Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

05. Kinh KUTADANTA

17/05/202013:18(Xem: 2230)
05. Kinh KUTADANTA

TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO

TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRƯỜNG BỘ KINH
(Dìgha Nikàya)
Tập I
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli
Chuyển thể Thơ: Giới Lạc MAI LẠC HỒNG
NHÀ XUẤT BẢN PHƯƠNG ĐÔNG PL. 2555 - DL 2010


Kinh  KUTADANTA
( Cứu-La-Đàn-Đầu )
 
Như vậy, tôi nghe :
 
 1.       Một thời, đức Thế Tôn Ứng Cúng  (1)
          Du hành cùng Đại chúng tịnh, hòa  (2)
              Khoảng năm trăm vị Tăng Già
       Đến tại xứ Ma-Ga-Tha (3) đặc thù         
          Làng Bàn-Môn Kha-Nu-Ma-Tá (4)
          Trú tại Am-Ba-Lát-Thi-Ka  (5)
              Khu vườn nhiều cây lắm hoa.
 
       Lúc bấy giờ có Ku-Tà-Đanh-Ta (6)
          Tại Khu-Nú-Ma-Ta thái ấp
          Là cư địa thế tập của ông
              Dân cư sinh sống thật đông
       Cây cao bóng mát, mênh mông ao hồ
          Rất phì nhiêu , bồ bồ lúa gạo
          Là vương địa tứ hảo hoàng gia
              Đức vua Bim-Bí-Sa-Ra  (3)
       Cũng còn tên gọi Tần-Bà-Sa-La
          Bình Sa Vương cũng là vua ấy
          Cai trị Ma-Ga-Thá xứ này
              Vua đã ân tứ nơi đây
    _______________________________
   (1): Hai trong 10 danh hiệu của Phật : Araham (Ứng Cúng) và  
          Bhagavà (Thế Tôn).        
   (2) :Bản tánh Tăng Già ( Sangha ) là thanh tịnh và hòa hợp .
   (3) :Xứ Magadha ( Ma-Kiệt-Đà ) của Vua Seniya Bimbisàra 
          tức Tần-Bà-Sa-La  hay Tần-Bà-Sa  hay Bình-Sa-Vương.
   (4) : Làng Bà-la-môn có tên Khànumata (Khứ-nậu-bà-đế ).
   (5) : Vườn Ambalatthika ở Khànumata .
    (6) : Vị Bà-la-môn Kùtadanda ( Cứu-La-Đàn-Đầu ).
Trường Bộ (Tập 1) Kinh 05 :  KUTADANTA   *   MLH  -  216
 
       Cho Bà-la-môn nọ đủ đầy đặc ân
          Sống phong lưu, hưởng phần nhàn nhã
          Dành cho ông Ku-Tá-Đanh-Ta
              Cưu-La-Đàn-Đầu cũng là
       Một tên gọi khác của nhà Bàn-môn.
     
          Lúc bấy giờ, tại thôn chỉnh đốn
          Một Đàn Tế thật lớn lập ra
              Của ông Ku-Tá-Đanh-Ta,
       Các loại thú vật cũng đà tập trung
          Các trụ tế được dùng cột thúc
          Bảy trăm con trâu đực to sầm
              Bảy trăm nghé đực cùng năm
       Bảy trăm nghé cái, bảy trăm con cừu
          Bảy trăm dê ; để mưu cầu được
          Mọi như ý, thọ phước phát sinh
              Khang thái cho cả gia đình,
       Những người ngoại đạo vẫn tin sâu bền.
  
 2.       Các Gia chủ, Bàn-môn tất cả
          Tại Kha-Nu-Ma-Tá, một hôm
              Các vị nghe được tiếng đồn :
       Gần đây có vị Sa-Môn hiệu là   
          Gô-Ta-Ma Thích Ca Tôn Giả
          Đang ở đây với cả Tăng Đoàn
              Khoảng năm trăm vị nghiêm trang
       Kha-Nu-Ma-Tá trú an tịnh hòa
          Những tiếng đồn lan xa từ đó :
          Sát-Đế-Lỵ  giòng họ Thích Ca
              Xuất thân vương tộc, xuất gia
       Thành đạt đạo quả cao xa nhiệm mầu
          Mười tôn hiệu cao sâu diệu ngữ :      
Trường Bộ (Tập 1) Kinh 05 :  KUTADANTA   *   MLH  -  217
 
         Thế Gian Giải, Điều Ngự Trượng Phu,
              Phật, Thế Tôn, Thiên Nhân Sư,
       Chánh Đẳng Chánh Giác , đại từ uy linh
          Vô Thượng Sĩ hay Minh Hạnh Túc,
          Bậc Thiện Thệ, Ứng Cúng, Như Lai,
              Do sự chứng ngộ tự Ngài
       So với Thiên giới, Ma loài, Phạm Thiên,
          Với các chúng chư Thiên, Nhân loại
          Bà-la-môn với lại Sa-môn
              Hiển thị mọi loài, tuyên ngôn
       Rồi lại tuyên thuyết Pháp môn nhiệm mầu
          Thuyết Sơ Thiện, rồi sau Trung Thiện
          Thuyết Hậu Thiện, văn nghĩa đủ đầy
              Trình bày Phạm hạnh từ đây
       Pháp thân thanh tịnh, bậc Thầy Nhân Thiên
          Thật đáng quý nếu tìm yết kiến
          Đại La-Hán thị hiện cõi đời.
 
              Rồi thì gia chủ các nơi
       Bàn-môn các vị đồng thời hợp nhau
          Họ lũ lượt đi mau đến cả
          Am-Ba-Lát-Thi-Ká, nơi này
              Mong được yết kiến tại đây
       Thích Ca Tôn Giả trí tài tuyệt luân.
              
 3.       Lúc bấy giờ, tâm thuần nhàn nhã
          Bà-la-môn  Ku-Tá-Đanh-Ta
              Cưu-La-Đàn-Đầu cũng là
       Buổi trưa đi nghỉ tại nhà lầu cao
          Bỗng ông thấy biết bao Gia chủ
          Bà-la-môn, đoàn lũ đi qua
              Thấy vậy ông hỏi Quản gia
Trường Bộ (Tập 1) Kinh 05 :  KUTADANTA   *   MLH  -  218
 
 – “ Vì sao có việc xảy ra thế này ? ”.
    – “ Thưa chủ nhân, gần đây có vị
          Đại Sa-Môn tôn quý, từ hòa
              Tên Sắc-Gia  Gô-Ta-Ma  (1)
       Du hành nước Ma-Ga-Tha dặm tràng
          Năm trăm vị là hàng đệ tử
          Am-Ba-Lát-Thi-Ka trú đây
              Thích Ca Tôn Giả là ngài
       Giòng Sát-Đế-Lỵ (2) nơi này xuất thân
          Bỏ vương vị, không cần phú quý 
          Biệt gia đình, quyết chí xuất gia
              Khổ tu thiền định rừng già
       Thành đạt đạo quả cao xa nhiệm mầu
          Mười tôn hiệu cao sâu thượng đẳng
          Mà người đời dâng tặng cho ngài.
 
              Nghe danh, nên các vị này
       Tìm đến yết kiến một ngài Thế Tôn.
 
 4.       Nghe như vậy Bàn-môn suy nghĩ :
      ‘‘ Ta nghe nói có vị am tường
              Ba cách Tế Tự các phương
       Mười sáu Tế Pháp phi thường cao xa
          Chính đức Gô-Ta-Ma vị ấy
          Đã am hiểu như vậy tận tường
              Ta đây không biết đại cương
       Mười sáu Tế pháp, ba phương Tế đàn
          Nay ta muốn cử hành Đại Tế
          Vậy ta phải đến để hỏi Ngài
    _______________________________
   (1 & (2)): Sakya (Thích Ca) là giòng và Gotama (Kiều Đàm) là 
    họ của đức Phật . Sát- Đế-Lỵ là giai cấp thứ hai trong 4 giai cấp 
    của Bà-la-môn , là hàng vua chúa quan quyền, tướng lĩnh .
Trường Bộ (Tập 1) Kinh 05 :  KUTADANTA   *   MLH  -  210
 
              Ba cách thức tế tự này
       Mười sáu tế pháp đủ đầy Bàn-môn ’’.
 
