Krishnamurti's biography by Pupul Jayakar
Lời dịch: Ông Không
Tháng 4-2011
PHẦN 3
PHƠI BÀY LỜI GIẢNG
1950-1959
CHƯƠNG 19
“Nói bằng Toàn Bộ đầu”
Đ |
ầu năm 1959, người ta quyết định rằng Krishnaji sẽ không quay lại Ojai, nhưng sẽ trải qua năm thứ hai ở Ấn độ. Anh đã ở quốc gia này từ mùa thu 1957 và sẽ không quay lại Châu âu mãi đến mùa xuân 1960. Đó là thời gian dài nhất mà anh sẽ sống tại Ấn độ từ khi anh rời quốc gia lúc còn bé.
Tháng tư, khi thời tiết nóng nực, ẩm ướt không thể chịu nổi. Krishnaji quyết định rời Bombay để đến Lonavala, một khu nghỉ mát trên đồi nhỏ giữa Bombay và Poona. Anh ở một mình cùng một người phụ giúp trong ngôi nhà của Amru Mehta, người em gái út của tôi. Sunanda và người chồng của em ấy, Pama Patwardhan, ở tại Poona, chỉ cách Lonavala bốn mươi dặm, và thường đến viếng thăm anh. Anh sống hầu hết mọi ngày một mình.
Tháng năm, người ta sắp xếp anh đi đến Kashmir qua Delhi, theo cùng bởi Madhavachari và một người nấu ăn Nam Ấn có tên là Parameswaran. Trong khi ở New Delhi Krishnaji quả quyết rằng Madhavachari phải may một bộ com lê bằng len mới. Anh rất hài lòng khi thấy Madhavachari mặc tươm tất, và anh khen, “Bây giờ Mamaji sẽ trông rất bảnh bao.” Khi họ đến, họ ở qua đêm trên một chiếc thuyền làm thành nhà ở Srinagar. Ngày hôm sau họ chuyển đến một cái nhà nằm trong một vùng đông đúc của thành phố, và trong một lá thư gởi cho tôi Krishnaji diễn tả sự buồn bực của anh bởi cái nhà và những vùng chung quanh của nó đầy chuột.
Ngày 26 tháng năm, Krishnaji và Madhavachari rời Srinagar và lái xe đến Achebal, một seraihay nhà khách được xây dựng bởi Nur Jehan trên con đường cổ xưa từ Labore đến Srinagar. Achebal được đề cập trong Akbar Nama[6]như một nơi tôn thờ của những cổ xưa; dòng nước dồi dào của nó, trong như pha lê và lạnh lẽo, bắt nguồn từ một con suối chảy xiết. Thỉnh thoảng, Akbar Namatiếp tục nói, một con cá có đốm màu vàng đẹp sẽ xuất hiện trong nước, và sự xuất hiện của nó được nghĩ là rất may mắn. Suốt hàng trăm năm những người hành hương đã đến vùng đất thiêng liêng này bởi vì khả năng chữa bệnh của nước suối, bất kể những thần thoại của những yakshis, những vị thần cây và nước mà bảo vệ con suối, đã biến mất từ lâu.
Nur Jehan đã dựng lên một cái vườn có tường vây chung quanh con suối, bao quanh một khu vực được trồng bởi những cây dương và cây chinar. Tại một vị trí trong khu vực bao quanh con suối phun vọt nước lên dữ dội từ lòng đất rơi xuống như một miếng nước đến những mức độ thấp hơn của cái vườn. Những nhánh to của cây chinar tràn qua nước đang chảy. Dưới thác nước là những cái ao và những vòi phun, và những cái mương được đào để dẫn nước đến những vùng xa của cái vườn. Những cái mương này được hoạch định để cho những tia sáng của mặt trời tạo ra những cầu vồng khi chúng bắt được tia phun ra của thác nước và những vòi phun. Những bông hoa đã được trồng, hơi hơi hoang dại, trong những khu vực nơi những cây dương và cây chinar không tỏa bóng của chúng. Những cái chòi trống bốn phía, lúc đầu được dựng lên bởi Moghuls, nhưng sau đó được sửa chữa và chẳng còn mang dấu vết của những cân đối tinh tế đầu tiên của chúng, được đặt gần cái ao. Tiếng ầm ầm của thác nước và âm thanh của nước róc rách không xâm phạm để phá vỡ những yên lặng và cũng không quấy rầy những con chim nghỉ ngơi trong những cây chinar có thân to lớn. Vùng quê là một tấm thảm mênh mông của những cánh đồng lúa non xanh tươi thấm đầy ánh nắng mặt trời, tương phản cái nền của những hòn núi có đỉnh phủ tuyết, dựng đứng trên đường chân trời.
Ngay sau khi họ đến, Madhavachari phải đi Madras, bởi vì một trong những người con của ông bị bệnh. Nhưng Parameswaran ở lại để phụ giúp những nhu cầu của Krishnaji. Tôi tham gia cùng Krishnaji tại Achebul ngày 6 tháng sáu, và sống trong một túp lều nhỏ gần nhà của Krishnaji đến cuối tháng.
Trước khi tôi đến Kashmir, Krishnaji đã viết thư nhờ tôi mang cho anh một quyển sách tiếng Anh cho người bắt đầu, một quyển Golden Treasury of English Versecủa Palgrave, và một chai thuốc dưỡng tóc. Tôi cũng đem một gói xoài alfonsso, một trái cây Krishnaji ưa thích. Không có điện ở Achebul, và buổi tối chúng tôi dùng đèn lồng dầu hôi hay một petromax.[7]
Krishnaji thức dậy lúc bình minh và tập yoga asnasvà pranayamacủa anh, mà anh đã học từ B. K. S. Iyengar, một người thầy nổi tiếng của yoga từ Poona. Krishnaji đang cố gắng thuyết phục tôi học yoga asnas, nhưng bởi vì tính khí thờ ơ phần thân thể nên những nỗ lực tập luyện của tôi đều thất bại. Sau khi asnascủa Krishnaji chấm dứt, chúng tôi ăn một bữa điểm tâm kiểu Nam Ấn gồm idlisvà sambharhay dosas, bánh đậu lăng pha gạo mặn, với tương ớt làm bằng dừa. Tôi uống cà phê, Krishnaji uống món pha chế thảo mộc nào đó.
