏ những pháp tác thành

       Bả-la-môn hệ, lại dành tuân theo

          Không tác thành Bàn-môn các pháp

          Những vị này khoác lác nói là :

 

            ‘ Chúng tôi cầu khẩn Inh-Dra  (1)

       Cầu Va-Nê-Ná (2) & Sô-Ma (3) phù trì

          Y-Sa-Na (4) chứng tri  gia bị

          Cầu Pa-Cha-Pa-Tí (5)  chủ sanh

              Cầu nguyện Phạm Thiên (6) thượng tầng

       Là đấng tối thắng vô ngần uy nghi

          Cầu nguyện Ma-Hít-Thi (7) cứu độ

          Cầu Dạ-Ma (8) gia hộ an lành.

 

              Loại bỏ những pháp tác thành

       Những Bàn-môn nọ chỉ dành cầu xin

          Thì với sự van xin cầu khẩn

    _______________________________

 (1) : Indra (Nhân-đà-la) . (2) : Vanena (Bà-lưu-va) . (3) : Soma     

     (Tô-ma) . (4) : Isàna . (5): Pajàpati (Sanh Chủ) . (6): Brahma

    (Phạm Thiên) .  (7) : Mahiddhi  (Ma-hi-đề) .  (8) : Yama .

Trường Bộ (Tập 1)  Kinh 13 :    TEVIJJA        *  MLH  –  478

 

          Đến sau khi duyên tận mạng chung

              Những Bàn-môn ấy có cùng

       Phạm Thiên một cõi sống chung không nào? ”.

 

    – “ Thưa Tôn Giả ! Không sao thể đạt

          Sự kiện ấy dứt khoát là không ”.

26.      – “ Va-Sết-Thá ! Như bờ sông

       Nước tràn ngập cả, lại không có thuyền

          Một người nọ muốn liền sang bến

          Bờ bên kia, đi đến khác miền

              Gã bèn cầu khẩn, ước nguyền

       Bở bên kia hãy qua liền bên đây

          Để giúp gã đi ngay cho dễ

          Sự kiện ấy không thể xảy ra.

 

27.      –  Cũng vậy, này Va-Sết-Tha !

       Có năm pháp khiến Dục gia tăng dần

          Năm pháp ấy trong phần Giới luật

          Xem như thuộc giây thắng, giây chuyền

              Thế nào là năm thứ riêng ?

       Mắt cảm nhận Sắc có duyên, mỹ miều

          Rất hấp dẫn, yêu kiều, khả ái.

          Tiếng do Tai cảm thấy du dương

              Điệu trầm bổng, âm vấn vương.

       Hương thơm do Mũi ngửi thường đắm say.

          Vị do Lưỡi hằng ngày cảm nhận

          Sự ngon ngọt, cay, đắng, mặn, nồng.

              Xúc do Thân cảm nhận xong

       Liền thấy thích thú, trong lòng hân hoan.

      

          Khi cảm nhận rõ ràng năm loại

          Câu hữu với Dục, Ái lạc liền

              Dục lạc tăng thịnh liên miên                  

Trường Bộ (Tập 1)  Kinh 13 :    TEVIJJA        *  MLH  –  479

 

       Từ năm pháp, giống giây chuyền lưu thông

          Giống giây thắng trong vòng Giới luật

          Bậc Thánh nhân thông suốt giữ gìn.

              Các Bàn-môn vẫn đắm mình

       Năm pháp dục lạc mặc tình say mê

          Bị trói buộc, không hề thấy sợ

          Sự nguy hiểm từ đó sinh ra.

 

28.           Do vậy , này Va-Sết-Tha !

       Những Bàn-môn đã loại ra không hành

          Với những pháp tác thành Phạm-chí

          Không tác thành tuân kỹ pháp sinh

              Người Bàn-môn chẳng đáng hành

       Họ chỉ chấp trước, thực tình đắm mê

          Bị trói buộc, không hề nhận thức

          Sự nguy hiểm, không dứt buộc ràng

              Sau khi chết lại mong sang

       Sống chung trong cõi mỹ toàn Phạm Thiên

          Sự kiện ấy dĩ nhiên không có.

 

29.      Cũng giống như người nọ muốn mau

              Sang bờ đối diện sông sâu

       Nhưng người ấy lại trùm đầu ngủ say

          Vậy bao giờ người này qua hẳn

          Bờ bên kia như hắn mong chờ ? ”.

 

          – “ Thưa Tôn Giả ! Không bao giờ !

       Người ấy không thể có cơ hội rồi ! ”.

 

30. –“ Va-Sết-Thá ! Năm thời chướng ngại

          Năm Triền Cái, cũng gọi màn che

              Hay năm triền phược nặng nề

       Trong vòng Giới luật thuộc về Thánh nhân

Trường Bộ (Tập 1)  Kinh 13 :    TEVIJJA        *  MLH  –  480

 

          Sao được gọi là năm Triền Cái ?

          Là Dục cái, Sân cái, hôn trầm,

              Trạo hối, Nghi cái trong tâm

       Gọi năm chướng ngại hay năm cái màn

          Các Bàn-môn hoàn toàn quán triệt

          Rất tinh thông lý thuyết Vệ Đà

              Nhưng bị trói buộc, che lòa

       Do Dục, trạo hối, nghi và Sân điên

          Cùng ‘hôn trầm thụy miên’ chướng ngại,

          Nên đã loại những pháp tác thành

              Tuân theo pháp không tác thành

       Bà-la-môn hệ phải hành theo đây.

       

          Những ai bị phủ vây, chướng ngại

          Năm Triền Cái vướng phải, vẫy vùng

              Đến khi thân hoại mạng chung

       Lại mong cộng trú vui cùng Phạm Thiên

          Sự kiện ấy dĩ nhiên vô lý.

 

31.      Va-Sết-Thá ! Ngươi nghĩ ra sao ?

              Có nghe những Bàn-môn nào

       Niên cao lạp trưởng thuộc vào Tôn Sư

          Hay các Đại Tôn Sư bàn chuyện

          Về đức hạnh uy hiển Phạm Thiên ?

              Nay ta hỏi về căn nguyên

       Đức tánh của đấng Phạm Thiên phổ đồng :

    

     – “ Đức Phạm Thiên có & không Dục ái ? ”.

 

     – “ Thưa Tôn Giả ! Dục ái thì không ”.

 

          – “ Phạm Thiên có hận tâm không ? ”.

 

–  “ Kính thưa Tôn Giả ! Hận không ẩn trầm ”.

 

    –  “ Vậy Phạm Thiên sân tâm vẫn có ? ”.

Trường Bộ (Tập 1)  Kinh 13 :    TEVIJJA        *  MLH  –  481

 

    – “ Thưa Tôn Giả ! Không có sân tâm ”.

 

         – “ Vậy Phạm Thiên có nhiễm tâm ? ”.

 

  – “ Kính thưa Tôn Giả ! Nhiễm tâm không còn ”.

 

    – “ Phạm Thiên có hay không tự tại ? ”.

 

    – “ Thưa, Phạm Thiên tự tại an nhiên ”.

 

32.    – “ Này Va-Sết-Thá ! Còn riêng    

      Các Bàn-môn vốn tinh chuyên Vệ Đà

    –  Có Dục ái hay là không có ?

 

    –  Thưa Tôn Giả !  Họ có dục tâm.

 

         –  Có hay không có hận tâm ?

 

   –  Kính thưa Tôn Giả ! Hận tâm vẫn còn.

 

    –  Với sân tâm họ còn hay mất ?

 

    –  Thưa Tôn Giả ! Sân tất mọi thời.

 

         –  Họ có nhiễm tâm đầy vơi ?

 

  –  Nhiễm tâm vẫn có trong đời Bàn-môn.

 

33. – “ Va-Sết-Thá ! Vẫn còn nghe, thấy 

          Các Bàn-môn đầy dẫy tánh hư

              Tham, sân, si, mạn chẳng từ

       Dục ái, phiền não… không trừ thứ chi

          Trong khi ấy khoan thư tự tại

          Đấng Phạm Thiên dứt ái, dục không

              Sân, hận, ô nhiễm cũng không.

 

       Bàn-môn ô nhiễm muốn đồng sống chung

          Với Phạm Thiên khoan dung, từ ái

          Sự việc này có xảy ra không ? ”.