    –  “ Này Quản gia !  Truyền ngôn đến cả
          Bà-la-môn, tùng giả, chủ gia,
              Hãy nói  Ku-Tá-Đanh-Ta
       Yêu cầu các vị chờ qua một thời
          Ông ta sẽ đến nơi hội diện
          Thân hành cùng đến viếng Sa-Môn.
              Vâng lời vị Bà-la-môn
       Quản gia đến gặp Bàn-môn các vì
          Những lời chủ giao đi, nói lại
          Mong các vị nán lại chờ ông.
*
           * Lúc ấy, các Bà-la-môn
       Khoảng vài trăm vị gần thôn đó là
          Thuộc Kha-Nú-Ma-Ta, dự tính
          Với ý định dự lễ Tế Đàn
              Sẽ được tổ chức rình rang
       Ku-Ta-Đanh-Tá sẵn sàng lễ nghi.
       
          Bà-la-môn, các vì Gia chủ
          Nghe nói vị Đại chủ danh gia
              Bàn-môn Ku-Tá-Đanh-Ta
       Sẽ yết kiến Gô-Ta-Ma Phật Đà.
          Các Bàn-môn nghe qua tin lạ
          Năm trăm vị vội vã đến nhà
              Bàn-môn Ku-Tá-Đanh-Ta
       Hỏi rằng có phải ông ta định là
          Đến yết kiến Thích Ca Tôn Giả
          Cùng những người vốn đã định đi.
 
         – “ Này các Hiền giả ! Đúng thì
Trường Bộ (Tập 1) Kinh 05 :  KUTADANTA   *   MLH  -  220
 
       Ta đến yết kiến một vì Đại nhân ”.
 
    – “ Thưa Tôn ông ! Không cần phải thế
          Vì Tôn ông không thể hạ mình
              Điều đó đánh mất thanh danh
       Nếu Tôn ông sẽ thân hành đến nơi
          Để yết kiến một người Sát-Lỵ
          Làm hao tổn danh dự Tôn ông
              Càng làm danh tiếng Sa-môn
       Tăng trưởng gấp bội, tiếng đồn càng thêm.
          Thật xứng đáng là nên đổi lại
          Sa-môn này chính phải thân hành
              Yết kiến Bàn-môn nổi danh
       Ku-Ta-Đanh-Tá  mới đành công tâm.
                            
 5.       Lại Tôn ông  thiện sanh mẫu hệ
          Cả phụ hệ huyết thống tịnh thanh
              Bảy đời Tổ phụ tạo thành
       Không bị chỉ trích thọ sanh di truyền
       * Lại Tôn ông bạc tiền giàu có   
          Và hiểu rõ phúng tụng, lễ nghi
              Thánh điển Vệ Đà tường tri
       Tinh thông tự vựng, ngữ y, ngữ từ,
          Giỏi chú giải, sử thư truyền thống
          Trì chú thuật, nếp sống Bàn-môn
              Thuận Thế Luận, giỏi biện môn
       Đại Nhân tướng học đáng tôn kỳ tài.  
       * Lại Tôn ông  đẹp trai, khả ái
          Đẹp lòng người, mặt lại khôi ngô
              Màu da thù thắng điểm tô
       Xử sự cao thượng, dáng phô oai hùng
       * Lời thiện ngôn được dùng tao nhã 
Trường Bộ (Tập 1) Kinh 05 :  KUTADANTA   *   MLH  -  221
 
          Giọng trong ấm, diễn tả âm vang
              Giải thích nghĩa lý rõ ràng
       Là Tôn Sư của các hàng Tôn Sư.    
      *  Các thanh niên đến từ nhiều nước
          Lòng tha thiết muốn được dạy rành
              Tụng đọc chú thuật cho thành
       Mong học cho được tinh anh ngọn ngành.
      *  Tôn ông thì trưởng thành, rành rẽ
          Gô-Ta-Ma  tuổi trẻ, non tâm
              Xuất gia chưa được bao năm
       Làm sao có thể xứng tầm Tôn ông :
*
          Được kính lễ, tôn sùng, trọng thị
          Sê-Ni-Da Bim-Bí-Sa-Ra  (1)
              Vua của nước Ma-Kiệt-Đà  (1)
       Lợi tức chu cấp toàn gia đủ đầy.
 
      *  Lại còn được vị này trọng thị : 
          Pốc-Kha-Rá-Sa-Đí (2)  Bàn-môn  (3)
          *  Kha-Nu-Ma-Ta – Tôn ông
       Phì nhiêu lúa gạo, dân đông, thuận hòa
          Là Thái-ấp hoàng gia ân tứ
          Sống phong lưu, mọi thứ thật nhiều
              Do vậy, xứng đáng thuận chiều
       Sa-Môn Thích Tử biết điều đến thăm.
 
 6.      Nghe ý nguyện năm trăm Phạm-chí  (3)
          Bà-la-môn Ku-Tá-Đanh-Ta
              Bảo : “ Các Hiền Giả ! Nghe ta
    _______________________________
    (1) : Vua Seniya Bimbisara (Tần-Bà-Sa-La) trị vì nước
           Magadha ( Ma-Kiệt-Đà ). Cha vua A-Xà-Thế .
    (2) : Bà-la-môn Pokkharasàdi (Kinh Ambattha).
    (3) : Bàn-môn hay Phạm Chí  tức là Bà-la-môn .
Trường Bộ (Tập 1) Kinh 05 :  KUTADANTA   *   MLH  -  222
 
       Tận tường giải thích sao mà phải đi             
          Đến yết kiến một vì Đại Đức
          Về xuất thân quả thực khó chê
              Giòng Sát-Đế-Lỵ thuộc về
       Thích Ca vương tộc mọi bề chính danh
          Gô-Ta-Ma thiện sanh mẫu hệ
          Cả phụ hệ huyết thống tịnh thanh
              Bảy đời Tổ Phụ tạo thành
       Không bị chỉ trích thọ sanh di truyền.
 
          Chính điểm này là duyên chí thiện
          Để chúng ta yết kiến Sa-Môn
              Gô-Ta-Ma điểm đáng tôn :
   *  Xuất gia từ bỏ gia môn, vương quyền
          Xa quyến thuộc, vợ hiền, con đẹp
      *  Bỏ phú quý, quyết dẹp giàu sang
              Từ bỏ chìm nổi bạc vàng
   *  Xuất gia trong lúc tuổi đang xuân nồng.
          Tóc đen nhánh, quyết lòng cắt đứt
      *  Tình cảm riêng cũng dứt, không màng
              Dù cho cha, vợ khóc than
       Ngài vẫn cương quyết chọn đàng từ thân
          Trốn khỏi thành dấn thân cát bụi
          Khoác ca-sa, lầm lũi rừng già.
 
          –  Này các Hiền Giả ! Xét qua
       Bản thân Tôn Giả thật là đẹp trai
          Thật khả ái, hòa hài trong sáng
          Với màu da thù thắng ưa nhìn
              Khôi ngô tuấn tú, thông minh
       Dáng điệu cao thượng, giữ gìn oai nghi
          Về Giới hạnh thanh quy bậc Thánh
Trường Bộ (Tập 1) Kinh 05 :  KUTADANTA   *   MLH  -  223
 
          Có thiện đức, chân chánh uy nghiêm.
          –  Này các Hiền Giả ! Cần tìm
       Hiểu rõ Tôn Giả một niềm rộng dung
       * Lời thiện ngôn được dùng tao nhã
          Giọng trong ấm, diễn tả âm vang
              Giải thích nghĩa lý rõ ràng
       Là Tôn Sư của các hàng Tôn Sư.
       * Lại Sa-Môn diệt trừ tham dục
          Mọi xao động thằng thúc trong tâm  
           * Chủ trương về Nghiệp, suy tầm
       Do thân, khẩu, ý mê lầm gây ra
       * Khi thuyết pháp phải là chí thiện
          Đặt trọng tâm khuyến chuyển lìa mê.          
                      
           –  Các Hiền Giả ! Lại nói về
    * Ngài từ chủng tộc mọi bề cao sang
          Sát-Đế-Lỵ giai tầng phú quý
       * Có tài sản giá trị muôn chung
           * Là bậc Đại Đức, Đại Hùng
       Rất nhiều người đã băng rừng vượt sông
          Vượt chướng ngại, qua giòng thác đổ
          Vượt qua nhiều quốc độ khác nhau
              Tìm đến nghe giảng pháp mầu
       Quy y Tam Bảo, hiểu sâu chánh tà.
       * Hàng chư Thiên hằng hà cũng đến
          Nghe pháp rồi cảm mến quy y.
 