Đến lúc đó Krishnaji đã sẵn sàng cho chuyến dạo bộ lâu, và tôi tham gia cùng anh leo lên những quả đồi chung quanh. Dạo bộ qua những cánh rừng thông, chúng tôi leo lên những triền đồi dốc đứng; Krishnaji rất nhanh nhẹn, giữ thăng bằng thật khéo léo, leo trèo qua những tảng đá to và ưa thích nhảy qua trực tiếp dễ dàng hơn là phải đi vòng vòng. Tôi hổn hển thở dài, nhưng tôi quen công việc leo núi từ niên thiếu và xoay sở để theo kịp anh. Anh sẽ leo lên thật nhanh, sau đó nhìn lại tôi, quan sát tôi đấu tranh để thương lượng với một tảng đá khó khăn đặc biệt; thỉnh thoảng anh chìa tay ra và kéo tôi lên phía sau anh, vượt qua những triền rất dốc đứng. Từ đỉnh đồi, mà chúng tôi đến sau khi leo trèo vất vả và rất lâu, phong cảnh gây kinh ngạc. Cái vườn có tường bao bọc và những cánh đồng lúa xanh tươi mát mẻ cùng những cây dương hai bên sườn nằm phía dưới, trong khi màu trắng kinh ngạc của tuyết vây quanh chúng tôi. Krishnaji say đắm phong cảnh ở đây.
Vào những buổi chiều, sau khi nghỉ trưa, anh sẽ dạy Parameswaran tiếng Anh. Gần gần tối, chúng tôi dạo bộ chầm chậm giữa những cánh đồng lúa, hay bên trong cái vườn có tường Moghul. Những bông hoa nở rộ và những cơn gió nhẹ mang hương thơm của hoa hồng, hoa tử đinh hương, và hoa kim ngân. Rau cải xoong mọc đầy theo thảm con suối và chúng tôi hái chút ít cho bữa ăn chiều. Có một nơi ươm trứng của cá hồi, và Krishnaji nhìn ngắm chuyển động mau lẹ của con cá.
Krishnaji là đứa trẻ của nước. Anh vui đùa cùng dòng suối đang chảy tung tăng, vọt lên, rơi xuống, hay nước đang trôi qua những hòn đá cuội phủ rong rêu, hay nước không một gợn sóng. Tình trạng mờ mờ trong và sự tự do của nước, chuyển động cuồng nộ của nó, sự lặng lẽ của nó hay những lần xô đẩy của nó qua đất và đá, khiến cho anh mê đắm.
Tâm trạng của Krishnaji rất trẻ thơ; không cơn bão nào thịnh nộ. Tiếng cười đùa trên hai môi của anh và hai mắt của anh. Anh làm tiêu tan mọi phiền muộn của tôi trong từ bi và thương yêu. Thỉnh thoảng anh lại nghiêm túc và tư lự ghê lắm. Nhiều thấu triệt mà anh sẽ thâm nhập sau đó trong năm này, trong những nói chuyện của anh ở Madras và Bombay, đang nảy ra. Giống như thủy triều, hay trăng tròn và khuyết, cái trí của anh chuyển động trong nhịp điệu riêng của nó. Tôi thấy người đàn ông của huyền bí này, được phú cho vẻ đẹp vô hạn, bình phẩm về “sự tổng thể của ánh mặt trời,” ngước nhìn một chiếc lá mới nhú, đặt bàn tay của anh trên một cái cây có tuổi thọ hàng thế kỷ, kết bạn cùng nó, cảm giác cái vỏ sần sùi của nó, lắng nghe tiếng ầm ầm của nhựa cây khi nó chảy qua những mạch máu của chiếc lá. “Không thời gian hiện diện ở đây, nó ẩn mình dưới mỗi chiếc lá,” anh thường nói. Tôi cảm thấy quả đất trên đó chúng ta đi, nói chuyện, ăn uống, và sống như cái nền của một năng lượng không giới hạn. Thỉnh thoảng tôi cảm thấy bị mê mẩn, như thể được nuôi sống bởi những giọt sương mai.
Trong một dạo bộ anh hỏi tôi nhìn ngắm như thế nào, và nói năng như thế nào. Tôi bị bối rối. Sau đó anh nói, “Liệu có thể nói, ca hát, ngâm nga, không phải từ cuống họng hay miệng, không phải từ phía trước của miệng, nhưng hãy buông trôi cho những từ ngữ chạm vào phía sau của bộ đầu, qua hai mắt, cùng chú ý được giữ chặt đằng sau hai mắt, và thế là nói? Đó là, nói bằng toàn bộ đầu.”
Chúng tôi bàn luận rất lâu về cái trí tôn giáo thực sự và cái trí khoa học như hai cái trí duy nhất mà sẽ tồn tại trong những năm sắp đến – một câu phát biểu mà anh sẽ tìm hiểu trong những nói chuyện tại Madras. Anh nói về chết và kết thúc như cái nguồn của sáng tạo và sự giải phóng của năng lượng mà không hao tán. Đối với anh, đang lắng nghe, chính nó là phép lạ mà chuyển hóa và thâm nhập thăm thẳm, lật tung gốc rễ và hủy diệt những trói buộc giấu giếm của cái trí.