 

       – “ Thưa Tôn Giả ! Chính là ‘không ” .

 

34. – “ Này Va-Sết-Thá ! Thuận đồng, lành thay !

Trường Bộ (Tập 1)  Kinh 13 :    TEVIJJA        *  MLH  –  482

 

          Như vậy thì điều đây chứng tỏ

          Dù Bàn-môn thông rõ Vệ Đà

              Tinh thông, quán triệt cả ba

       Mạng chung, mong được an hòa sống chung

          Với Phạm Thiên thật không thể có.

 

35.      Nhưng với họ, vẫn tự dối mình

              Các vị này ngồi tự tin

       Thế nhưng thật sự đang chìm bùn nhơ 

          Và khi đang vật vờ chìm đắm

          Trong bùn lầy, thật lắm dở dang

              Vẫn tưởng mình đến cảnh an.

       Do vậy đối với những hàng Bàn-môn

          Sự tinh thông gọi là sa mạc

          Không có nước, chết khát ở trong

              Ta cũng gọi sự tinh thông

       Chính là rừng rậm mênh mông mịt mù

          Không lối ra muôn thu, được sánh

          Sự tinh thông bất hạnh cũng là ”.

 

37.           Khi nghe Thế Tôn giảng qua

       Bà-la-môn Va-Sết-Tha bạch rằng :

    – “ Thưa Tôn Giả ! Nghe rằng Tôn Giả   

          Biết con đường, diễn tả rõ liền

              Đưa đến cộng trú Phạm Thiên ? ”.

 

 – “ Này Va-Sết-Thá ! Căn nguyên có người

          Đã sinh trưởng lâu đời, chẳng lạ

          Ma-Na-Sa-Ka-Tá  làng này

              Chưa bao giờ rời khỏi đây

       Có người hỏi gã chỉ bày đường đi

          Các con đường phạm vi làng đó

          Chắc với gã chẳng khó khăn gì ? ”.

Trường Bộ (Tập 1)  Kinh 13 :    TEVIJJA        *  MLH  –  483

 

            – “ Thưa Tôn Giả ! Chẳng ai nghi

       Vì gã thông thuộc phạm vi cả làng ”.

 

38. –“ Va-Sết-Thá ! Hoàn toàn rất lạ

          Nếu có người với gã nghi ngờ

              Khi hỏi đường làng bấy giờ.

       Với ta, không có nghi ngờ, khó khăn

          Về Phạm Thiên, muốn đăng cảnh giới

          Và con đường đưa tới Phạm Thiên

              Như Lai biết rõ căn nguyên

       Về Phạm Thiên giới, tới liền cõi đây ”.

 

39.      Nghe đến đây, thanh niên bạch Phật :

    – “ Thưa Tôn Giả ! Quả thật lành thay !

              Nếu Ngài hoan hỷ dạy ngay

       Con đường cộng trú lâu dài Phạm Thiên ”.

 

    – “ Va-Sết-Thá ! Hãy chuyên chú ý

          Lắng nghe kỹ, Ta nói vấn đề :

              Cõi trần phiền não nặng nề

       Vô minh triền phược mọi bề phủ vây

          Bỗng xuất hiện bậc thầy quảng đại

          Thế Gian Giải, Điều Ngự Trượng Phu,

              Phật, Thế Tôn, Thiên Nhân Sư,

       Chánh Đẳng Chánh Giác đại từ uy linh

          Vô Thượng Sĩ hay Minh Hạnh Túc,

          Bậc Thiện Thệ, Ứng Cúng, Như Lai,

              Do sự chứng ngộ tự Ngài

       Rồi lại tuyên thuyết, hoằng khai Pháp mầu

          Thuyết Sơ Thiện, rồi sau Trung Thiện

          Thuyết Hậu Thiện, văn nghĩa đủ đầy

              Truyền dạy Phạm hạnh từ đây

       Pháp thân thanh tịnh, bậc Thầy Nhân Thiên.

Trường Bộ (Tập 1)  Kinh 13 :    TEVIJJA        *  MLH  –  484

 

          Có gia trưởng trong miền thôn ấp

          Hoặc một người giai cấp tiện dân

              Duyên lành nghe pháp thậm thâm

       Sinh lòng ngưỡng mộ, kiếm tầm chân như

          Tự suy nghĩ : ‘Đời như cát bụi

          Sống dẫy đầy trói buộc não phiền

              Luân hồi sinh tử triền miên

       Đời sống xuất thế lụy phiền tránh xa

          Ta nay phải xuất gia viên mãn

          Đời xuất gia phóng khoáng hư không

              Cuộc sống thế gian chất chồng

       Phạm hạnh thanh tịnh thật không dễ gìn’..

 

          Y trưởng dưỡng đức tin vững chắc

          Cạo râu tóc, thân đắp ca-sa

              Biệt gia quyến, bỏ cửa nhà

       Ba y một bát, xuất gia tu hành.

           Sống chế ngự, thực hành phạm hạnh

          Giữ oai nghi, tự tánh sáng lòa

              Giới bổn Pa-Tí-Mốc-Kha  (1)

       Thọ trì nghiêm mật, tránh xa điều tà

          Thân, khẩu, ý  từ hòa thanh tịnh

          Giới cụ túc, thức tĩnh nhiếp tâm

              Biết tri túc, giữ các căn

       Là Sa-môn hạnh, pháp đăng soi đường.

        – Va-Sết-Thá ! Sao tường thuần thục

          Là Tỷ Kheo cụ túc giới điều ?

              Phải thấy nguy hiểm mọi chiều

       Lỗi lầm nhỏ nhặt triệt tiêu dần dần

          Bỏ trượng kiếm, sát sanh tránh hẳn      

    _______________________________

    (1) : Patimokkhasanvarasìla : Biệt biệt giải thoát thu thúc giới . 

Trường Bộ (Tập 1)  Kinh 13 :    TEVIJJA        *  MLH  –  485

 

          Đại từ tâm, bình đẳng, nhẫn kham

              Có tâm hổ thẹn là Tàm,

       Ghê sợ là Quý, không làm nghiệp sai

          Hành phạm hạnh, bản lai thanh tịnh

          Không trộm cướp, chẳng tính so đo

              Quyết không lấy của không cho

       Đó là giới hạnh, thước đo Giới điều.

 

            Vị Tỷ Kheo mong điều giải thoát

          Không tà hạnh, dâm ác thấp hèn

              Không nói dối trá đua chen

       Không nói hai lưỡi chê khen dối lòng

          Không lường gạt cũng không ly gián

          Sống hòa hợp giữa nạn rẽ chia

              Sống đời chân thật sớm khuya

       Tránh lời độc ác nọ kia lỗi lầm.

          Là giới hạnh trong tầm Giới Luật

          Vị Tỷ Kheo thuần thục thọ trì

              Cả đến hạt giống, cỏ cây

       Cũng đều thấm nhuận đức dày Sa-Môn

          Chỉ ăn ngọ, sống tồn tri túc

          Không múa hát, trang sức, kịch ca

              Sống thanh đạm, tránh xa hoa

       Không dùng hương liệu, dầu thoa thơm nồng

 

          Lại cũng không giường nằm cao rộng    

          Cũng không nhận thịt sống, bạc vàng

              Nô tỳ trai, gái – từ nan

         Đàn bà, con gái – không màng lưu tâm

          Cừu, dê, heo, gia cầm, voi, ngựa,

          Ruộng, đất, vườn, nhà cửa không cần

              Từ bỏ gian lận bằng cân

Trường Bộ (Tập 1)  Kinh 13 :    TEVIJJA        *  MLH  –  486

 

       Từ bỏ môi giới, không phần gian tham

          Không áp bức, không làm thương tổn

          Không câu thúc, vây khổn, cừu thù

              Đó là giới hạnh đặc thù

       Nằm trong Giới Luật chân tu giữ gìn .

          Luôn trưởng dưỡng đức tin vững chắc

          Hiểu Nghiệp lực chi phối mọi thì.