           –  Các vị ! Tiếng đồn lan đi
       Thích Ca Tôn Giả từ bi làm đầu
          Mười tôn hiệu cao sâu diệu ngữ :
          Thế Gian Giải, Điều Ngự Trượng Phu,
              Phật, Thế Tôn, Thiên Nhân Sư,
Trường Bộ (Tập 1) Kinh 05 :  KUTADANTA   *   MLH  -  224
 
       Chánh Đẳng Chánh Giác đại từ uy linh
          Vô Thượng Sĩ hay Minh Hạnh Túc,
          Bậc Thiện Thệ, Ứng Cúng, Như Lai,
              Ngài có đử ba mươi hai
       Đại nhân Quý tướng không ai sánh bằng.
 
      *  Đại Sa-Môn công bằng, thẳng thắn
          Lời thân thiện, nhã nhặn, chân tình
              Bốn chúng kính trọng sẵn dành
       Tôn sùng, ngưỡng mộ chí thành Sa-Môn.
      –  Các Hiền Giả ! Kính tôn đức cả
          Những nơi nào Tôn Giả trú thời
              Thôn làng, thành thị các nơi
       Phi nhân không hại loài người, tránh xa.
 
          Thật vậy, Gô-Ta-Ma Tôn Giả
          Là Hội Chủ cao cả, Tôn Sư
              Trong các Giáo Tổ Đạo Sư
       Được tôn Tối Thượng Đạo Sư trên đời.
 
          Các Sa-môn hoặc nơi Phạm-chí  (1)
          Danh tiếng họ dựa, chỉ không đâu
              Danh tiếng Sa-Môn dựa vào
       Tối Thượng Trí - Đức, thanh cao tịnh hòa.
 
       * Vương quốc Ma-Ga-Tha  cai trị
          Sê-Ni-Da Bim-Bí-Sa-Ra 
              Quốc vương ngưỡng mộ thiết tha
       Quy y Tam Bảo cùng là cung phi
          Các vương tử, thị tỳ, tùng giả,
          Cùng quyến thuộc tất cả quy y.
           *  Đức vua  Pa-Sê-Na-Đi
    _______________________________
   (1) : Bàn-Môn hay Phạm Chí  tức là Bà-La-Môn .
Trường Bộ (Tập 1) Kinh 05 :  KUTADANTA   *   MLH  -  225
 
       Tức Ba-Tư-Nặc (1), trị vì quốc gia
          Kô-Sa-La, đã cùng thân quyến
          Các vương tử, lục viện cung phi
              Chí thành kính ngưỡng quy y
       Thích Ca Tôn Giả đương vi Phật Đà.
 
       * Bàn-môn (2) Pốc-Kha-Ra-Sa-Đí
          Cùng vợ con cho chí bạn bè
              Tìm về một chỗ chở che
       Bóng mát nương tựa, trở về tự tâm
          Các vị ấy thân lâm Tinh Xá
          Đảnh lễ Phật với cả tấm lòng
              Trọng vọng, ngưỡng mộ, kính tôn
       Cúng dường trọng hậu Sa-Môn, Tăng Già.
 
          Các Sa-môn ghé qua bản địa
          Bà-la-môn tình nghĩa đến nhà
              Đều là khách quý của ta
       Tiếp đãi trọng hậu mới là thiện nhân.
 
          Nay Sa-Môn đích thân du hóa
          Đến địa phương với cả Tăng Đoàn
              Trú Am-Ba-Lát-Thi-Ka 
       Đó là khách quý muôn vàn của ta
          Do điểm này, thật là xứng đáng
          Nếu chúng ta, bè bạn đến nơi
              Yết kiến Tôn Giả hơn đời
       Rất nhiều ưu điểm nhất thời bị quên.
 
  7.      Nghe nói vậy, hai bên đại chúng
          Bà-la-môn, thấy đúng như là
    _______________________________
(1) : Vua Pasenadi ( Ba-Tư-Nặc ) trị vì nước Kosala (Kiều-Tất-La).
(2) :Vị Bà-la-môn Pokkharasàdi  (xem Kinh Ambattha ).
Trường Bộ (Tập 1) Kinh 05 :  KUTADANTA   *   MLH  -  226
 
              Bàn-môn  Ku-Tá-Đanh-Ta
       Trình bày rõ rệt sâu xa tận tường.
          Đồng lên tiếng : “ Mọi đường phải trái
          Được Tôn ông giảng  giải ngọn ngành
              Tán thán Sa-Môn Kiều-Đàm    
       Dẫu ai ở tận cách trăm do tuần
          Được nghe vậy, mang nguồn lương thực
          Vượt đường xa, một mực hướng lòng
              Để mong yết kiến Sa-Môn
       Chúng ta cũng thế, phải cùng thăm qua.
 
          Bà-la-môn Ku-Ta-Đanh-Tá
          Cùng Đại chúng tất cả thuận hòa
              Hợp nhau đi đến vườn hoa
       Để mong yết kiến Thích Ca Phật Đà,
          Am-Ba-Lát-Thi-Ka  vườn ấy
          Phật, chúng Tăng tại đấy tạm cư.
 
              Khi gặp được đấng Đại Từ
       Ku-Ta- Đanh-Tá  cùng chư tùy tùng,
          Các Bàn-môn đã cùng đi đến
          Nói những lời thân mến xã giao    
              Thân thiện chúc tụng, đón chào
       Rồi các vị ấy ngồi vào một bên
          Bà-la-môn, tuổi tên Gia chủ
          Có người thì khể thủ Sa-Môn
              Có người chúc tụng nói dồn
       Có người chỉ vái Sa-Môn rồi ngồi
          Cũng có kẻ nói trôi tên họ
          Cũng có kẻ chỉ ngó, lặng yên.
 
 9.           Sau khi ngồi xuống một bên       
       Ku-Ta-Đanh-Tá, ông liền hỏi ngay :
Trường Bộ (Tập 1) Kinh 05 :  KUTADANTA   *   MLH  -  227
 
   – ‘‘ Thưa Tôn Giả ! Điều này muốn biết
          Nghe Tôn-giả thấu triệt, tường tri :
              Ba cách Tế Tự lễ nghi
       Mười sáu Tế Vật phạm vi Tế Đàn
          Nay tôi muốn cử hành Đại Tế
          Mong Tôn-giả cụ thể chỉ bày
              Thật lành thay, nếu điều đây
       Sẽ được Tôn-giả giảng ngay tận tường ’’.
 
   – ‘‘ Này Bàn-môn ! Hãy thường suy nghĩ
          Ta sẽ nói tỉ mỉ điều này ’’.
 
         – ‘‘ Thưa Tôn-giả ! Xin nghe Ngài
       Như hạn khao khát từng ngày trông mưa ’’.
 
10. –‘‘Này Bàn-môn ! Thuở xưa nước đó
          Có vị vua giàu có vô cùng
              Tài sản sung mãn muôn chung
       Rất nhiều vàng bạc, đồ dùng kim ngân
          Ngũ cốc nhiều, kho tàng chật ních
          Vua tên Ma-Ha-Vích-Chi-Ta  (1)
              Một hôm ý tưởng nẩy ra
       Vua nghĩ : ‘Ta được tối đa nhu cầu
          Đã chinh phục địa cầu, thống lãnh
          Tài sản nhiều, sống cảnh vui an
              Vậy hãy lập Đại Tế Đàn
       Như vậy ta được phúc an trọn đời’.
          Vua cho mời Bàn-môn Chủ Tế
          Xin cố vấn nghi lễ lợi chung
11.           Chủ tế nghe vua nói xong
       Tâu rằng :‘‘Tâu lịnh Cửu Trùng, xin nghe :
    _______________________________
     (1) : Vua Mahàvijjita .
Trường Bộ (Tập 1) Kinh 05 :  KUTADANTA   *   MLH  -  228
 
          Vương quốc này nặng đè  ách nạn
          Nhiều bọn cướp, phát tán tai ương
              Cướp làng, cướp chợ, cướp đường
       Đầy dẫy khắp chốn phố phường, thôn quê.
 
          Nếu Đại Vương đánh về thuế má
          Là gánh nặng cho cả toàn dân
              Bọn cướp càng thêm hoành hành
       Dù cho Vương Thượng phải đành quyết tâm
          Trừ diệt cướp : Hoặc bằng cấm cố
          Hoặc tử hình, định chỗ lưu đày
              Nhẹ thì phạt vạ, đòn tay
       Hoặc bị khiển trách, xử ngay tại tiền.
 