Trong những đêm không có trăng, tối thui chúng tôi sẽ ra ngoài và nhìn ngắm những vì sao và màn đêm đang giảm sút của không gian. Anh sẽ chỉ vào vô số những chòm sao. Anh nói về chuyến hành trình vào không gian phía bên ngoài và chuyến hành hương phía bên trong như sự khám phá về cái vô tận. Nhưng một cái trí nhỏ nhen không thể dấn thân vào chuyến hành hương của vĩnh hằng này.
Mọi buổi tối là một phước lành.
Vào ban đêm, sau bữa ăn tối sớm dưới ánh sáng của petromax, anh sẽ ngâm lại bài thơ từ tập thơ Golden Treasury. “Ode to the Nightingale” của Keat là bài thơ ưa thích nhất của anh. Buổi tối thời tiết rất lạnh và chúng tôi đốt củi và quả thông khô trong lò sưởi thóang. Thỉnh thoảng, anh sẽ cất lên những thánh ca bằng tiếng Phạn. Những âm thanh của giọng hát sâu lắng của anh phủ kín căn phòng và vang rền qua những cánh đồng lúa, vươn ra khỏi những núi tuyết. Lắng nghe và thấy được nở hoa trong sự hiện diện cổ xưa của anh.
Krishnaji kể với tôi rằng tại một trong những dạo bộ của anh, anh đã gặp một nhóm khỉ đang đi, bên trong sự hiện diện của những đỉnh núi phủ tuyết. Chúng đang đi qua những cánh đồng lúa xanh tươi rực rỡ, và những đỉnh núi tuyết vút cao khạc lửa cùng ánh sáng mặt trời. Trong đang thấy sự mênh mang là bản thể của thiêng liêng. Tuy nhiên, những thầy tu đi bộ với hai mắt của họ thâu hẹp lại và tập trung trên mặt đất trước hai bàn chân của họ, hoàn toàn không nhận biết được sự vinh quang chung quanh họ. Dù những cái trí của họ yên lặng đến chừng nào, anh nói, nó sẽ là sự yên lặng của những giới hạn, của những không gian bé tí, và vũ trụ đang lan rộng vô hạn sẽ không có nơi chỗ bên trong nó.
Mỗi vài ngày tôi sẽ đi đến Srinagar bằng xe hơi và quay lại vào buổi chiều. Krishnaji có sự cảm thông nhiều đối với những món đồ thủ công nghệ, và tôi sẽ mang về những vật dụng dệt bằng tay và những món đồ thủ công. Anh sờ mó đối xử với chúng rất cẩn thận và vui mừng trong từng màu sắc của chúng, những kết cấu của chúng, và sự khéo léo của người thợ. Tôi cũng sẽ mang về rau quả tươi, bởi vì chúng không có sẵn tại Achebul.
Năm 1959, tôi không có hiểu biết rằng Achebul là một vùng hành hương cổ xưa, và những nước của con suối được giữ gìn thiêng liêng. Những cư dân Hồi giáo địa phương, đã tẩy xóa tất cả những dấu vết của quá khứ cổ xưa và những thần thoại liên quan đến nó. Tuy nhiên, Krishnaji cảm thấy nhịp đập của nó, âm vang nhiều bàn chân của những người hành hương đã giẵm trên con đường này đến con suối. Anh thường nói về vai trò của những người hành hương. Tôi kể cho anh về một bài viết từ xa xưa nơi bàn chân của những người lang thang được ví như một bông hoa. Tôi cũng nói rằng lộ trình của những người hành hương nằm ở Pahalgam, cách Achebul khoảng bốn mươi dặm. Nhưng chẳng giúp ích được gì.
Từ từ tôi nhận biết rằng rất khó khăn khi sống gần gũi Krishnaji mà không trở nên vô cảm. Nó giống như đang sống trước mặt một tia lazer; người ta có thể dễ dàng quen thuộc với độ mãnh liệt và thế là bị đốt cháy và quắt lại. Sống gần anh là sống trong một vùng của quan sát và lắng nghe. Người ta phải tỉnh táo cực kỳ đến độ cột sống dựng đứng, cái trí trở nên cảnh giác, thân thể bất động. Anh canh chừng mọi chuyển động, mọi suy nghĩ. Cách người ta đi đứng, những cử động khích động của thân thể, cách người ta nói chuyện, âm điệu của giọng nói, những yên lặng. Anh lắng nghe mọi phản ứng – nhận biết được khi nào cái trí bắt chước, khi nào nó đang sống cùng thấu triệt. Không thốt ra một từ ngữ, người ta cảm thấy lắng nghe và nhìn ngắm. Nhưng “đang hiện diện” mà rất gần, mà nhìn ngắm, mà lắng nghe, mà không có sự nhận xét. Nó giống như đang thấy khuôn mặt của người ta trong một cái gương cổ bằng đồng được đánh láng bóng.
Sống hơi xa chúng tôi là một người đàn ông trong những ngày xa xưa đã là một khất sĩvà sau đó đã từ bỏ chiếc áo cà sa. Ông là một vị khách liên tục, mang cho Krishnaji một ít rượu ủ bổ dưỡng mà ông nói rất tốt cho thận. Krishnaji, theo bản năng là một người theo thiên nhiên, thích thú những thảo mộc và uống món rượu bổ, quả quyết rằng nó rất tốt cho thận của anh.