*

            – Va-Sết-Thá ! Hãy tường tri

       Vị Tỷ Kheo ấy uy nghi, vô cầu

          Được hộ trì nhờ vào Giới Luật

         Tâm kiên cương chẳng chút sợ gì

              Như Sát-Đế-Lỵ  một vì

       Làm lễ quán đảnh, trị vì giang san

          Đã hàng phục lân bang thù địch

          Không còn sợ đột kích biên phòng

              Tỷ Kheo chân chánh cũng không

       Sợ hãi tội lỗi, vì lòng thẳng ngay

          Giới Luật ấy đủ đầy, cao quý

          Hưởng lạc thọ, hoan hỷ nội tâm.

*

           –  Va-Sết-Thá ! Hãy lắng tâm

       Tỷ Kheo bảo hộ các căn thế nào ?

 

          Mắt thấy sắc nhưng nào giữ tướng

          Tướng chung, riêng chẳng nắm giữ gì

              Mắt không chế ngự tại chi

       Khiến bất thiện pháp ưu bi khởi vào

          Nên tham ái dâng trào đủ thứ

          Vị Tỷ Kheo chế ngự nguyên nhân

              Hộ trì tích cực nhãn căn

       Cũng như hộ trợ nhĩ căn cũng cần

          Tai nghe tiếng hay thân cảm xúc

Trường Bộ (Tập 1)  Kinh 13 :    TEVIJJA        *  MLH  –  487

 

          Mũi ngửi hương , nhận thức : Ý căn

              Tỷ Kheo hộ trì các căn

       Nên hưởng lạc thọ, nội tâm sáng ngời.

      

       –  Va-Sết-Thá ! Thời thời tỉnh giác

          Giữ chánh niệm, an lạc tự tâm

              Tỷ Kheo đi, đứng, ngồi, nằm

       Đều giữ tĩnh giác, trong tâm biết liền

          Khi tới, lui ; biết mình lui, tới

          Khi nhìn quanh, biết bởi mình làm

              Hay khi co duỗi tay chân

       Mặc y, đi bát hay cần uống ăn

          Khi nhai, nuốt, nói năng : Tỉnh giác

          Đại, tiểu tiện, nhổ khạc : Biết mình

              Như vậy Tỷ Kheo tâm minh

       Chánh niệm tỉnh giác, an bình, thanh cao.

 

      –  Va-Sết-Thá ! Thế nào biết đủ ?

          Hạnh Tri Túc luôn giữ chỉnh tề

              Bằng lòng ba  y để che

       Bình bát khất thực dễ bề cúng dâng

          Y và bát luôn gần bên cạnh

          Cũng như chim, đôi cánh luôn mang.

              Đó là Tỷ Kheo giới toàn

      Giữ hạnh Biết Đủ, không màng nhiều hơn.

       

          Với Giới uẩn chánh chơn cao quý

          Với các căn nhiếp kỹ, hộ trì

              Chánh niệm tỉnh giác trí tri

       Thêm hạnh tri túc, còn gì quý hơn.

          Trang bị đủ những gì cao quý

          Vị ấy lựa vị trí lặng yên

              Như rừng tĩnh mịch, lâm viên

Trường Bộ (Tập 1)  Kinh 13 :    TEVIJJA        *  MLH  –  488

 

       Gốc cây, khe núi hoặc liền tha ma          

           Thời ngọ thực đã qua, rửa bát

          Ngồi kiết già, an lạc, thẳng lưng

              An trú chánh niệm, lâng lâng

       Tham ái từ bỏ, thoát dần ái tham

          Bỏ sân hận, từ tâm thương xót

          Chúng hữu tình mỗi một cảnh riêng

 

              Từ bỏ hôn trầm, thụy miên

       Thoát ly khỏi chướng thụy miên, hôn trầm

          Giữ tịnh tâm, hướng về ánh sáng

          Cùng chánh niệm, tỉnh giác, tâm yên

              Gột rửa chúng, được an nhiên

       Từ bỏ  trạo cử  thì liền tịnh thân

          Hết nghi ngờ, phân vân lưỡng lự

          Gột rửa hết trạo cử, hôn trầm.

              Gột rửa tham ái, hận sân.

       Đối với thiện pháp, tinh cần hành theo.

 

       –  Va-Sết-Thá ! Người nghèo mắc nợ           

          Liền chọn nghề, không sợ khó khăn     

              Nhờ sự nỗ lực, tinh cần

       Nghề nghiệp phát đạt, tự thân nên giàu

          Có tiền dư, nợ mau trả dứt

          Nuôi vợ con, quả thực thanh nhàn

              Người ấy nhờ vậy giàu sang

       Sung sướng hoan hỷ, hoàn toàn an nhiên.

 

       –  Va-Sết-Thá ! Bệnh duyên người nọ

          Rất đau đớn, lại khó uống ăn

              Thể lực suy yếu dần dần

       Cơn bệnh trầm trọng hành thân đêm ngày

          Bỗng nhân duyên, gặp thầy gặp thuốc

Trường Bộ (Tập 1)  Kinh 13 :    TEVIJJA        *  MLH  –  489

 

          Dứt hẳn bệnh, ăn uống tiêu thông

              Thể lực khôi phục như mong

       Hoan hỷ, sung sướng, sống trong an lành.

 

       –  Va-Sết-Thá ! Một anh bị nhốt

          Trong ngục tù, ngục tốt khảo tra

              Đau đớn, sợ hãi tối đa

       Cầu mong thoát khỏi tai qua, nạn lùi

          Bỗng duyên vui, gặp ngài Chánh án

          Xét vô tội, xóa án thả mau

              Tài sản không bị tổn hao

       Thân vẫn khang kiện, ngục lao thoát rồi

          Về lại nhà, bồi hồi nghĩ lại

          Quá sung sướng, thanh thái hân hoan.

 

           –  Va-Sết-Thá ! Một thời gian

       Có người nô lệ của hàng chủ nhân

          Không tự chủ, bản thân lệ thuộc

          Mất tự do, ràng buộc khó khăn

              Bỗng một hôm, vị chủ nhân

       Tuyên bố trả tự do thân người này

          Quá hoan hỷ, lòng đầy sung sướng

          Người nô lệ tận hưởng niềm vui.

 

           –  Va-Sết-Thá ! Có một người

       Giàu, nhiều tài sản, là người lái buôn

          Qua sa mạc mênh mông nguy hiểm

          Thiếu lương thực, khan hiếm nước dùng

              Sợ hãi trong bước đường cùng

       Bỗng gặp ốc đảo, nước trong rất nhiều

          Mấy hôm sau, lại điều may khác

          Khỏi sa mạc, gần đến đầu làng

              Vô sự, sung sướng, vui an

Trường Bộ (Tập 1)  Kinh 13 :    TEVIJJA        *  MLH  –  490

 

       Khỏi sự nguy hiểm lòng hằng ước mơ.        

 

       –  Va-Sết-Thá ! Chính nhờ quán niệm

          Vị Tỷ Kheo tự nghiệm, tự tri

              Năm Triền Cái chưa xả ly

       Như là món nợ, Bệnh  hay Ngục đường,

          Như nô lệ, con đường sa mạc,

          Nay trả dứt hết các nợ nần

              Khỏi cơn bệnh dữ hành thân

       Ra khỏi sa mạc, thoát tầng ngục lao,

          Năm  Triền Cái chừng nào chưa diệt

          Vị Tỷ Kheo mãi miết tinh cần.

 

              Chừng nào khi quán tự thân

       Với năm Triền Cái  đã cần xả ly

          Do xả ly, tức thì hoan hỷ

          Do hoan hỷ, tâm được khinh an

              Lạc thọ sinh do khinh an

       Đạt được như thế, tâm an định liền

          Ly ác pháp, Tỷ Kheo ly dục

          Chứng và trú vào mục Nhất Thiền

              Trạng thái hỷ lạc tự tâm

       Sinh do ly dục, với Tầm, Tứ chuyên

          Đệ Nhất Thiền, Tỷ Kheo thấm nhuận

          Như tẩm ướt, sung mãn, tràn nhanh

              Hỷ lạc do ly dục sanh

       Với Tầm, với Tứ thấm quanh tức thời.

 

       –  Va-Sết-Thá ! Như người hầu tắm

          Thật lão luyện, lo sắm sửa mau

              Rắc bột tắm vào trong thau

       Rồi dùng bột ấy nhồi vào nước trong

          Nhào trộn ướt, nhưng không chảy giọt

Trường Bộ (Tập 1)  Kinh 13 :    TEVIJJA        *  MLH  –  491

 

          Cũng như một Tỷ Kheo thẳng ngay

              Do sanh ly dục đủ đầy

       Hỷ lạc cũng đẫm ướt ngay như vầy.