          Nhưng đáng tiếc ! Oan khiên chẳng dứt
          Mầm mống giặc đích thực vẫn còn
              Có khi nổi dậy nhiều hơn
       Sau khi bị phạt, oán hờn càng tăng.
*
          Nhưng có cách cản ngăn hay nhất
          Có thể diệt bọn giặc hoàn toàn
              Đó là dùng Đức  trị an :
    * Người dân nào đó giỏi giang cấy trồng
          Giỏi ruộng đồng, chăn nuôi mục súc
          Thì Đại Vương tiếp tục cấp cho
              Hạt giống, thú giống trâu bò
       Để họ phát triển, khỏi lo đói nghèo.
       * Những người nào quyết theo thương nghiệp
          Hãy cấp vốn họ tiếp đầu tư.
           * Những người quan chức, lại thư
       Hãy cấp lương bổng, từ từ ấm no.
 
          Mọi người dân không lo đói lạnh
Trường Bộ (Tập 1) Kinh 05 :  KUTADANTA   *   MLH  -  229
 
          Nỗ lực làm một cách hăng say
              Đem lại lợi tức thấy ngay
       Sẽ không còn nạn cướp ngày cướp đêm
          Ngân khố vua càng thêm sung tiếp
          Dân an cư lạc nghiệp hòa hài
              Thái bình thịnh trị trong ngoài
       Cửa chẳng cần đóng, gia tài vẫn nguyên.
*
          Vua nghe theo lời khuyên Chủ Tế
          Làm triệt để chính sách an dân
              Thật đúng, kết quả vô ngần
       Đất nước hưng thịnh, nhân dân mạnh giàu.
 
12. – “ Này Bàn-môn Ku-Ta-Đanh-Tá !
          Sau khi đã phát triển quốc gia
              Vua Ma-Ha-Vích-Chi-Ta
       Lại mời Chủ Tế hỏi qua sự tình :
 
      – ‘Nhờ hiền khanh cao minh hướng dẫn
          Trẫm thi hành nghiêm cẩn mọi điều
              Nay đã kết quả thuận chiều
       Đất nước giàu mạnh, dân đều ấm no
          Đại Tế Đàn muốn lo tổ chức
          Mong hiền khanh tình thực khuyên ta
              Phải nên thực hiện sao mà
       Để được hạnh phúc vinh hoa trọn đời’.
 
     –  ‘Đại Vương hãy cho mời tất cả
          Sát-Đế-Lỵ cùng cả chư hầu
              Trong ngoài quốc độ đâu đâu
       Cũng đều mời đến điện lầu hoàng gia
          Trước các vị, hỏi qua ý kiến
          Việc Đại Vương thực hiện Tế Đàn
Trường Bộ (Tập 1) Kinh 05 :  KUTADANTA   *   MLH  -  230
 
              Đối với các vị Đại thần
       Hay các phú hộ, thân nhân trong ngoài
          Cũng mời đến trình bày Đàn Tế
          Hỏi ý kiến cụ thể mọi người.
 
              Đức vua hoan hỷ nghe lời
       Thỉnh mời tất cả đến nơi hội bàn.
    – “ Này chư khanh ! Trẫm đang thực hiện
          Đại Tế Đàn  xúc tiến trang nghiêm
              Mong chư khanh hãy một niềm
       Tán thành, để trẫm ân triêm phúc lành ”.
 
    – “ Tâu Đại vương ! Chúng thần đồng ý
          Đại Tế Đàn rất quý, hợp thời ”.
 
              Như vậy bốn chúng các nơi
       Tế Đàn thừa nhận đúng thời làm ngay.
          Những điều kiện chừng này thiết yếu
          Đại Tế Đàn tiêu biểu thông qua :
 
13.           Vua Ma-Ha-Vích-Chi-Ta       
       Có tám đức tánh thật là tinh anh :
 
       * Đức vua này thiện sanh mẫu hệ
          Cả phụ hệ huyết thống tịnh thanh
              Bảy đời Tổ phụ tạo thành
       Không bị chỉ trích thọ sanh di truyền.
 
       * Lại Đức vua bạc tiền giàu có
          Đầy kho tàng châu báu bạc vàng
              Ngũ cốc sung mãn ngổn ngang
       Sản nghiệp to tát, cơ man gia tài.
 
       * Lại Đức vua  đẹp trai, khả ái
          Đẹp lòng người, mặt lại khôi ngô
Trường Bộ (Tập 1) Kinh 05 :  KUTADANTA   *   MLH  -  231
 
              Màu da thù thắng điểm tô
       Xử sự cao thượng, dáng phô oai hùng.
 
       * Có uy lực, quân trung sung túc
          Bốn binh chủng chinh phục địch quân.
 
            * Lại là người có Từ tâm
       Đào giếng thí nước, thức ăn cúng dường :
          Bà-la-môn, đi đường khất sĩ
          Các Sa-môn, cho chí người nghèo.
 
            * Uyên thâm, bác học mọi điều
       Thông hiểu ý nghĩa của nhiều lời văn :
          Lời nói này công năng như vậy
          Lời nói ấy  ý nghĩa thế này
              Suy tư quá khứ, vị lai
       Sáng suốt, tinh luyện đủ đầy y theo.
          Tám đặc tánh Vua đều có thực
          Là yếu tố tổ chức Tế Đàn.
 
14.           Bàn-môn Chủ Tế hoàn toàn
       Đủ bốn đức tánh nghiêm trang thực hành :
 
       * Vị chủ tế thiện sanh mẫu hệ
          Cả phụ hệ huyết thống tịnh thanh
              Bảy đời Tổ phụ tạo thành
       Không bị chỉ trích thọ sanh di truyền.
 
       * Vị chủ tế tinh chuyên thật đúng
          Và hiểu rõ phúng tụng, lễ nghi
              Thánh điển Vệ Đà tường tri
       Tinh thông tự vựng, ngữ y, ngữ từ,
          Giỏi chú giải, sử thư truyền thống
          Trì chú thuật, nếp sống Bàn-môn
              Thuận Thế Luận, giỏi biện môn
Trường Bộ (Tập 1) Kinh 05 :  KUTADANTA   *   MLH  -  232
 
       Đại Nhân tướng học đáng tôn kỳ tài.
       * Vị ấy có trong ngoài đức hạnh
          Thật cao dày Giới hạnh thanh cao
              Vị ấy học rộng tài cao
       Đệ nhất cầm muổng hay vào thứ hai  (1).
          Bốn đặc tánh vị này có thực
          Là yếu tố tổ chức Tế Đàn.
*
15.       –  Bàn-môn Ku-Tá-Đanh-Ta !
       Trước khi Đàn Tế, thông qua thuận hòa
          Ma-Ha-Vích-Chi-Ta vua ấy
          Được Chủ Tế giảng giải rõ ràng
              Có ba pháp khiến nghiêm trang
       Thành tựu tốt đẹp Tế Đàn uy nghi :    
      – ‘Này Đại Vương ! Trước khi thực hiện
          Đừng hối tiếc tài sản tiêu hao
              Trong khi Tế Đàn đang vào
       Cũng đừng hối tiếc tiêu hao bạc vàng
          Sau Tế Đàn hân hoan mỹ mãn
          Không hối tiếc tài sản tiêu hao
              Đó là ba pháp làm đầu
       Trước khi thực hiện thanh cao Tế Đàn.
 
16.      Còn Mười cách cản ngăn hối tiếc
          Sẽ khởi lên trong việc tham gia
              Của những người dự trải qua
       Trong khi Đàn Tế diễn ra tốt lành
      –  Có những người sát sinh tham dự,
      –  Cũng có kẻ kiêng cử sát sinh,
              Với kẻ hay giết sinh linh
    _______________________________
   (1): Vị Bà-la-môn chủ tế hay phó tế  cầm muổng đổ bơ vào lửa 
           trong Tế Đàn.
Trường Bộ (Tập 1) Kinh 05 :  KUTADANTA   *   MLH  -  233
 
       Để yên cho chúng tự mình nghĩ suy,
          Còn với người nghiêm trì sát giới
          Khiến tâm họ thơ thới vui an.
 
           –  Có kẻ trộm cắp hoang đàng,
   –  Có người không có gian tham của người,
          Đều là người dự trong Đàn Tế
          Thì để yên những kẻ gian tham
              Còn kẻ không có lòng tham
       Thì Đại Vương khiến họ càng tín tâm.        
     –  Cũng có kẻ tà dâm, nói láo
     –  Nói hai lưỡi, vô đạo, độc mồm
          –  Nói lời phù phiếm bao đồng
    –  Có kẻ Tham dục hoặc lòng Sân si
      –  Cũng có kẻ chấp trì Tà kiến
          Tất cả họ, ta miễn luận bàn.
 
              Còn những người sống đàng hoàng
       Giữ giới trong sạch, cũng đang dự Đàn
          Hoặc có người nghiêm trang chánh kiến
          Dự Tế Đàn thực hiện vẻ vang
              Thì Ngài tổ chức Tế Đàn
       Với cách làm họ vui an trong lòng.
*
          Đó Mười cách đề phòng ngăn chận
          Sự hối tiếc, ân hận khởi ngang
              Với những người dự Tế Đàn
       Khiến nội tâm họ hân hoan, an hòa.
 