Cuối tháng sáu tôi quay về Delhi. Chẳng mấy chốc Krishnaji ở Pahalgam, trại căn cứ chính cho những người hành hương thực hiện chuyến hành trình đến Amarnath, một trong những vùng hành hương thiêng liêng nhất ở Ấn độ. Tại hang Amarnath cao trong núi Himalayas, một hình dạng lingam tự nhiên của tuyết được hình thành và tan chảy theo vòng tuần hoàn của mặt trăng. Hành hương chính vào ngày trăng tròn của tháng tám khi lingam xuất hiện trong hình thể quả trứng hoàn hảo, nhưng từ giữa tháng sáu những khất sĩ và những người dân thường đã đi hành hương đến hang. Chuyến đi nguy hiểm lắm. Con đường nằm vắt ngang những cái đèo cao và những hẻm núi dựng đứng. Dọc theo lộ trình là Sheshnag, một cái hồ của màu xanh trong suốt tương phản với những hòn núi cao vun vút. Trăng tròn ló lên đằng sau đỉnh núi cao nhất, sáng tạo chất lân tinh trên những tuyết vĩnh cửu, được ví như trăng khuyết nghỉ trên mái tóc bện của Shiva.
Tại Pahalgam, Krishnaji ở tại một cái chòi dành cho du khách dựng lên lẫn trong những cây thông. Qua thung lũng, hai con sông hợp thành cơn cuồng nộ bởi những tảng đá láng bóng đồ sộ nằm vất vưởng dưới đáy của chúng, bị rơi xuống từ những vị trí trên cao; con sông Lidar xuất phát từ sông băng Kolahai và con sông còn lại, Amarganga, thỉnh thoảng được gọi là Sheshnag, dọc theo hai bờ của nó là con đường mòn dẫn đến Amarnath.
Những khất sĩ và những du khách từ Srinagar đến gặp Krishnaji, và anh nói chuyện với một vài người trong số họ. Anh sẽ nói về những khất sĩ này trong những nói chuyện của anh tại Madras sau đó trong năm. Anh nói, “Ngày nào đó ở Kashmir nhiều khất sĩ đã nói với tôi, ‘Chúng tôi sống một mình trong tuyết. Chúng tôi không bao giờ gặp gỡ bất kỳ ai. Không ai đã từng viếng thăm chúng tôi.’ Tôi nói với họ, ‘Thật ra bạn có một mình à, hay bạn chỉ tách rời phần thân thể khỏi nhân loại?’ ‘A, đúng chứ,’ họ trả lời, ‘chúng tôi chỉ có một mình.’ Nhưng họ lại ở cùng Vedas và Upanishads của họ, cùng những trải nghiệm của họ và sự hiểu biết đã lượm lặt của họ, cùng những thiền định và những japams[8] của họ. Họ đã không từ bỏ gánh nặng của tình trạng bị quy định của họ. Đó không là một mình. Khoác vào một cái áo cà sa không có nghĩa là từ bỏ. Bạn không bao giờ có thể từ bỏ thế giới, bởi vì thế giới là bộ phận của bạn. Bạn từ bỏ một vài con bò, một ngôi nhà, nhưng muốn từ bỏ di truyền của bạn, truyền thống của bạn, gánh nặng quy định của bạn, điều đó đòi hỏi sự thâm nhập thăm thẳm.”
Hầu hết những dạo bộ của Krishnaji đều thực hiện một mình qua những cánh rừng thông và dương dày dặc vây quanh Pahalgam. Ngày 13 tháng tám, Vinoba Bhave và những đệ tử của ông đến gặp Krishnamurti.
Vinoba nói đây là lần đầu tiên ông thấy Krishnaji. Người hành hương Gandhi hỏi, “Ông bao nhiêu tuổi?”
Krishnaji trả lời, “Sáu mươi tư.”
“Vậy là ông là người em trai của tôi. Tôi đã đến để bày tỏ sự tôn kính và tìm kiếm những phước lành của ông. Rao và Achyut Patwardhan, Dada Dharmadhikari, và Vimla đã kể cho tôi về ông nhiều lần. Nhưng tôi luôn luôn phải di chuyển và ông cũng vậy. Vì vậy chúng ta không bao giờ gặp nhau.”
Sau khi những lời nhận xét lịch sự chấm dứt, Vinobaji yêu cầu Krishnaji nói cho ông ấy biết về sự thông minh của anh. Krishnaji có vẻ thẹn thùng và yên lặng. Một ghi lại về những bàn luận được giữ bởi Nirmala Deshpande, người hiện diện trong suốt những gặp gỡ và ghi lại khi đối thoại giữa hai người xảy ra.
Vinobaji nói, “Chúng ta bắt đầu như thế nào đây?”
“Nó phụ thuộc vào bạn hứng thú điều gì,” Krishnaji trả lời.
“Sống,” Vinobaji trả lời.
“Mọi người đều quan tâm đến sống. Nhưng sự bàn luận phụ thuộc vào những từ ngữ, và những từ ngữ là cần thiết,” Vinobaji nói.
“Không quá nhiều từ ngữ, ngược lại sự bàn luận mất đi ý nghĩa,” Krishnaji trả lời. “Bàn luận hàm ý…”
Trước khi Krishnaji có thể tiếp tục, Vinobaji nói, “Chia sẻ những trải nghiệm.”
“Vâng, và cũng thâm nhập sâu thẳm. Sự trải nghiệm bị giới hạn – tôi nghi ngờ đặt nền tảng hành động trên sự trải nghiệm.”
“Liệu đó là do bởi sự trải nghiệm quy định con người?” Vinobaji hỏi.
“Vâng,” Krishnaji trả lời, “đó là lý do tại sao điều cốt lõi là phải có một cái trí tự do, một cái trí không bị bóp nghẹt bởi sự trải nghiệm, nhưng tự do để thấy vượt khỏi sự trải nghiệm. Người ta phải chết đi trải nghiệm mỗi ngày. Người ta luôn luôn đang diễn giải trải nghiệm dựa vào cái cũ kỹ. Là một người Ấn giáo tôi diễn giải nó dựa vào Shiva, Krishna – nhưng chúng chỉ là những từ ngữ.”