 

56.      Va-Sết-Thá ! Lành thay ! Lại nữa

          Vị Tỷ Kheo vào cửa định thiền

              Diệt Tầm, diệt Tứ được yên

       Thì chứng và trú vào Thiền thứ Hai

          Một trạng thái ra ngoài Tầm, Tứ

          Do Định sinh, nội tỉnh nhất tâm

              Tỷ Kheo ấy đã thấm nhuần

       Tẩm ướt, sung mãn khắp thân của mình

          Do Định sinh, tràn đầy hỷ lạc

          Không chỗ nào hỷ lạc chẳng nhuần.

 

           –  Va-Sết-Thá ! Tại cội nguồn

       Có một hồ nước, nước tuông dâng đầy

          Cả nam, bắc, đông, tây  các chỗ

          Không có lỗ thoát nước chảy ra

              Suối nước mát lạnh phun ra

       Làm cho đẫm ướt, thấm qua dâng tràn

          Thỉnh thoảng mưa, hồ càng tẩm ướt

          Không chỗ nào không được tràn dâng

              Tỷ Kheo hỷ lạc thấm nhuần

       Do Định, tẩm ướt khắp thân của mình.  

 

      –  Va-Sết-Thá ! Hành trình tiếp nữa

          Vị Tỷ Kheo vào cửa định thiền

              Ly hỷ trú xả, nhất tâm

       Chánh niệm tỉnh giác, thì thân cảm liền

          Sự lạc thọ, thánh hiền gọi đủ

          Là ‘xả niệm lạc trú’ tâm chuyên

              Chứng và an trú Tam Thiền

Trường Bộ (Tập 1)  Kinh 13 :    TEVIJJA        *  MLH  –  492

 

       Tỷ Kheo đẫm ướt, thấm nhuần tự thân         

          Sự lạc thọ, không cần có hỷ

          Lạc thọ ấy thấm kỹ toàn thân

              Không một chỗ nào trên thân

       Mà Lạc thọ đó không phần thấm vô.

 

      –  Va-Sết-Thá ! Như hồ sen trắng

          Cả sen hồng chen lẫn sen xanh

              Những hoa sen ấy đều sanh

       Từ trong hồ nước, lớn nhanh từng ngày

          Nhưng chúng vẫn chưa ngoi khỏi nước

          Từ gốc rễ đẫm ướt tới đầu.

              Tỷ Kheo với lạc thọ sâu

       Không đi với hỷ, thấm mau tràn đầy. 

 

        – Va-Sết-Thá ! Lành thay ! Lại nữa

          Vị Tỷ Kheo vào cửa định thiền

              Xả lạc, xả khổ ; tâm yên

       Diệt hỷ, ưu, cảm thọ – liền trước đây

          Chứng và trú vào Thiền Đệ Tứ

          Không khổ, lạc ; không giữ niệm nào

              Thanh tịnh, an lạc tiêu dao

       Như Tỷ Kheo ấy thấm sâu, ướt đầm.

 

       * Vị Tỷ Kheo với tâm thuần tịnh

          Tâm định tỉnh, không nhiễm não phiền

              Nhu nhuyến, vững chắc  theo Thiền

       Bình thản như vậy, chẳng phiền chẳng ưu.

          Vị Tỷ Khưu hướng ngay tâm tới

          Chánh Trí với Chánh Kiến như vầy

              Biết rằng : ‘Thân của ta đây

       Chính là Sắc pháp, thân này do sanh

          Do bốn đại tác thành hoàn hảo

Trường Bộ (Tập 1)  Kinh 13 :    TEVIJJA        *  MLH  –  493

 

          Cha mẹ nuôi, cơm cháo, vô thường

              Biến hoại, đoạn tuyệt ; đáng thương

       Phấn toái, hoại diệt. Nhưng nương thân này

          Thức tánh ta bị giây trói buộc

          Trong thân ấy, lệ thuộc như vầy.     

              Hành trình vị ấy thẳng ngay

       Con đường giải thoát mở bày an nhiên.

 

       * Vị Tỷ Kheo cần chuyên, thuần tịnh

          Tâm định tỉnh, không nhiễm, không phiền

              Nhu nhuyến, vững chắc – theo Thiền

       Bình thản như vậy, chẳng phiền chẳng ưu.

          Vị Tỷ Khưu hướng tâm đến với

          Sự Hiện Hóa Thân mới khác vời

              Do ý làm ra tức thời

       Tạo một thân khác từ nơi thân này

          Thân mới ấy cũng tày Sắc pháp

          Do ý sinh, đủ các căn phần

              Mắt, tai, mũi, lưỡi, tay chân

       Toàn thân không thiếu một căn chi nào.       

 

       * Vị Tỷ Kheo thanh cao, thuần tịnh

          Tâm định tỉnh, không nhiễm, không phiền

              Nhu nhuyến, vững chắc – theo thiền

       Bình thản như vậy, chẳng phiền chẳng ưu.

 

          Vị Tỷ Khưu hướng tâm đến với

          Các Thần Thông nhiều loại nhiệm mầu

              Một thân hiện ra nhiều thân

       Nhiều thân thu lại một thân dễ dàng

          Hiện, biến hình, đi ngang qua vách

          Xuyên qua núi như cách hư không

              Độn thổ, trồi lên đất giồng

Trường Bộ (Tập 1)  Kinh 13 :    TEVIJJA        *  MLH  –  494

 

       Đi được trên nước cũng không chìm nào

          Ngồi kiết già trên cao vòi vọi                     

          Bay trên không như loại chim bằng

              Với tay chạm mặt trời, trăng

       Có đại oai lực, oai thần uy linh

          Hoặc có thể tự mình bay tới

          Cõi Phạm Thiên vời vợi nơi này,

              Hành trình vị ấy thẳng ngay

       Con đường giải thoát mở bày an nhiên.

 

      –  Va-Sết-Thá ! Hãy liền ví dụ :

          Có một người chăm chú qua đàng

              Bỗng nghe tiếng trống rộn ràng

       Trống lớn, trống nhỏ, muôn ngàn âm thanh

          Tiếng xập xỏa, tiếng loa, tiếng kiểng

          Người ấy nghe và hiểu tận tường

              Âm thanh trầm bổng du dương

       Tiếng trong, tiếng đục, âm vương vấn hoài

 

       * Vị Tỷ Kheo nghiêm oai, thuần tịnh

          Tâm định tỉnh, không nhiễm, không phiền

              Nhu nhuyến, vững chắc – theo thiền

       Bình thản như vậy, chẳng phiền chẳng ưu.

          Vị Tỷ Khưu hướng tâm đến với

          THIÊN NHĨ THÔNG, nghe tới muôn phần

              Với Tai thanh tịnh siêu nhân

       Vị ấy có thể nghe gần nghe xa

          Hai loại tiếng : người ta và loại

          Tiếng chư Thiên các cõi nghe rày.

              Hành trình vị ấy thẳng ngay

       Con đường giải thoát mở bày an nhiên.

 

      –  Va-Sết-Thá ! Hãy liền ví dụ

Trường Bộ (Tập 1)  Kinh 13 :    TEVIJJA        *  MLH  –  495

 

          Có một người thiếu nữ, hay là               

              Thanh niên, đàn ông, đàn bà

       Tính ưa trang sức, nhìn vào trong gương

          Thật sáng trưng, hay trong chậu nước

          Thấy mặt mình, biết được thế này :

              Có tỳ vết thì biết ngay

       Nếu không tỳ vết, mặt mày sạch thay.

 

       * Vị Tỷ Kheo thẳng ngay, thuần tịnh    

          Tâm định tỉnh, không nhiễm não phiền

              Nhu nhuyến, vững chắc – theo thiền

       Bình thản như vậy, chẳng phiền chẳng ưu.