17.  –  Này Bàn-môn Ku-Ta-Đanh-Tá !
          Chủ Tế đã khuyến giáo Vua mình
              Khiến vua hoan hỷ phát sinh
       Mười sáu phương pháp tận tình chỉ ra
Trường Bộ (Tập 1) Kinh 05 :  KUTADANTA   *   MLH  -  234
 
    – “ Tâu Đại Vương ! Khi qua thực hiện
          Đại Tế Đàn xúc tiến hanh thông
              Nhưng có người chẳng hài lòng
       Trách Ngài sơ xuất đã không thỉnh mời
          Sát-Đế-Lỵ các nơi thân tộc
          Các Đại thần quyến thuộc, phú hào
              Trong thành, ngoài tỉnh thấp cao
       Nhưng các lời ấy có nào đúng đâu.
          Đại Vương đã thỉnh cầu ý kiến
          Bốn đại chúng biểu hiện đồng tình
              Do vậy, Tế Đàn quá trình
       Nội tâm hoan hỷ quang minh mọi người.
 
          Nếu Tế Đàn đúng thời đang mở
          Lại có người bảo chớ tham gia
              Vua Ma-Ha-Vích-Chi-Ta
       Về phụ mẫu hệ thiện sanh không lành
          Không tịnh thanh bảy đời tổ phụ
          Bị dèm pha huyết thống di truyền
              Không khả ái, lại vô duyên
       Màu da xấu xí đen tuyền, xấu trai
          Phiền lòng người, không tài không chí
          Không trang nhã, cử chỉ phàm phu
              Không có tài sản kếch sù
       Không có uy lực tảo trừ địch quân
          Không hề có Từ tâm thương tưởng
          Không bố thí ; cung dưỡng cản ngăn
              Không phải bác học đa văn
       Không thông hiểu nghĩa công năng mọi lời
          Không tinh luyện, không thời sáng suốt
          Lại tổ chức một Đại Tế Đàn !
Trường Bộ (Tập 1) Kinh 05 :  KUTADANTA   *   MLH  -  235
 
              Những lời đó chẳng chánh chân
       Không đúng sự thật về phần Đại Vương
          Vậy Ngài hãy đường đường tổ chức
          Tế Đàn khiến tâm thực vui an.
 
              Có kẻ vô lại ngang tàng
       Chê vị Chủ Tế hoàn toàn thiếu đi
          Bốn đức tánh chủ trì Đàn Tế
          Để thành tựu nghi lễ nghiêm trang
              Những lời đó chẳng chánh chân
       Không đúng sự thật nhân thân vị này.
                                                                  
          Vậy Đại Vương thẳng ngay tổ chức
          Đại Tế Đàn này thực vẻ vang
              Tất cả ai dự Tế Đàn
       Khiến nội tâm họ hân hoan, an hòa ”.
 
      –  Này Bàn-môn Ku-Ta-Đanh-Tá !
          Chủ Tế đã khuyến giáo vua mình
              Khiến vua hoan hỷ phát sinh
       Mười sáu phương pháp tận tình chỉ ra.
*
18.      Đại Tế Đàn diễn ra thanh khiết
       * Không bị giết một sinh vật nào
              Dê, cừu, heo, nghé, bò, trâu,
       Bảo tồn mạng sống nhờ vào lòng nhân
       * Đến cây cỏ, không cần lệ cũ
          Không chặt cây làm trụ cột rang.
           * Loài thú hiến tế tại Đàn
       Phải cần đến số một ngàn năm trăm
       * Cỏ cát tường  ‘đáp-pha’ (1) không cắt
          Để trải trên mặt đất quanh Đàn
    _______________________________
    (1) : Cỏ dabbha , còn gọi là cỏ cát tường .
Trường Bộ (Tập 1) Kinh 05 :  KUTADANTA   *   MLH  -  236
 
           *  Nô bộc, công nhân vui an
       Không bị dọa nạt, khóc than, bị đòn,
          Các binh lính không còn áp chế
          Họ muốn làm thì để tự do
              Tế Đàn chỉ với thục tô
       Với dầu, đường miếng, sanh tô, mật đường.
 
 19.  – Hãy nghe tường, Ku-Ta-Đanh-Tá !        
          Sát-Đế-Lỵ, tất cả đại thần
              Thân tộc phú hào tỉnh, thành
       Mang nhiều tiền của, bạc vàng đến trao
          Ủng hộ Đàn hiến vào, mục đích
          Nhưng vua Ma-Ha-Vích-Chi-Ta
              Từ khước, dù họ thiết tha
       Vua bảo Đàn Tế diễn ra vẹn tuyền
          Không cần nhiều của tiền vàng bạc
          Chỉ mong cầu hỷ lạc, phúc an.
 
              Bị từ khước của đã mang
       Bốn đại chúng ấy họp bàn với nhau :
         Tài sản ấy hiến vào Đàn Tế
          Nếu mang về không thể vẹn toàn
              Vua tổ chức Đại Tế Đàn
       Ta thực hiện Hậu Tế Đàn tiếp sau
          Thật trang nghiêm, nguyện cầu hồi hướng
          Cho Đại Vương trọn hưởng phước lành.    
 
20.           Sau đó họ đã thực hành
       Các Sát- Đế-Lỵ thân nhân đồng lòng 
          Đặt tế vật phía Đông hố tế,
          Các Đại thần thì để phía Nam,   
              Các Bà-la-môn luận đàm
       Nên đặt tế vật trước hầm phía Tây,
Trường Bộ (Tập 1) Kinh 05 :  KUTADANTA   *   MLH  -  237
 
          Các phú hộ đặt ngay phía Bắc
          Mọi tế vật sắp đặt nghiêm trang
              Diễn tiến của Hậu Tế Đàn
       Cũng rất trong sạch, hoàn toàn khiến cho
          Trâu, dê, bê, heo, bò, cừu, nghé
          Không bị giết lớn bé hà sa
              Loại cỏ cát tường ‘đáp-pha’
       Không bị đem trải bao qua Tế Đàn
          Cây không bị chặt ngang làm trụ
          Cột vào đó giống thú hàng ngàn
              Hiến tế cho Đại Tế Đàn
       Thì nay bỏ hẳn, không màng sát sinh
          Những nô bộc, đưa tin, các thợ
          Không còn sợ dọa nạt ; tự do
              Tế Đàn chỉ với thục tô
       Với dầu, đường miếng, sanh tô, mật đường.
.      
       – Hãy nghe tường, Ku-Ta-Đanh-Tá !
          Đại Tế Đàn này đã thực hành
              Bốn sự chấp thuận sẵn dành
       Tám pháp thành tựu Vua lành phát sanh
          Thêm Bốn pháp tựu thành Chủ Tế
          Và thông hiểu ba Tế Pháp rành
              Ngoài ba tế pháp đã đành
       Mười sáu Tế Vật ngọn ngành hiểu thông.
*
21.      Phật nói xong, Bàn-môn các vị
          Hét to lên ầm ĩ  khen ngay :
          – “ Cao quý thay ! Tế Đàn này
       Vẻ vang thành tựu Đàn chay tịnh hòa ! ”.
 
          Nhưng Ku-Tá-Đanh-Ta ngồi đó
          Vẫn yên lặng, không tỏ ý gì.
Trường Bộ (Tập 1) Kinh 05 :  KUTADANTA   *   MLH  -  238
 
              Các Bà-la-môn hoài nghi :
 
 – “ Vì sao ngài lại không tùy hỷ chi ?
          Lời thiện thuyết của vì Tôn Giả
          Gô-Ta-Ma ngài đã giải rành ? ”
 
          – “ Không phải ta không tán thành
       Những lời vi diệu ngọn ngành thuyết ra
          Sa-Môn Gô-Ta-Ma Thiện Thệ
          Có uy đức, trí tuệ hải hà
              Những lời Ngài đã nói ra
       Chân chánh, như thị, thật là gấm hoa
          Với những lời sâu xa đúng đắn 
          Của một vị Chánh Đẳng Giác Như
              Người nào ngã mạn chần chừ
       Không chịu xác nhận, không từ tán dương
          Đầu người đó sẽ thường bể nát
          Do Dạ Xoa hung ác giáng chùy.
 