“Sự phân chia như Ấn giáo, Hồi giáo, Thiên chúa giáo phải được xóa sạch,” Krishnaji nói.
Vinobaji trả lời, “Vâng.”
“Bạn nói ‘vâng,’ nhưng nó là một phát biểu thuộc từ ngữ. Liệu bạn không còn là một người Ấn giáo? Trong khoa học, người ta buông bỏ trải nghiệm quá khứ, để khám phá một thấu triệt mới mẻ. Từ ngay khởi đầu người ta nên được dạy hãy tự do khỏi tình trạng bị quy định – như một người Ấn giáo, Hồi giáo, Thiên chúa giáo. Không ai trong chúng ta buông bỏ. Chúng ta chỉ giả vờ làm như thế.
“Người ta phải không còn là người Ấn giáo hay Hồi giáo; người ta phải là một con người. Nhưng điều đó khó khăn vô cùng. Suy nghĩ về tự do chẳng dẫn bạn đến đâu cả.
“Đầu tiên, người ta phải tự do. Tự do trước, không phải qua suy nghĩ về tự do.”
Vinobaji yêu cầu những nguời đồng hành của ông đưa ra những câu hỏi, nhưng họ đều do dự. Vinobaji nói với Krishnaji rằng hầu hết mọi người không muốn chất vấn, nhưng đến vì darshan thấy. Bàn luận chuyển động khỏi những vấn đề nghiêm túc, và Vinobaji hỏi Krishnaji, “Ông ở lại Ấn độ bao lâu?”
“Sáu tháng.”
“Ông có tập thể dục không?”
“Một chút ít, tôi đi dạo.”
Một trong những đệ tử của Vinobaji hỏi, “Ý nghĩa của tự-nhận ra là gì?”
“Nó có nghĩa gì đối với bạn?” là câu trả lời.
“Hợp nhất cùng Brahman – cùng Thượng đế,” một trong những đệ tử của Vinobaji nói.
“Thượng đế là một cụm từ. Muốn nhận ra Thượng đế, bạn phải có một cái trí tự do, một cái trí tốt lành mà không theo sau bất kỳ người nào cả. Một cái trí không-đạo sư, không-hệ thống. Hãy thử nó.”
“Làm thế nào người ta có một cái trí như thế?” lập tức có một đáp lại.
“Phải có hiểu rõ về chính mình. Không phải hiểu rõ về Atman, nhưng người ta suy nghĩ như thế nào, tại sao người ta suy nghĩ – người ta hành động như thế nào. “Cái tôi” là gì? Tôi không chỉ đang nói về cái tôi tầng ý thức bên ngoài, nhưng về những tầng sâu thẳm của ý thức bên trong. Điều gì được cần đến là một cái trí cách mạng. Bạn không thể có điều đó bằng luyện tập. Nếu bạn thấy chỉ qua một cái cửa sổ, tầm nhìn của bạn bị giới hạn.”
“Liệu triết lý này có thể được giảng dạy?” một trong những đệ tử của Vinobaji hỏi.
“Có một cách suy nghĩ đúng đắn. Liệu nó đặt thành vấn đề người nào lắng nghe?” Krishnaji nói.
“Có lẽ đệ tử của tôi cảm thấy rằng ông nên xuất hiện như người giảng đạo,” Vinobaji nói vào.
“Tôi à, thưa bạn! Tôi đang nói – đó là sống của tôi. Bạn muốn tôi thực hiện nó giống như truyền thống?”
“Có lẽ ông đang thực hiện trong cách của ông việc gì đệ tử của tôi muốn ông thực hiện.”
“Thưa bạn, không có cách của tôi, cách của bạn, cách của anh ấy. Chỉ có một cách.” Krishnaji kiên quyết không nhân nhượng.
“Tôi suy nghĩ trong một cách, bạn suy nghĩ trong một cách khác. Chúng ta lừa dối nguyên một thế hệ. Người ta phải được tự do, con người phải được tự do để nói về Thượng đế. Người Cộng sản nói không có Thượng đế, bạn nói có Thượng đế. Cả hai đều bị quy định. Cả hai đều đang nói cùng một sự việc. Đó là bi kịch. Không có cách thiền định của bạn hay của tôi. Chỉ có thiền định.”
“Khi ông nói theo cách này ở Mỹ, người ta phải trân trọng điều gì ông nói,” Vinobaji nói.
“Trong phương Tây hệ thống phúc lợi xã hội chăm sóc những nhu cầu tối thiểu. Con người đang hướng về niềm tin, về Thiên chúa giáo, giống như con người ở đây hướng về Ấn giáo. Sự khác biệt là gì? Ở Ấn độ sự đổi mới kinh tế đã trở thành quan trọng nhất – đổi mới và hệ thống phúc lợi xã hội là công việc của chính phủ. Nhưng một người đổi mới không liên quan gì đến tôn giáo. Một tôn giáo có liên quan đến sự đổi mới và tôn giáo có cái gì đó rất khác biệt.
“Tôn giáo là cái nguồn của sự sống, khô..0130ng phải sự đổi mới. Tôi không chống lại những đổi mới. Chúng cần thiết. Nhưng tôn giáo khác hẳn.
“Tôi biết vài người Cộng sản ở Châu âu. Họ theo sát những trình bày của tôi nhưng chỉ đến một mấu chốt – những người Ấn giáo cũng vậy, cho đến một mấu chốt. Đó là lý do tại sao tôi là một người đứng ngoài, dù tôi ở Châu âu, Mỹ, hay Ấn độ. Bạn có bất kỳ thứ gì khác trong quốc gia này ngoại trừ chính trị? Tại sao không có thứ gì có tánh sáng tạo sâu thẳm?