          Vị Tỷ Khưu hướng tâm đến với

          THA TÂM THÔNG, dẫn tới biết ngay

              Tâm của người khác hằng ngày

       Tâm tham cũng biết, không tham biết liền

          Tâm nổi sân, biết liền sân hận

          Tâm không sân không hận cũng tường

              Tâm Si hay không Si  thường

       Chuyên chú, tán loạn biết dường tự tâm

          Đại hành tâm, biết là như vậy

          Hoặc không phải là đại hành tâm

              Tâm vô thượng, biết rõ ràng

       Tâm chưa vô thượng lại càng biết thông

          Tâm thiền định hay không thiền định

          Tâm giải thoát hay dính buộc ràng

              Vị ấy đều biết rõ ràng

       Tâm của người khác, cả hàng trí, ngu.

 

      –  Va-Sết-Thá ! Ví như một gã

          Từ làng mình đi quá làng bên

              Từ làng bên lại đi lên

Trường Bộ (Tập 1)  Kinh 13 :    TEVIJJA        *  MLH  –  496

 

       Đến một làng khác rồi bèn trở lui

 

          Về làng mình, bùi ngùi nhớ lại

          Cuộc hành trình đã trải đi qua

              Đến làng bên, gặp người ta

       Đủ cả lớn bé, người già, trẻ con

          Tại nơi ấy, ta còn kỷ niệm

          Ngồi nơi nào, chuyện phiếm ra sao

              Rời làng ấy, ta lại vào

       Một làng khác nữa, biết bao chuyện còn

          Gặp người lớn, trẻ con thôn ấp

          Nói chuyện gì, cao thấp, đứng ngồi

              Trở về làng cũ của tôi

       Lại rất nhiều chuyện nổi trôi hằng ngày.

 

       * Vị Tỷ Kheo thẳng ngay, thuần tịnh

          Tâm định tỉnh, không nhiễm não phiền

              Nhu nhuyến, vững chắc – theo thiền

       Bình thản như vậy, chẳng phiền chẳng ưu.

          Vị Tỷ Khưu hướng tâm đến với

          TÚC MẠNG THÔNG, nhớ tới nhiều đời

              Quá khứ với một, hai đời

       Năm chục, ba bốn trăm đời đã qua

          Một ngàn đời hay là hơn nữa

          Một trăm ngàn đời thuở lâu xa

              Hoại kiếp, thành kiếp trải qua

       Vị ấy nhớ lại như là mới đây.

          Tại nơi ấy, tên này ta có

          Thuộc giai cấp, giòng họ thế này

              Uống, ăn, thọ khổ, lạc  rày

       Tuổi thọ như thế, chết ngày ra sao

          Ta tái sinh, nhằm vào làng đó     

Trường Bộ (Tập 1)  Kinh 13 :    TEVIJJA        *  MLH  –  497 

.                                                                                                                                                                                                  Có tên tuổi, giòng họ thế nào

              Cứ thế, nhớ lại biết bao

       Tiền kiếp, tái kiếp không sao đếm rồi.

 

      –  Va-Sết-Thá ! Như nơi ví dụ : 

          Một tòa lầu có đủ kiều phù

              Lầu này ở giữa ngã tư

       Một người mắt sáng đến từ phương xa

          Lên thượng đài, anh ta thấy rõ

          Người ra vào các ngõ bốn phương

              Nhiều người qua lại trên đường

       Leo lên đài thượng hay dừng ngã tư

          Những người khác đến từ nhiều hướng

          Đi giữa đường hoặc đứng nhìn chơi

              Chỉ bằng đôi mắt sáng ngời

       Người ấy thấy rõ mọi người dễ thay.

 

       * Vị Tỷ Kheo thẳng ngay thuần tịnh

          Tâm định tỉnh, không nhiễm não phiền

              Nhu nhuyến, vững chắc – theo thiền

       Bình thản như vậy, chẳng phiền chẳng ưu.

 

          Vị Tỷ Khưu hướng tâm đến với

          THIÊN NHÃN THÔNG, dẫn tới tuệ minh

              Xét về sinh tử chúng sinh

       Thiên nhãn thuần tịnh siêu nhân, thấy liền

          Vị ấy biết mối giềng Nghiệp quả

          Người hạ liệt, kẻ cả giàu sang

              Người đẹp đẽ, kẻ thô hèn

       Đều do hạnh nghiệp trắng đen họ làm.

          Gieo ác hạnh về thân, khẩu, ý

          Hoặc phỉ báng các vị Thánh Hiền

              Người này thân hoại, tận duyên     

Trường Bộ (Tập 1)  Kinh 13 :    TEVIJJA        *  MLH  –  498

 

       Do nghiệp tà kiến, đọa liền súc sinh

          Các cõi dữ, như sinh địa ngục

          Hoặc đọa xứ, thằng thúc nạn tai.

           *  Còn bậc hiền giả, những ai

       Làm những thiện hạnh  ý và lời, thân

          Không phỉ báng Hiền nhân, Thánh hiển

          Tạo nghiệp lành, chánh kiến vô cùng

              Sau khi thân hoại mạng chung 

       Được sinh thiện thú, nhân trung, cõi trời.

 

          Do thiên nhãn, biết đời sống chết

          Người hạ liệt hay kẻ giàu sang

              Người đẹp đẽ, kẻ thô hèn

       Người này bất hạnh, kẻ bèn gặp may

          Do hạnh nghiệp kẻ này hành động

          Có kết quả chẳng giống nhau này.

              Hành trình vị ấy thẳng ngay

       Con đường giải thoát mở bày an nhiên.       

 

      –  Va-Sết-Thá ! Hãy liền ví dụ :

          Dãy núi lớn đầy đủ nước trong

              Không cấu nhiễm, sạch trắng bong

       Một người mắt sáng sẽ trông rõ đồ

          Những hòn sạn, con sò, hòn đá

          Những con hến, đàn cá tung tăng

              Trong tâm vị ấy nghĩ rằng

       Nhờ mắt sáng thấy vô ngần điều hay.

 

       * Vị Tỷ Kheo thẳng ngay, thuần tịnh

          Tâm định tỉnh, không nhiễm não phiền

              Nhu nhuyến, vững chắc – theo thiền

       Bình thản như vậy, chẳng phiền chẳng ưu.

          Vị Tỷ Khưu hướng tâm đến với

Trường Bộ (Tập 1)  Kinh 13 :    TEVIJJA        *  MLH  –  499

 

           LẬU TẬN THÔNG, dẫn tới biết rành

              Lậu Tận Trí, biết ngọn ngành

       Đây là sự Khổ, nguyên nhân đưa vào

          Đây Khổ Diệt, đường nào diệt khổ

          Biết như thật lậu-hoặc loại này

              Nguyên nhân lậu-hoặc là đây

       Diệt trừ lậu-hoặc, biết ngay con đường.

      

          Nhờ hiểu biết, tận tường nhận thức

          Tâm vị ấy rất mực sáng trong

              Dục-lậu, hữu-lậu  thoát xong

       Thoát vô-minh-lậu, khỏi vòng trói trăn

          Liền hiểu rõ : ‘Tự thân giải thoát

          Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành

              Việc cần làm, đã thực hành

       Sau đời hiện tại, Vô Sanh hiển bày.

 

76.      Tâm vị ấy đủ đầy, an trú

          Biến mãn tâm câu hữu với Từ

              Bốn phương : nam, bắc, đông, tây

       Hướng trên, hướng dưới cũng tày bề ngang

          Khắp phương xứ vị này an trú

          Biến mãn tâm câu hữu với Từ

              Quảng đại, vô biên như như

       Không sân, không hận, tâm Từ vui tươi.

 

77.      Va-Sết-Thá ! Như người lực sĩ

          Thổi tù-và đích thị dễ dàng

              Muôn phương nghe tiếng vang vang.

       Tỷ Kheo cũng vậy, trải sang mọi điều

          Mọi hình thức, muôn chiều sự sống

          Không bỏ sót ai, chóng quên lầm

              Mà không biến mãn rộng thâm

Trường Bộ (Tập 1)  Kinh 13 :    TEVIJJA        *  MLH  –  500

 

       Với Từ câu hữu, với tâm thoát trần.

 

           Va-Sết-Thá ! Không sân, dục ái,

          Không hận, nhiễm, tự tại an nhiên

              Chính là con đường nhãn tiền

       Dẫn đến cộng trú Phạm Thiên rõ ràng.