              Nhưng ta đang mãi nghĩ suy
       Tôn Giả không nói :‘Như vầy ta nghe’
          Ngài chỉ có nói về sự việc
          Khi ấy xảy  chi tiết như vầy.
              Ta nghĩ chắc ở thời này
       Ngài là Chủ Tế hay Ngài Đại Vương ?
 
          Biết Tôn Giả có thường nhận thực
          Là người đứng tổ chức Tế Đàn
              Hay sai thực hiện Tế Đàn
       Sau khi thân hoại, sinh sang cõi nào ?
          Các thiện thú, sinh vào Thiên giới
          Hay cõi đời thơ thới vinh hoa ? ”.
 
           – “ Này Bà-la-môn ! Đúng là
Trường Bộ (Tập 1) Kinh 05 :  KUTADANTA   *   MLH  -  239
 
       Chính ta Chủ Tế thời xa Tế Đàn
          Các nghi lễ nghiêm trang phụ trách
          Khi mạng chung, trong sạch sinh Thiên
              Thiện thú, cõi đời, cõi tiên
       Vô lượng số kiếp triền miên qua rồi ”.
 
22. - “ Thưa Tôn Giả ! Trong đời hiện tại
          Tế Đàn nào ít nhiễu hại hơn ?
              Ít phiền, quả báo nhiều hơn
       Có nhiều lợi ích, chánh chơn hoàn toàn ?
          Ba tế pháp Chủ Đàn phải thấu
          Thêm mười sáu tế vật phải rành ? ”.
 
           – “ Này Bàn-môn ! Có Tế Đàn 
       Ít phiền, ít hại, hoàn toàn tinh chuyên :
          Sự Bố Thí thường xuyên, trong sạch
          Thường cúng dường các bậc xuất gia
              Có giới đức, sống tịnh, hòa
       Tế Đàn này ít phiền hà hơn kia
          Nhiều lợi ích, xa lìa điều xấu
          Hơn tế đàn Mười Sáu với Ba ”.
 
23.       – “ Thưa Tôn Giả Gô-Ta-Ma !
       Nhân duyên gì khiến làm ra Tế đàn
          Chỉ Bố Thí, cúng dàng những vị
          Có giới đức, tuệ trí xuất gia
              Hơn cả tế đàn diễn ra
       Mười sáu tế vật với ba tế phần ? ”.
 
    – “ Này Bàn-môn ! Tịnh thân La-Hán                
          Hay những A-La-Hán sắp thành
              Không bao giờ đến Tế Đàn
       Vì sao như vậy ? – Vì hàng Thánh Tăng
          Không muốn thấy bất bằng đánh đập
Trường Bộ (Tập 1) Kinh 05 :  KUTADANTA   *   MLH  -  240
 
          Bằng roi gậy, túm chặt lấy đầu
              Túm cổ lôi kéo thương đau
       Vì lòng bi mẫn, không sao tán thành   
          Tế Đàn với sát sanh nhiều quá
          Hành nô bộc, hại cả công nhân.
 
              Nhưng các La-Hán ân cần
       Đến những Đàn Tế chẩn bần, cho ra
          Cúng dường bậc xuất gia các vị
          Khiến nhiều người hoan hỷ tán dương
              Không thấy đánh đập thường thường
       Không có túm cổ, đả thương người làm
          Do nhân duyên trừ tham, phát chẩn
          Tế Đàn này hơn hẳn loại kia ”.
 
24.       – “ Thưa Tôn Giả ! Nếu chẻ chia
       Có Tế Đàn khác sớm khuya thực hành
          Sẽ đem đến muôn vàn lợi lạc
          Ít nhiễu hại, phiền tạp tránh xa
              So với tế đàn diễn ra
       Mười Sáu tế vật với Ba tế phần
          Và Tế Đàn chỉ cần Bố Thí
          Cùng cung dưỡng các vị tịnh thanh ? ”.
 
          – “ Này Bàn-môn ! Với lòng thành
       Xây dựng Tinh Xá sẵn dành cúng dâng
          Bốn phương Tăng tinh cần hành đạo
          Bậc giới đức hoàn hảo  đáng tôn.
              Lại nữa, Tế Đàn cao hơn
       Là sự quy ngưỡng, bảo tồn Tam Quy
          Quy y Phật, Pháp, Tăng – Tam Bảo
          Là ba ngôi châu báu cõi đời.                                  
              Một Tế Đàn khác sáng ngời
Trường Bộ (Tập 1) Kinh 05 :  KUTADANTA   *   MLH  -  241
 
       Là sự Trì Giới mọi thời sạch trong
          Không sát sinh và không trộm cắp
          Không nói dối, không tập dâm tà
              Cũng không uống rượu sa đà
       Các Tế Đàn ấy thật là quý thay ! 
          Ít phiền tạp, ít gây nhiễu hại
          Nhiều quả báo, ích lợi tối đa
              So với Tế Đàn diễn ra
       Mười sáu tế vật với Ba tế phần ”.
 
27. - “ Thưa Tôn Giả ! Với chân, thiện, mỹ
          Tế Đàn nào giá trị hơn xa
              Tế Đàn tế pháp có ba
       Mười sáu tế vật diễn ra ồn ào,
          Hơn Tế Đàn dựa vào Thí xả
          Hay cúng dường Tinh Xá, Quy y
              Hay là Giới luật nghiêm trì
       Tế Đàn như vậy uy nghi huy hoàng ”.
*
      –  Này Bàn-môn ! Tế Đàn tuyệt hảo
          Cần lắng nghe thấu đáo vấn đề :     
              Cõi trần phiền não nặng nề
       Vô minh triền phược mọi bề phủ vây
           Bỗng xuất hiện bậc Thầy quảng đại
          Thế Gian Giải, Điều Ngự Trượng Phu,
              Phật, Thế Tôn, Thiên Nhân Sư,
       Chánh Đẳng Chánh Giác đại từ uy linh
          Vô Thượng Sĩ hay Minh Hạnh Túc,
          Bậc Thiện Thệ, Ứng Cúng, Như Lai,
              Do sự chứng ngộ tự Ngài
       Rồi lại tuyên thuyết, hoằng khai Pháp mầu
         Thuyết Sơ Thiện, rồi sau Trung Thiện
Trường Bộ (Tập 1) Kinh 05 :  KUTADANTA   *   MLH  -  242
 
          Thuyết Hậu Thiện, văn nghĩa đủ đầy
              Truyền dạy Phạm hạnh từ đây
       Pháp thân thanh tịnh, bậc Thầy Nhân Thiên.
 
       * Có gia trưởng trong miền thôn ấp
          Hoặc một người giai cấp tiện dân
              Duyên lành nghe pháp thậm thâm
       Sinh lòng ngưỡng mộ, kiếm tầm chân như
          Tự suy nghĩ : ‘Đời như cát bụi
          Sống dẫy đầy trói buộc não phiền
              Luân hồi sinh tử triền miên
       Đời sống xuất thế lụy phiền tránh xa
          Ta nay phải xuất gia viên mãn
          Đời xuất gia phóng khoáng hư không
              Cuộc sống thế gian chất chồng
       Phạm hạnh thanh tịnh thật không dễ gìn’..
          Y trưởng dưỡng đức tin vững chắc
          Cạo râu tóc, thân đắp ca-sa
              Biệt gia quyến, bỏ cửa nhà
       Ba y một bát, xuất gia tu hành.
 
            Sống chế ngự, thực hành Phạm hạnh
          Giữ oai nghi, tự tánh sáng lòa
              Giới bổn Pa-Tí-Mốc-Kha  (1)
       Thọ trì nghiêm mật, tránh xa điều tà
          Thân, khẩu, ý  từ hòa thanh tịnh
          Giới cụ túc, thức tĩnh nhiếp tâm
              Biết tri túc, giữ các căn
       Là Sa-môn hạnh, pháp đăng soi đường.
        – Này Bàn-môn ! Sao tường thuần thục
    _______________________________
    (1) : Patimokkhasanvarasìla : Biệt biệt giải thoát thu thúc giới 
         ( trong Tứ Thanh Tịnh Giới của Luật Tỷ Kheo ).
Trường Bộ (Tập 1) Kinh 05 :  KUTADANTA   *   MLH  -  243
 
          Là Tỷ Kheo cụ túc giới điều ?
              Phải thấy nguy hiểm mọi chiều
       Lỗi lầm nhỏ nhặt triệt tiêu dần dần
          Bỏ trượng kiếm, sát sanh tránh hẳn      
          Đại từ tâm, bình đẳng, nhẫn kham
              Có tâm hổ thẹn là Tàm.
       Ghê sợ là Quý, không làm nghiệp sai
          Hành Phạm hạnh, bản lai thanh tịnh
          Không trộm cướp, chẳng tính so đo
              Quyết không lấy của không cho
       Đó là giới hạnh, thước đo Giới điều.
*
           Vị Tỷ Kheo mong điều giải thoát
          Không tà hạnh. dâm ác thấp hèn
              Không nói dối trá đua chen
       Không nói hai lưỡi chê khen dối lòng
          Không lường gạt cũng không ly gián
          Sống hòa hợp giữa nạn rẽ chia
              Sống đời chân thật sớm khuya
       Tránh lời độc ác nọ kia lỗi lầm.
              Là giới hạnh trong tầm Giới Luật
              Vị Tỷ Kheo thuần thục thọ trì.
 