“Tại sao đa số những người suy nghĩ ở Ấn độ giao phó họ cho sự đổi mới? Đổi mới là một sự việc nhỏ nhoi. Trong cái nhỏ nhoi, không bao giờ cái vĩ đại có thể được bao gồm. Trong cái vĩ đại, cái nhỏ nhoi có thể được bao gồm. Ở Ấn độ bất kỳ nơi nào tôi đi đến người ta đều hỏi tôi tại sao tôi không quan tâm đến nghèo đói, tham nhũng? Tôi hỏi, tại sao chúng ta không giải quyết những vấn đề này từ một góc độ khác? Chắc chắn do bởi sự tiếp cận thuộc chính trị mới gây biến dạng.
“Và tại sao những cái trí tạm gọi là thuộc tinh thần lại quan tâm đến sự đổi mới? Sự đổi mới sẽ không dẫn dắt đến cách mạng sâu thẳm.”
“Ông kết luận gì từ điều này?” Vinobaji hỏi.
“Không kết luận, nhưng quan sát,” Krishnaji trả lời. “Có một mâu thuẫn sâu sắc trong cái trí Ấn độ. Chúng ta nói về những lý tưởng và thực hiện những điều trái ngược. Chúng ta kiềm chế không trở thành cái gì đó bởi vì chúng ta cảm thấy chúng ta không nên tham vọng. Thế là sự tuyệt vọng dẫn đến sự đổi mới trên bề mặt và chúng ta theo đuổi điều đó đầy đam mê. Tôi nói, hãy hành động và quan sát kết quả. Nhưng truyền thống và những đạo sư lại nói những điều đối nghịch. Trong quốc gia này người ta thấy sự tuyệt vọng, sự mâu thuẫn, và ý thức của là một chủng tộc rất cổ xưa. Chúng ta tìm kiếm Thượng đế, nhưng chúng ta đã không sống sự sống. Đó có lẽ là lý do tại sao chúng ta hướng về những hời hợt, mà chúng ta gọi là ‘đổi mới.’ ”
“Ông được tán thưởng nhiều hơn ở Châu âu?”
“Tôi ghê tởm sự tán thưởng.”
“Họ hiểu rõ tư tưởng của ông nhiều hơn?”
“Nó cũng như vậy ở Ấn độ,” Krishnaji trả lời. “Vài cái trí có nghiêm túc. Người ta đánh giá chính trị rất nghiêm túc ở Ấn độ. Chính trị gây hủy hoại nhất. Khi người ta nói họ đang làm việc vì hòa bình, đổi mới, luôn luôn là “cái tôi” mà quan trọng. Những người tiếp xúc với chính trị không thể có một cái trí trong sáng. Thế giới cần những cái trí trong sáng, những cái trí sạch sẽ, không phải những cái trí bị quy định bởi là những người Ấn giáo hay những người Hồi giáo.
“Nếu bạn là một người Ấn giáo, bạn không thể thương yêu. Tình yêu cần đến tự do. Một ngày nào đó một khất sĩ đến gặp tôi. Ông ấy đã đến Amarnath. Ông ấy nói về vô số giáo phái của sadhus. Tôi hỏi ông ấy, ‘Họ làm gì?’ Ông ấy nói, ‘Không làm gì cả – nhưng họ biết Brahman. Họ sống một mình. Họ tham thiền.’ Tôi nói, ‘Với tất cả những niềm tin của họ, gánh nặng họ mang, họ không bao giờ có thể một mình.’
“Nhưng bạn phải một mình để tìm ra sự thật – hoàn toàn một mình. Điều đó quá khó khăn trong một xã hội cổ lỗ cùng sự nhấn mạnh của nó vào những đạo sư, truyền thống.”
Krishnaji chỉ vào những người vây quanh Vinobaji, “Tất cả những người này là những đệ tử của bạn? Quá tệ.”
“Tôi không biết tại sao họ là những đệ tử của tôi,” Vinobaji bình phẩm.
“Ở Ấn độ có một ham muốn cho uy quyền của một đạo sư. Họ cảm thấy rằng với sự hướng dẫn, họ sẽ không thất bại khi tìm kiếm sự thật. Họ không sẵn sàng để tạo ra những sai lầm. Tất cả đều quá trẻ con,” Krishnaji nói.
“Nhưng trẻ em, như họ là, là như trẻ em trở thành họ,” là sự bình phẩm của Vinobaji.
“Vậy thì hãy để cho Vinobaji khước từ đệ tử,” câu trả lời bật ra thật mau lẹ.
“Mọi con người đều nghĩ rằng sự tìm kiếm của anh ấy là độc nhất.” Vinobaji đang theo đuổi dòng chảy suy nghĩ riêng của ông.
“Tìm kiếm Thượng đế không liên quan đến sự thành công. Thượng đế có lẽ là một hiện diện mà không kết thúc. Cái trí kinh tởm ý nghĩ của không kết thúc.” Krishnaji nói.
“Ông có ý không mục tiêu của sự tìm kiếm? Ông không thể sục sạo để tìm được Thượng đế!” Vinobaji bị khích động.
“Vâng, ngược lại nó sẽ là một Thượng đế tầm thường. Người ta đi đến Amarnath để tìm ra Thượng đế. Nó có nghĩa gì? Chúng ta đã xua đuổi tình yêu, vẻ đẹp; xua đuổi sự suy nghĩ cá nhân, mọi hình thức của sự tò mò thuộc cảm xúc, thuộc trí năng và thay thế nó bằng sự chấp nhận của uy quyền, những hệ thống; không cho phép cái trí có không gian để tìm hiểu. Chúng ta đã làm gì cho sự sáng tạo thực sự này? Chúng ta nói rằng muốn nhận ra Thượng đế chúng ta phải khoác vào chiếc áo cà sa, khước từ tình dục, khước từ những tri giác, kiềm chế không nhìn ngắm những đám mây, thiên nhiên. Chúng ta nói rằng chúng ta phải tham thiền. Tham thiền như thế chỉ là sự thôi miên.”