 

78.      Va-Sết-Thá ! Hoàn toàn cảm thụ

          Vị Tỷ Kheo an trú muôn phương

              Cùng khắp thế giới vô lường

       Biến mãn, câu hữu thường thường với Bi

          Cũng như thế, đồng thì với Hỷ

          Rồi với Xả ; thì vị Tỷ Kheo

              An trú biến mãn duyên theo

       Với tâm câu hữu cũng đều với Bi

          Trú biến mãn khắp vì Hỷ, Xả

          Không hận, sân, rộng cả, vô biên.

  

79.           Va-Sết-Thá ! Như hiện tiền

       Có người lực sĩ thổi lên tù-và

          Khắp bốn phương gần xa nghe tới

          Không khó khăn việc thổi tù-và

              Cũng vậy, này Va-Sết-Tha !

       Hình thức sự sống trải qua muôn chiều

          Không một ai Tỷ Kheo bỏ sót

          Không biến mãn, giải thoát suy tầm

              Cùng khởi Tứ Vô Lượng Tâm :

       Từ, Bi, Hỷ, Xả diệu thâm vô lường.

 

          Đây chính là con đường đưa tới

          Để cộng trú cùng với Phạm Thiên.

 

80.           Va-Sết-Thá ! Việc như trên

       Tỷ Kheo vị ấy, ngươi nên nghĩ gì ?

Trường Bộ (Tập 1)  Kinh 13 :    TEVIJJA        *  MLH  –  501

 

    –  Có hay không chấp trì Dục ái ?   

 

  –  “ Thưa Tôn Giả ! Dục ái thì không ”.

 

         –  Có sân, hận tâm hay không ?

 

– “ Vị ấy không hận và không sân tà ”.

 

    –  Có nhiễm tâm hay là không có ?

 

  – “ Thưa Tôn Giả ! Không có nhiễm tâm ”.

 

         –  Vị ấy tự tại hay không ?

 

– “ Vị ấy tự tại, cõi lòng an nhiên ”.

 

81. –  Va-Sết-Thá ! Phạm Thiên, ngươi nói :

          Không dục ái , không hận, không sân

              Có tự tại, không nhiễm tâm.

       Tỷ Kheo vị ấy : hận, sân không còn

          Cũng tự tại, không còn dục ái.

          Giữa Tỷ Kheo với Đại Phạm Thiên

              Đã có một sự tương duyên

       Có thể cộng trú một miền được không ? ”.

 

    – “ Thưa Tôn Giả ! Tương đồng như thế

          Sự việc ấy có thể xảy ra ”.

 

           –  Lành thay, này Va-Sết-Tha ! 

       Tỷ Kheo vị ấy khi mà mạng chung

          Với Phạm Thiên sống cùng một cõi

          Khi đức hạnh đại loại giống nhau

              Còn những Bà-la-môn nào

       Dù tinh thông, giỏi đến đâu chăng là

          Ba Vệ Đà thuộc lòng, quán triệt

          Nhưng thân, tâm chưa diệt lỗi lầm

              Dục ái, sân, hận, nhiễm tâm

       Không có tự tại, phù trầm tử sinh

Trường Bộ (Tập 1)  Kinh 13 :    TEVIJJA        *  MLH  –  502

 

         Thì làm sao đinh ninh hư vọng

          Dạy con đường chung sống Phạm Thiên ? ”.

*

82.           Vừa nghe xong, hai thanh niên

       Bà-la-môn vốn tinh chuyên Vệ Đà

          Va-Sết-Tha, Pha-Ra-Va-Chá

          Đều hoan hỷ khôn tả, nói ngay :

          –  “ Thưa Tôn Giả ! Vi diệu thay !

       Như người dựng vật lăn quay ngã nằm

          Chỉ hướng kẻ sai lầm lạc lối

          Đem đèn sáng vào tối như bưng

              Để ai có mắt mở bừng

       Có thể thấy được sáng trưng sắc màu

          Cũng như thế, nhiệm mầu Chánh Pháp

          Được Thế Tôn giải đáp, trình bày.

       

              Chúng con quy ngưỡng từ nay

       Quy y Đại Giác, nương ngay Pháp mầu

          Quy y Tăng, thanh cao đức cả

          Nối tiếp nhau hoằng hóa Pháp môn

              Mong Thế Tôn nhận chúng con

       Được làm đệ tử, vun tròn thiện duyên

          Xin phát nguyện vẹn tuyền ngưỡng phục

          Kể từ nay đến lúc mạng chung

              Nguyện theo lời đấng Đại Hùng

       Thực hành Giáo Pháp vô cùng cao thâm ”./-

 

        Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật  ( 3 L )

 

* * *

(  Chấm dứt Kinh 13 :  TEVIJJA  –  Kinh Tam Minh  )

 

-  HẾT TẬP  I  -

         Thơ Kinh Trường Bộ   ( Tập I )                *   MLH –  503         

 

 

 

KINH SÁCH THAM KHẢO :

 

  – TRƯỜNG BỘ KINH  

                                       ( Hòa Thượng Thích Minh Châu  dịch )

 

  – ĐỨC PHẬT và PHẬT PHÁP 

          [ The BUDDHA and  HIS TEACHINGS ]    

                      ( Hòa Thượng NARADA - Phạm Kim Khánh dịch )

 

  –. LỊCH SỬ ĐỨC PHẬT TỔ CỐ-ĐÀM

                                               ( Mahà Thong Kham Medhivongs )

 

  –  THIỀN TỨ NIỆM XỨ - MINH SÁT TUỆ

     ( Hòa Thượng Thiền Sư Giới Nghiêm  – Thitasìlo Mahàthero )

 

  – MI-TIÊN VẤN ĐÁP  - MILANDAPANHÀ

     ( Hòa Thượng Giới Nghiêm – Thitasìlo Mahàthero  soạn dịch )

 

  –  PHẬT HỌC QUẦN NGHI      

             ( HT. Thích Thánh Nghiêm . Thầy T. Minh Quang dịch )

 

  – ĐẠI TỰ ĐIỂN TIẾNG VIỆT 

      ( Nguyễn Như Ý  chủ biên - NXB Văn Hóa Thông Tin  VN )

 

  – TƯ TƯỞNG XÃ HỘI trong Kinh Điển PHẬT GIÁO

     NGUYÊN THỦY   -  HT. Thích Chơn Trí ( Nguyên Siêu )

 

  – PHẬT GIÁO NAM TÔNG tại ĐÔNG NAM Á

                                              ( Giáo sư Trần Quang Thuận )       

 

  – PHẬT GIÁO CHÁNH TÍN    ( HT. Thích Trí Nghiêm )

 

  – Tìm hiểu & Học tập KINH PHÁP CÚ Tập I

                        ( Cư-sĩ  THIỆN NHỰT  phiên dịch và ghi chú )

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

                                      Phần

 

 

 

PHỤ LỤC

 

 

( Vở Kịch Thơ về đạo : “ A-Dục Vương ”

hay : “ Thân người bất tịnh ” )

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

                  Kịch Thơ : “ A-Dục Vương ”            *  MLH –  505                       

 

Kịch Thơ :

 

A DỤC VƯƠNG

(hay: Thân người bất tịnh )

 

                                                                  HTr. MAI LẠC HỒNG  soạn.

 

*

*  *

 

LỜI DẪN CHUYỆN :

 

   Sau khi đức Thích Ca Mâu Ni nhập Niết Bàn khoảng hơn 200 năm, tại Ấn Độ đã xuất hiện một vị Vua nổi tiếng, đó là Vua A Dục tức ASOKA Đại Đế. Vì ông có thân hình đen đủi, xấu xí, da sần sùi, nên ông bị vua cha hất hủi, đa số triều thần đều chê bai, chế nhạo ông. Nuôi hận nên sau đó ông đã giết anh ruột là Thái tử Susima để cướp ngôi. Sau khi lên ngôi, ông trở thành một vị vua cùng hung cực ác : Giết những đại thần và tất cả những ai trước đây đã từng chế nhạo, khinh khi ông ; đem quân chinh phục các nước và tàn sát hết những ai chống cự lại.