              Cả đến hạt giống, cỏ cây
       Cũng đều thấm nhuận đức dày Sa-Môn
          Chỉ ăn ngọ, sống tồn tri túc
          Không múa hát, trang sức, kịch ca
              Sống thanh đạm, tránh xa hoa
       Không dùng hương liệu, dầu thoa thơm nồng
          Lại cũng không giường nằm cao rộng    
          Cũng không nhận thịt sống, bạc vàng
              Nô tỳ trai, gái – từ nan
Trường Bộ (Tập 1) Kinh 05 :  KUTADANTA   *   MLH  -  244
 
       Đàn bà, con gái – không màng lưu tâm
          Cừu, dê, heo, gia cầm, voi, ngựa
          Ruộng, đất, vườn, nhà cửa không cần
              Từ bỏ gian lận bằng cân
       Từ bỏ môi giới, không phần gian tham
          Không áp bức, không làm thương tổn
          Không câu thúc, vây khổn, cừu thù.
              Đó là giới hạnh đặc thù
       Nằm trong Giới Luật chân tu giữ gìn. 
          Chân Tỷ-kheo quang minh chánh trực
          Thường tỉnh thức, thu thúc mọi thì.                   
 
         –  Này Bàn-môn !  Hãy tường tri
       Vị Tỷ Kheo ấy uy nghi vô cầu
          Được hộ trì nhờ vào Giới Luật
          Tâm kiên cương chẳng chút sợ gì
              Như Sát-Đế-Lỵ một vì
       Làm lễ quán đảnh, trì vì giang san
          Đã hàng phục lân bang thù địch
          Không còn sợ đột kích biên phòng
              Tỷ Kheo chân chánh cũng không
       Sợ hãi tội lỗi, vì lòng thẳng ngay
          Giới Luật ấy đủ đầy, cao quý
          Hưởng lạc thọ, hoan hỷ nội tâm.
*
           –  Này Bàn-môn ! Hãy lắng tâm
       Tỷ Kheo bảo hộ các căn thế nào ?
          Mắt thấy sắc nhưng nào giữ tướng
          Tướng chung, riêng chẳng nắm giữ gì
              Mắt không chế ngự tại chi
       Khiến bất thiện pháp ưu bi khởi vào
          Nên tham ái dâng trào đủ thứ
Trường Bộ (Tập 1) Kinh 05 :  KUTADANTA   *   MLH  -  245
 
          Vị Tỷ Kheo chế ngự nguyên nhân
              Hộ trì tích cực nhãn căn
       Cũng như hộ trợ nhĩ căn cũng cần
          Tai nghe tiếng hay thân cảm xúc
          Mũi ngửi hương, nhận thức : ý căn
              Tỷ Kheo hộ trì các căn
       Nên hưởng lạc thọ, nội tâm sáng ngời.
             
      –  Này Bàn-môn ! Thời thời tỉnh giác
          Giữ chánh niệm, an lạc tự tâm
              Tỷ Kheo đi, đứng, ngồi, nằm
       Đều giữ tỉnh giác, trong tâm biết liền
          Khi tới, lui ; biết mình lui, tới
          Khi nhìn quanh, biết bởi mình làm
              Hay khi co duỗi tay chân
       Mặc y, đi bát  hay cần uống ăn
          Khi nhai, nuốt, nói năng : Tỉnh giác
          Đại, tiểu tiện, nhổ khạc : Biết mình
              Như vậy Tỷ Kheo tâm minh
       Chánh niệm tỉnh giác, an bình, thanh cao.
.
       –  Này Bàn-môn ! Thế nào biết đủ ?
          Hạnh Tri Túc luôn giữ chỉnh tề
              Bằng lòng ba  y để che
       Bình bát khất thực dễ bề cúng dâng
          Y và bát  luôn gần bên cạnh
          Cũng như chim, đôi cánh luôn mang
              Đó là Tỷ Kheo giới toàn
      Giữ hạnh Biết Đủ, không màng nhiều hơn.    
 
          Với Giới uẩn chánh chơn cao quý
          Với các căn nhiếp kỹ, hộ trì
              Chánh niệm tỉnh giác trí tri
Trường Bộ (Tập 1) Kinh 05 :  KUTADANTA   *   MLH  -  246
 
       Thêm hạnh tri túc, còn gì quý hơn.
          Trang bị đủ những gì cao quý
          Vị ấy lựa vị trí lặng yên
              Như rừng tĩnh mịch, lâm viên
       Gốc cây, khe núi hoặc liền tha ma.
*
          Thời ngọ thực đã qua, rửa bát
          Ngồi kiết già, an lạc, thẳng lưng
              An trú chánh niệm, lâng lâng
       Tham ái từ bỏ, thoát dần ái tham
          Bỏ sân hận, từ tâm thương xót
          Chúng hữu tình mỗi một cảnh riêng
              Từ bỏ hôn trầm, thụy miên
       Thoát ly khỏi chướng thụy miên, hôn trầm
          Giữ tịnh tâm, hướng về ánh sáng
          Cùng chánh niệm, tỉnh giác, tâm yên
              Gột rửa chúng, được an nhiên
       Từ bỏ trạo cử  thì liền tịnh thân
          Hết nghi ngờ, phân vân lưỡng lự
          Gột rửa hết  trạo cử, hôn trầm
              Gột rửa tham ái, hận sân
       Đối với thiện pháp, tinh cần hành theo.
*
       –  Này Bàn-môn ! Người nghèo mắc nợ           
          Liền chọn nghề, không sợ khó khăn     
              Nhờ sự nỗ lực, tinh cần
       Nghề nghiệp phát đạt, tự thân nên giàu
          Có tiền dư, nợ mau trả dứt
          Nuôi vợ con, quả thực thanh nhàn
              Người ấy nhờ vậy giàu sang
       Sung sướng hoan hỷ, hoàn toàn an nhiên.
 
      –  Này Bàn-môn ! Bệnh duyên người nọ
Trường Bộ (Tập 1) Kinh 05 :  KUTADANTA   *   MLH  -  247
 
          Rất đau đớn, lại khó uống ăn
              Thể lực suy yếu dần dần
       Cơn bệnh trầm trọng hành thân đêm ngày
          Bỗng nhân duyên, gặp thầy gặp thuốc
          Dứt hẳn bệnh, ăn uống tiêu thông
              Thể lực khôi phục như mong
       Hoan hỷ, sung sướng, sống trong an lành.
 
       –  Này Bàn-môn ! Một anh bị nhốt
          Trong ngục tù, ngục tốt khảo tra
              Đau đớn, sợ hãi tối đa
       Cầu mong thoát khỏi tai qua, nạn lùi
          Bỗng duyên vui, gặp ngài Chánh án
          Xét vô tội, xóa án thả mau
              Tài sản không bị tổn hao
       Thân vẫn khang kiện, ngục lao thoát rồi,
          Về lại nhà, bồi hồi nghĩ lại
          Quá sung sướng, thanh thái hân hoan.
 
           –  Này Bàn-môn ! Một thời gian
       Có người nô lệ của hàng chủ nhân
          Không tự chủ, bản thân lệ thuộc
          Mất tự do, ràng buộc khó khăn
              Bỗng một hôm, vị chủ nhân
       Tuyên bố trả tự do thân người này
          Quá hoan hỷ, lòng đầy sung sướng
          Người nô lệ tận hưởng niềm vui.
 