“Vị trí của tôn giáo trong sự tiến bộ của một quốc gia là gì?” một trong những đệ tử của Vinobaji hỏi.
“Một quốc gia là gì? Xã hội là gì? – một liên hệ thuộc xã hội, thuộc văn hóa? Nếu liên hệ đó thay đổi, xã hội thay đổi.” Krishnaji ngừng một lúc, sau đó nói, “Sự khám phá của sự thật và sự liên hệ của nó đến sống hàng ngày của chúng ta là tôn giáo. Hiện nay không có người nào nói, ‘Tôi không là một người Ấn giáo, tôi không là một người Hồi giáo, nhưng là một con người, quan tâm đến toàn vấn đề của nhân loại, đến sự tàn phá quả đất, đến bom nguyên tử, đến tình huynh đệ.’ Đây là những vấn đề rất nghiêm túc và không có sáu người quan tâm đến chúng.”
“Nhưng tôi đã phát giác rằng cái trí Ấn độ lúc này đã sẵn sàng hơn bao giờ trước kia, để nắm bắt những ý tưởng mới mẻ, để thải hồi chủ nghĩa quốc gia và thoát khỏi một sống chật hẹp.” Vinobaji biện hộ.
“Tôi hiểu. Nhưng nó cần nhiều hơn thế nữa. Cái trí đã trở thành quá máy móc. Nó đòi hỏi và tìm kiếm một mục đích trong sống. Chúng ta theo những con đường dẫn đến một mục đích. Chúng ta không bao giờ chất vấn. Chúng ta quá được kính trọng. Nhưng người ta phải có một cái trí tự do, không phải một cái trí chất đầy truyền thống, đầy quá khứ. Sự tự do vô hạn được cần đến. Nhưng khoảnh khắc bạn nghĩ rằng bạn tự do, bạn không được tự do. Người ta phải tự-lật tung chính người ta, tháo gỡ người ta ra từng mảnh nhỏ, khoét sâu vào những ngõ ngách của cái trí người ta – đốt cháy cái trí.” Krishnaji đang đẩy vào sâu thẳm thêm và Vinobaji, có lẽ va chạm phải sức mạnh của năng lượng được sinh ra, dội ngược lại và rơi vào những vấn đề nhỏ nhen.
“Tôi được người ta bảo rằng ông đã không thực hiện những nói chuyện trước công chúng suốt một năm,” Vinobaji nói.
“Vâng, tôi đã không thực hiện những nói chuyện trước công chúng được một năm rồi. Tôi đã giữ yên lặng. Nhưng điều đó không phải do bởi tôi đã có bất kỳ những lời thề nào.”
“Tôi rất vui mừng khi được gặp ông ngày hôm nay. Tôi đã ao ước điều này. Ông có biết bất kỳ ngôn ngữ Ấn độ nào không?” Bàn luận đang trở thành bình thường.
“Tôi đã cố gắng học tiếng Hindi. Ngôn ngữ bản xứ của tôi là Telugu, nhưng tôi không còn nói nó từ khi tôi còn là một cậu trai.”
“Ông vẫn còn trẻ để học một ngôn ngữ,” Vinobaji nói.
“Tôi đang cố gắng học tiếng Phạn – chỉ cho vui thôi,” Krishnaji trả lời.
“Nếu ông nói tiếng Anh, chẳng có bao nhiêu người ở Ấn độ sẽ hiểu được,” Vinibaji nói. “Tôi biết, nhưng nếu bạn sử dụng những từ ngữ truyền thống, chúng có nhiều nghĩa rộng thuộc truyền thống và bạn không thể tiếp tục.”
“Những ý nghĩa rộng đều gắn kết đến những liên tưởng ngay cả những từ ngữ tiếng Anh,” Vinobaji nói.
“Đập vỡ nó,” đáp lại ngay tức khắc.
“Tôi phát hiện rằng khi ông diễn giải những từ ngữ tiếng Phạn sang tiếng Anh, ông phải thực sự hiểu rõ. Nhưng nếu ông diễn giả những từ ngữ tiếng Phạn sang tiếng Hindi hay Marathi, ông có thể giữ cùng từ ngữ mà không cần hiểu rõ chiều sâu của nó.”
Krishnaji và Vinobaji chia tay cùng những nụ cười cùng những cúi đầu chắp tay chào kính cẩn, và ngày hôm sau Krishnaji đáp lại tiếng gọi của Vinobaji. Vinobaji kể về những hành hương quà tặng đất đai của ông. Ông nói, “Thượng đế, người tôi tìm kiếm – ở khắp mọi nơi – tôi sẽ không đến Amarnath. Người ta nói rằng tôi đang không làm một việc đúng đắn, tôi nên đi. Swami Vivekanand đã đi đến đó.” Bàn luận ngày hôm trước đã chạm vào những phản ứng bản năng nào đó. Ông nói, “Ngày hôm qua, chúng ta đã có một nói chuyện quá tốt lành. Nó thật là khai sáng. Những suy nghĩ này đã dẫn dắt tôi suốt nhiều năm. Đã lâu lắm rồi từ khi tôi đến gặp Gandhi. Tôi đến gặp ông ấy khi tôi hai mươi tuổi. Tôi đến gặp và nghe. Ông ấy không bao giờ bảo cho tôi hay bất kỳ ai phải chấp nhận những suy nghĩ của ông ấy.”