 

     Nhưng một buổi chiều trên chiến địa Kalinga, Vua đứng lặng nhìn bãi chiến trường ngổn ngang xác chết của quân lính hai bên, ông bỗng dâng lên niềm xúc động. Sau đó  có cơ duyên gặp vị Thánh Tăng thuyết giảng cho Vua nghe về tội phước, nghiệp báo và do túc duyên từ kiếp trước nên Vua đã hồi đầu hướng thiện, quy y Tam Bảo và trở thành một vị Nhân Vương Hộ Pháp vô cùng đắc lực của Phật Giáo.

 

     Chính từ trong bóng tối của Vô Minh, thấy được ánh sáng huyền diệu của Đạo Vàng nên Vua sau khi trở về với Chánh Pháp, hết lòng cung kính và ủng hộ Tam Bảo. Nhưng công đức cao quý và to lớn nhất của ông như nhận định chung của nhiều Sử gia, nhiều nhà nghiên cứu Đạo Phật là việc đã cho thành lập nhiều đoàn truyền giáo đến các nước lân bang, để từ đó lan rộng khắp

                  Kịch Thơ : “ A-Dục Vương ”            *  MLH –  506                       

 

năm châu bốn bể. Chính từ việc Giáo Pháp đã được truyền bá sâu rộng đến nhiều nơi, mà sau khi Phật Giáo bị bách hại do người Hồi Giáo cuồng tín đốt phá chùa chiền, tàn sát Tăng Ni vô cùng dã man, PG tại Ấn Độ hầu như sụp đổ ; thì PG tại nhiều nước đã đâm chồi bén rễ và ngày càng phát triển khắp năm châu.

 

     Đại Đế ASOKA – A-Dục còn có công lớn trong việc lưu lại cho hậu thế những công trình kiến trúc tại những di tích liên quan đến cuộc đời Đức Phật tại Bốn Thánh tích : nơi Phật Đản sinh, Thành đạo, Chuyển Pháp luân và Nhập Niết-bàn. Riêng tại Thánh địa Lumbini ( nơi Phật đản sinh ), Vua cho dựng trụ đá và khắc nhiều bia đá kỷ niệm nơi ra đời của Bậc Đại Trí Đại Bi Thích Ca Mâu Ni.  Chính bia đá ấy được các nhà khảo cổ Tây phương mệnh danh là “bản khai sinh của Đức Phật” và từ đó thế giới công nhận Đức Phật Thích Ca là nhân vật có thật và bộ Tam Tạng đồ sộ với giáo nghĩa thâm diệu là của Ngài thuyết ra.

 

   Sự sùng kính đối với Tam Bảo được thể hiện qua việc Nhà Vua   hễ gặp Chư Tăng bất cứ nơi đâu, Vua đều xuống kiệu quỳ mọp sát đất để đảnh lễ. ( Nhưng cũng do sự tôn kính Tăng-đoàn nên Vua đã ra lệnh trục xuất khỏi Tăng-đoàn hàng vạn người giả tu, mượn chùa chiền làm nơi mưu cầu danh lợi, hoặc Giới luật không nghiêm trì, hoặc không giữ gìn oai nghi tế hạnh của bậc Xuất gia, không xứng đáng đứng trong hàng ngũ bậc Chúng Trung Tôn ).

 

     Sự sùng kính đối với Tăng Bảo của Vua không phải là không gặp sự chống đối từ các Đại thần không có đức tin nơi Phật Pháp, hay từ những người ngoại đạo, mà hình ảnh Đại Thần DA-TÁT trong vở Kịch Thơ này là một tiêu biểu. Nhưng Vua đã dùng phương tiện diệu dụng để hướng dẫn họ quay đầu về nẽo Giác.    

 

                                               ( Người soạn : Giới Lạc – Mai Lạc Hồng )

_________________________________________________

 

 

CÁC VAI :

 

- Vua A-DỤC.    -  Đại thần DA-TÁT.

 

 –  Vị Sa-môn Và một số Cận thần, quân sĩ hầu cận.

 

                  Kịch Thơ : “ A-Dục Vương ”            *  MLH –  507                       

 

CẢNH  1 :

 

( Vua A-Dục, Đại thần Da-Tát và vài vị cận thần và quân sĩ hộ giá

cùng đi ra, thong thả thưởng ngoạn phong cảnh )

 

VUA :   - Này Bá Quan ! Hãy xem kia phong cảnh

                Thật hữu tình như dệt gấm thêu hoa

      Hôm nay Trẫm có dịp dạo chơi để tìm hiểu gần xa

      Đời sống của trăm họ có thuận hòa, an ổn ?

.

( Trầm ngâm , rồi tiếp )

      Nghĩ lại Trẫm trước đây… Ôi dày tội ! 

      Khắp nơi nơi gọi Trẫm là A-Dục Ác Vương

      Bởi tính hung tàn, hiếu sát –  chẳng xót thương

      Coi tính mạng người người như cỏ rác.

      Nhưng… một chiều kia, một mình ta đứng lặng

      Giữa bãi thây người của chiến-địa Ka-Ling-Ga

      Chợt từ thâm tâm, một nỗi ân hận xót xa !

      Ôi ! Thù hận đã choán mờ kim cổ !

      Chiến thắng sinh hận thù, làm sinh linh đau khổ

      Rồi được gì với mồi phú quý, bã hư danh ?

      Thế rồi nhân duyên gặp được bậc Thánh Tăng

      Đã chuyển hóa Trẫm thành Hiền Vương A-Dục.

 

      Thật mầu nhiệm, cao siêu lời Phật dạy :

   “ Chiến thắng muôn quân không bằng tự thắng mình ”

      Rồi từ đó Trẫm quy y, nương Giáo Pháp cao minh

      Mang Phật đạo ứng dụng vào nền cai tri.

 

( Ngưng một lát, rồi tiếp )

      Nhân lúc nhàn du, Vua tôi hoan lạc

      Bá quan có điều gì muốn trình tấu cùng ta ?

 

DA-TÁT :

      Tâu Thánh Thượng ! Xin Cửu Trùng lượng thứ

      Cho những điều thần hạ sắp trình tâu.

                  Kịch Thơ : “ A-Dục Vương ”            *  MLH –  508                       

 

      Quả thật là nhờ nơi Phật Pháp cao sâu

      Mà Thánh Thượng đã trở thành Minh-quân uy đức.

      Nhưng… theo thiển ý hạ thần từng thao thức

      Chờ dịp nào thuận tiện để tâu Vua.

      Nên hôm nay thần đánh bạo xin thưa :

      Mong Thánh Thượng hãy cao minh xét lại :

      Những chi phí để cúng dường… đáng ngại !

      Nào xây chùa, xây Đại bảo tháp ở bốn chỗ động tâm

     Nào cung dưỡng Chư Tăng hàng vạn vị các Tùng-lâm

      Hao tổn công nho, sợ dân tình ta thán.

      Xin Thánh Thượng. . .

 

VUA :                            . . .  Khá khen khanh thẳng thắn.

      Nhưng những việc Trẫm làm chưa hề tạo khó khăn.

      Không bao giờ Trẫm muốn muôn dân nghèo đói,

                                                                        nhọc  nhằn.

      Khiến đời sống trăm họ phải lầm than cơ cực,

      Mà trái lại, dân chúng âu ca, chung lòng hợp sức

      Xây dựng một quốc gia Đạo đức rạng ngời.

      Ánh Đạo Vàng trải rộng khắp nơi nơi

      Đem thịnh vượng, đem thanh bình an lạc.

 

(Chợt nhìn thấy một Nhà Sư chẩm rải bước ra, đang đi khất thực)

 

      Ồ ! Nhân buổi nhàn du lại gặp bậc Sa-Môn .   

      Thân tướng trang nghiêm, an lạc tâm hồn

      Hạnh nguyện độ tha ngày ngày khất thực

      Nguyện xả ly, các ngài luôn thực hành Tỉnh thức,

      Đem tình thương xoa dịu mọi đau thương.

 

( Bước tới trước vị Sa-môn, chí thành đảnh lễ )

 

  –  Bạch Đại Đức ! Đệ tử xin kính thành đảnh lễ  

      Nguyện muôn loài được ân cảm đức Từ Bi

      Không tham lam, tật đố, chẳng mê si

      Hành Chánh Đạo để thoát vòng sinh tử.