          –  Này Bàn-môn ! Có một người
       Giàu, nhiều tài sản, là người lái buôn
          Qua sa mạc mênh mông nguy hiểm
          Thiếu lương thực, khan hiếm nước dùng
              Sợ hãi trong bước đường cùng
Trường Bộ (Tập 1) Kinh 05 :  KUTADANTA   *   MLH  -  248
 
       Bỗng gặp ốc đảo, nước trong rất nhiều
          Mấy hôm sau, lại điều may khác
          Khỏi sa mạc, gần đến đầu làng
              Vô sự, sung sướng, vui an
       Khỏi sự nguy hiểm lòng hằng ước mơ.
*
       –  Này Bàn-môn ! Chính nhờ quán niệm
          Vị Tỷ Kheo tự nghiệm, tự tri
              Năm Triền Cái chưa xả ly
       Như là món nợ, Bệnh  hay Ngục đường,
          Như nô lệ, con đường sa mạc,
          Nay trả dứt hết các nợ nần
              Khỏi cơn bệnh dữ hành thân
       Ra khỏi sa mạc, thoát tầng ngục lao,
 
          Năm  triền cái  chừng nào chưa diệt
          Vị Tỷ Kheo mãi miết tinh cần.
              Chừng nào khi quán tự thân
       Với năm Triền Cái đã cần xả ly
          Do xả ly, tức thì hoan hỷ
          Do hoan hỷ, tâm được khinh an
              Lạc thọ sinh do khinh an
       Đạt được như thế, tâm an định liền
          Ly ác pháp, Tỷ Kheo ly dục
          Chứng và trú vào mục Nhất Thiền
              Trạng thái hỷ lạc tự tâm
       Sinh do ly dục, với Tầm, Tứ chuyên
          Đệ Nhất Thiền, Tỷ Kheo thấm nhuận
          Như tẩm ướt, sung mãn, tràn nhanh
              Hỷ lạc do ly dục sanh
       Với Tầm, với Tứ thấm quanh tâm mình.
 
     –  Này Bàn-môn !  Hành trình tiếp nữa
Trường Bộ (Tập 1) Kinh 05 :  KUTADANTA   *   MLH  -  249
 
          Vị Tỷ Kheo vào cửa định thiền
              Diệt Tầm, diệt Tứ được yên
       Thì chứng và trú vào Thiền thứ Hai
          Một trạng thái ra ngoài Tầm, Tứ
          Do Định sinh , nội tỉnh nhất tâm
              Tỷ Kheo ấy đã thấm nhuần
       Hỷ lạc tẩm ướt khắp thân của mình.
 
      –  Này Bàn-môn ! Hành trình tiếp nữa
          Vị Tỷ Kheo vào cửa định thiền
              Ly hỷ trú xả, nhất tâm
       Chánh niệm tỉnh giác, thì thân cảm liền
          Sự lạc thọ, thánh hiền gọi đó
          Là ‘xả niệm lạc trú’ tâm chuyên
              Chứng và an trú Tam Thiền
       Tỷ Kheo đẫm ướt, thấm nhuần tự thân
          Sự lạc thọ, không cần có hỷ
          Lạc thọ ấy thấm kỹ toàn thân
              Không một chỗ nào trên thân
       Mà Lạc thọ đó không phần thấm vô.
     
      –  Này Bàn-môn ! Lộ đồ tiếp nữa
          Vị Tỷ Kheo vào cửa định thiền
              Xả lạc, xả khổ ; tâm yên
       Diệt hỷ, ưu, cảm thọ – liền trước đây
          Chứng, trú ngay vào Thiền Đệ Tứ
          Không khổ, lạc ; không giữ niệm nào
              Thanh tịnh, an lạc tiêu dao
       Như Tỷ Kheo ấy thấm sâu, ướt đầm
          Được thấm nhuần với tâm thuần tịnh
          Và trong sáng, trong chính thân này.
 
          –  Này Bà-la-môn ! Chính đây
Trường Bộ (Tập 1) Kinh 05 :  KUTADANTA   *   MLH  -  250
 
       Là Tế Đàn lớn đủ đầy quý thay
          Ít phiền tạp, ít gây nhiễu hại
          Nhiều quả báo, lợi lại tối đa
              So với Tế Đàn diễn ra
       Mười Sáu tế vật với Ba tế phần.
          Tế Đàn này vô cùng cao thượng
          Thù thắng hơn, vô lượng phước duyên ! ”.
*
              Khi nghe Thế Tôn hiện tiền 
       Giảng giải chi tiết, vẹn tuyền sâu xa
          Bà-la-môn Ku-Ta-Đanh-Tá
          Mừng khôn tả, đảnh lễ Như Lai :
 
          – “ Bạch Thế Tôn ! Vi diệu thay !
       Như người dựng vật lăn quay ngã nằm
          Chỉ hướng kẻ sai lầm lạc lối
          Đem đèn sáng vào tối như bưng
              Để ai có mắt mở bừng
       Có thể thấy được sáng trưng sắc màu.
*
          Cũng như vậy, nhiệm mầu Chánh Pháp
          Được Thế Tôn phân tách, trình bày
              Con xin quy ngưỡng từ nay
       Quy y đức Phật, nương ngay Pháp mầu,
          Quy y Tăng thanh cao đức cả
          Nối tiếp nhau hoằng hóa Pháp môn
              Mong Thế Tôn nhận cho con
       Được làm đệ tử, vun tròn thiện duyên
          Xin phát nguyện vẹn tuyền ngưỡng phục
          Kể từ nay đến lúc mạng chung.
 
              Kính bạch Đại Giác, Đại Hùng !
       Con xin trả lại mạng, cùng  tự do
Trường Bộ (Tập 1) Kinh 05 :  KUTADANTA   *   MLH  -  251
 
          Bảy trăm dê và bò đực ấy
          Bảy trăm cừu, bò cái bảy trăm
              Bảy trăm con nghé cùng năm
       Được toàn mạng sống, giam cầm thả ra
          Để cho chúng nhẩn nha gặm cỏ
          Uống nước mát trong gió giữa đồng ”.
 
              Lúc bấy giờ đức Thế Tôn
       Giảng giải thứ lớp Pháp môn mọi bề
          Thuyết Bố thí, thuyết về Trì giới
          Các cõi Trời cho tới Phạm Thiên
              Trình bày nguy hiểm hiện tiền
       Nhiễm ô dục lạc, triền miên đọa trầm
          Sự xuất ly do tầm lợi ích. . .
          Bà-la-môn thỏa thích tăng dần
              Thế Tôn biết tâm chủ nhân
      Nay đã nhu thuận, không phần chướng duyên                                                       
          Đã tín thành, tâm chuyên, phấn tấn
          Ngài liền thuyết Vô Tận diệu ngôn
              Nhờ đó chư vị Thế Tôn
       Nương Tứ Diệu Đế, chứng tôn Phật Đà
          Là  Khổ, Tập, Diệt và Đạo Đế
          Trên con đường Thánh, kể tám chi.
 
              Giống như tấm vải ố tỳ
       Đã tẩy trắng bạch, không tỳ vết đâu
          Khi đem nhuộm, thấm màu trong chậu.
          Pháp xa trần ly cấu  được nên
            “ Pháp gì được tập khởi lên
       Đều bị tận diệt ”.  Ông liền nghĩ suy
 
          Ông Ku-Tá- Đanh-Ta  khi ấy
          Chứng, Ngộ, Thấy, thể Nhập pháp mầu
Trường Bộ (Tập 1) Kinh 05 :  KUTADANTA   *   MLH  -  252
 
              Nghi ngờ, do dự tiêu mau
       Chứng được tự tín, không đâu y vào.
          Trước Thế Tôn, cúi đầu thưa thực :
        “ Mong được thỉnh Đại Đức đến nhà
              Cùng với Đại chúng Tăng Già
       Cúng dường ngọ thực tại nhà, ngày mai ”.
 
          Phật im lặng, ý Ngài đồng ý
          Bà-la-môn hoan hỷ cáo từ.
 
              Hôm sau, đấng Thiên Nhân Sư
       Đắp y, mang bát cùng chư Tăng Già
          Đến Ku-Tá-Đanh-Ta dinh thự.
 
          Thỉnh Phật, Tăng ngôi thứ ngồi an
              Tự tay chủ nhân hân hoan
       Phục vụ đức Phật thức ăn ngọ thời
          Món thượng vị loại mềm và cứng
          Quyến thuộc ông thì đứng sẵn sàng
              Ân cần phục vụ Chư Tăng.
.
       Ăn xong, đức Phật liền thăng tòa ngồi
          Vị chủ nhân cũng ngồi trên ghế
          Kê thấp hơn và để một bên
              Phật thuyết pháp khích lệ thêm
       Chủ nhân chánh tín, não phiền lánh xa
          Ông  Ku-Tá-Đanh-Ta hoan hỷ
          Được thỏa nguyện, tâm trí an hòa.
              Đức Phật cùng chư Tăng Già
       Đứng dậy từ biệt chủ gia , trở về ./-
 
        Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật  ( 3 L )
* * *
( Chấm dứt  Kinh 05 : KUTADANTA – Kinh Cứu-La-Đàn-Đầu )  
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com