“Hoàn toàn đúng,” Krishnaji nói.
“Hình như ông cũng có một cơ hội gặp ông ấy?”
“Ba lần – một lần ở London cùng Mrs. Besant.”
“Tôi không có bao nhiêu thời giờ đọc sách. Tôi vẫn đọc,” Vinobaji nói.
“Tôi ít khi nào đọc lắm, ngoại trừ một hay hai quyển tình cờ. Buổi sáng ông rời nhà sớm?” Lại nữa nói chuyện rơi vào mức độ bình thường.
“Bốn giờ rưỡi. Tôi dạo bộ mười dặm mỗi ngày,” Krishnaji nói.
“Ông viết sách?” Vinobaji tìm hiểu.
“Vâng,” Krishnaji trả lời.
“Ai in những quyển sách này?” Vinobaji hỏi.
“Những nói chuyện và những bàn luận được xuất bản ở Ấn độ.”
“Có nhiều người trong phong trào Bhoodan đã đọc những quyển sách của ông,” Vinobaji nói.
“Đó là điều gì Rao và Achyut đã kể cho tôi.”
Vinobaji chỉ vào Mahadevi Tai. “Cô ấy không biết tiếng Anh.”
“Tệ quá. Tôi không biết tiếng Hindi – thế là chúng tôi không thể trao đổi,” Krishnaji nói.
“Nhưng ông đang học tiếng Phạn – cho vui.”
“Nó rất hay, một ngôn ngữ tuyệt vời,” là câu trả lời của Krishnaji.
“Mọi từ ngữ trong tiếng Phạn được đặt nền tảng trên từ ngữ gốc nào đó. Tiếng Latin và tiếng Phạn đều cùng một gia đình. Từ ngữ ‘ignite’ của ông trong tiếng Phạn là agni, có nghĩa ngọn lửa. Từ ngữ gốc của cả hai đều giống hệt.”
Họ chia tay nhau thân thiện.
Sau đó, vào chiều ngày 14 tháng tám, Vinobaji nói với đám đông tụ tập để nghe ông tại Pahalgam. Một hướng khác hẳn được trình bày trong nói chuyện của ông, và ông công nhận rằng đây là sự ảnh hưởng bởi những gặp gỡ Krishnaji của ông. Ông nói rằng những con người như Krishnaji là những người bảo vệ – những tiếng nói và những tuyên bố của họ là những răn đe, và phải được lắng nghe nghiêm túc. Vài tháng sau, một người bạn sẽ kể với Vinobaji rằng Krishnaji đã nhận xét, “Vinobaji nói rằng ông ấy đồng ý với tôi, nhưng vẫn tiếp tục làm công việc trước kia của ông ấy. Thế là câu nói đồng ý của ông ấy chẳng có ý nghĩa gì cả.”
Vinobaji trả lời, “Krishnaji nói đúng.”
Nhiều năm sau Nirmala Deshpande kể cho tôi rằng Vinobaji đã nói, “Krishnamurti có lẽ phủ nhận vai trò Thầy Thế giới, khước từ nhà thờ được dựng lên cho anh, từ chối trọng trách của anh như đạo sư tối thượng, không chịu nhận là Krishna thiêng liêng; nhưng Dr. Besant không thể bị phủ nhận vai trò của bà như Yashoda, người mẹ nuôi của Krishna, người chăn dắt thiêng liêng.”
[1] Siddhas hay sittars, như chúng được biết đến ở Nam Ấn, bao gồm những người ảo thuật hay những người theo quyền năng tâm linh của Phật giáo, những người thức dậy của kundalini, cùng sự liên quan mật thiết giữa cây cỏ và những khóang sản. Khi phải đối diện bởi những người xâm lăng họ đã chạy trốn khỏi những tu viện Phật giáo của Vikram Sila và Nalanda, tìm kiếm nơi ẩn náu ở Andhra Pradesh và Tamilnada.
[2]
[3] Bal Gangadhkar Tilak là một người viết văn, một học giả, một trí thức Brahmin, và một người đấu tranh cho tự do. Một con người được kính trọng và ngưỡng mộ nhiều, ông đã bị kết án bởi chính phủ Anh do bởi xúi giục nổi loạn và bị bỏ tù ở Burma.
Bhagwat là một người triết lý, người đấu tranh cho tự do, và một người biên tập của một nhật báo quan trọng ở Marathi, Lok Shakti.
[4] Một nhắc nhở đến vị thánh nhân Phật giáo thế kỷ thứ hai mà dạy bám chặt vào “Con đường Giữa” cũng được hiểu là cách phủ nhận vĩ đại.
[5] Aghori Bawas ở trong số những người gây kinh hãi nhất của sadhushay những người thiêng liêng của Ấn độ.
Nath Panthis là những môn đệ của Gorakhnath, tác giả của chuyên luận đầu tiên về hatha yoga. Được sử dụng từ những giáo phái Hồi giáo và Ấn giáo, họ là những người lang thang, quan tâm đến những thực hành phép thuật và tôn thờ Shiva và Shakti. Họ được gắn liền với nhiều thần thoại cổ xưa khắp Bắc Ấn.
Bhajams là những bài ca hiến dâng được hát bởi những nhóm đàn ông hay đàn bà.
[6] Biên niên sử của cuộc đời Akbar và sự cai trị bởi Abul Fazl.
[7] Petromax: Trước khi Ấn độ có điện, những ngọn đèn dùng dầu hôi cùng loại bấc đặc biệt và có một cái bơm để điều chỉnh ánh sáng. Petromax vẫn còn được sử dụng ban đêm cho những nghi lễ cưới hỏi.
[8] Những dạng âm thanh được lặp lại hay mantrams được sử dụng để làm yên lặng cái trí.