 ( Vị Sa-Môn chỉ chắp tay niệm Phật rồi đi vào )

                  Kịch Thơ : “ A-Dục Vương ”            *  MLH –  509                       

 

DA-TÁT :   

      Tâu Thánh Thượng ! Ngài quá tôn sùng Tăng-lữ

      Đã hạ mình, không kể đến thân danh.

      Bất quá Chư Tăng cũng chỉ là hạng thứ dân,

      Còn Thánh Thượng ở ngôi cao chín bệ.

      Là bậc Chuyển Luân Vương bốn phương đều vị nể

      Lẽ nào Vua lại lạy Tăng-lữ giữa đường đi  ?

 

VUA :

      Này Da-Tát ! Hiền khanh chưa tường tận

      Nên không thể hiểu về hành động của Trẫm đâu !

      Rồi đây. . . Phải, Rồi đây khanh sẽ rõ nông sâu…

      Giờ đã muộn, ta hãy hồi cung kẻo trễ.

 

( Vua tôi cùng vào )

 

CẢNH  2 :

 

( Da-Tát thất thểu bước ra, tay cầm cái đầu người, vừa đi vừa

kêu khổ )

DA-TÁT :

 

      Ôi khổ sở cho thân ta… !  Thật là quá khổ !

      Chẳng hiểu vì sao Vua lại truyền lệnh các quan

      Mỗi người phải tự mình đem bán một món hàng

      Món hàng đó là… cái đầu súc vật

      Nào đầu heo, đầu dê, đầu bò. . .  Chán thật !

      Riêng mình ta phải lảnh cái đầu người !

      Ôi ! Cái đầu người dơ nhớp tanh hôi

      Ai cũng ghê tởm, chẳng dám đến gần nửa bước.

      Ta đã rao bán khắp các chợ xa gần khắp lượt

      Nhưng chẳng ai thèm đếm xỉa đến cái đầu lâu.

      Các đầu súc vật kia đã bán hết từ lâu

      Còn cái đầu người này mỗi lúc càng thêm hôi thối.

 

      Thôi, ta cũng phải về Triều chịu tội

      Bởi đây là nghiêm lệnh của Nhà Vua.

                  Kịch Thơ : “ A-Dục Vương ”            *  MLH –  510                       

 

      Nếu bán không xong…  Không phải chuyện đùa !

      Vua sẽ chiếu nghiêm-lệnh theo Luật hình : Xử Tử !

      Ôi ! Ngao ngán cho tình đời, thế sự…

      Ôi , Vô thường ! Ta sắp phải chịu tai ương !

      Ôi ! Đau thương, khổ não, đoạn trường ! 

 

( Khổ sở bứt đầu bứt tai rồi lê bước đi vào )

 

CẢNH  3 :

 

( Cảnh Triều đinh – Vua ngồi trên ngai vàng, các quan đứng chầu. Da-Tát khép nép bước vào, tay xách cái bọc, mặt cúi gầm )

 

VUA :

      Này Da-Tát ! Khanh đã hoàn thành sứ mệnh

      Của Trẫm đã giao – hay kết quả thế nào ?

      Cớ sao khanh dáng thiểu não, xanh xao

      Còn xách cái chi chi trong bọc  ?

 

DA-TÁT : ( quỳ xuống )

      Tâu Thánh Thượng ! Thần dập đầu chịu tội

      Bởi không thi hành nổi lệnh Vua giao .

      Cái đầu người là vật đáng kinh tởm biết bao !

      Ai ai cũng xa tránh thì làm sao thần bán được…

 

VUA :

      Vậy theo khanh, cái đầu này uế trược

      Hay tất cả đầu người đều đáng gớm, đáng ghê  ?

 

DA-TÁT :  Tâu Thánh Thượng !

      Tất cả mọi người từ thành thị chí thôn quê

      Nếu lấy đầu đem bán đều đáng ghê, đáng gớm ?

 

VUA :

      Thế thì đầu của Trẫm đây cũng là… đáng tởm ?

 

DA-TÁT : ( sợ hãi, mọp sát đất )

      Tâu Thánh Thượng ! Hạ thần không có ý.

      Chỉ vô tình phạm thượng với Thiên-nhan.

                  Kịch Thơ : “ A-Dục Vương ”            *  MLH –  511                       

 

      Nhưng hạ thần đã không làm tròn việc của Vua ban

      Xin Thánh Thượng chiếu Luật hình xử trị.

 

VUA : (đứng dậy, bước đến đỡ Da-Tát lên, giọng tha thiết )

 

      Này Da-Tát hiền khanh ! Đây chỉ là dụng ý

      Trẫm muốn cho khanh hiểu rõ Luật Vô-thường.

      Cuộc đời này Vô ngã, khổ não, tai ương !

      Thân tứ đại chứa toàn đồ bất tịnh :

      Nào máu, mủ, đàm, thịt, gân, xương… kết dính

      Nào phân, ghèn, mồ hôi, nước tiểu… tanh hôi

      Sau khi chết đi, tứ đại rã tan rồi

      Còn chi nữa mà uy quyền, mà thân danh oanh liệt

      Khi còn sống đã gây ra bao ác nghiệp

      Lúc mạng chung, chẳng mang theo được danh vọng,

                                                                              tiền tài,

      Kẻ vô trí không hiểu sâu Giáp Pháp Như Lai

      Quý tấm thân giả tạm của mình, nâng niu trau chuốt

      Ngã mạn cống cao nên lý-mầu không thông suốt,

      Nâng bản ngã thấp hèn lên đến mức tối đa.

      Nếu có người nào lỡ đụng đến cái Ta

      Thì lập tức nổi tam bành, lục tặc…

 

( ngừng một chút, rồi tiếp )

 

      Trẫm đã hiểu đạo và có đức tin vững chắc   

     Nên thường đảnh lễ Chư Tăng, trừ ngã mạn cho mình

      Vả lại các vị chân tu là những bậc hiền minh,

      Từ giã gia đình, nguyện làm Như Lai Sứ-giả.

      Chỉ với bình bát, tam y ; với Tâm Từ cao cả

     “Xả phú cầu bần, xả thân cầu đạo”, hy sinh.

  

      Nay còn chút hơi thở đây, ta hãy cố làm lành,

      Đến khi chỉ còn là cái thây ma thì làm sao mà đảnh lễ

      Thân tứ đại đã không phải là của ta, trược uế !

      Cái đầu lâu này chỉ là vật đáng tởm, đáng ghê

                  Kịch Thơ : “ A-Dục Vương ”            *  MLH –  512                       

 

      Hiền khanh đã hiểu chưa ?  Nơi chốn đi về !

 

DA-TÁT :

      Tâu Thánh Thượng ! Thật vô vàn hạnh phúc

      Cho hạ thần ; được ngộ đạo hôm nay.

      Nhờ tâm Từ bi của Thánh Thượng cao dày

      Nên thần hạ được thấm nhuần nguồn đạo vị     

      Càng ngưỡng vọng sâu xa nền Giáo-lý,

      Trong hồng ân nét mầu nhiệm thiêng liêng.

 

      Từ nay, hạ thần  xin quy y nương tựa đấng Cha Hiền

      Quy y Pháp, quy y Tăng  đời đời kiếp kiếp.

      Nguyện tích cực hỗ trợ Thánh Quân những việc làm 

                                                                                kế tiếp,

      Để Ánh Đạo Vàng tỏa rạng khắp nơi nơi.

 

VUA :

      Thật lành thay ! Đạo Giải-thoát giúp đời !  

      Đã thu phục lòng người không bằng gươm đao,

                                                                            bạo lực.

      Đem lại sự an lạc cho tâm hồn, vun bồi đạo đức

      Hạnh phúc gia đình, muôn loại được vui an.

      Vậy các khanh hãy cùng Ta vọng hướng Từ Quang,

      Cầu Phật lực sáng soi bao tấm lòng hướng thiện.

 

    ( Vua tôi cùng quỳ, ngước nhìn lên khoảng không. Hậu trường đồng ca bài ca “Kết đoàn”: “A-Dục Vương ! Đây là gương. Ngàn

năm vẫn còn truyền lưu chúng ta đạo tâm vô lượng . . .”.   Màn từ

  từ kéo lại ).          

                            –  HẾT  –          ( HTr. MAI LẠC HỒNG soạn )

_____________________________________________________

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com