Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

45. “Thời gian là gì?”

19/07/201114:19(Xem: 5211)
45. “Thời gian là gì?”

TIỂU SỬ CỦA KRISHNAMURTI
Krishnamurti's biography by Pupul Jayakar
Lời dịch: Ông Không
Tháng 4-2011

PHẦN 6

TÓM TẮT LỜI GIẢNG

1978-1985

CHƯƠNG 45

“Thời gian là gì?”

T

ừ đầu những năm 1960, Krishnaji đã quan tâm nhiều đến vấn đề của thời gian. Anh đã nói về nhiều kích thước của thời gian tại bàn ăn sáng, trên những dạo bộ, và trong những nói chuyện và những bàn luận của anh. Đầu tháng mười một năm 1983, khi chúng tôi ở cùng nhau trong căn nhà của tôi tại số 11 Stafdarjung Road, New Delhi, anh tiếp tục nghi vấn.

“Thời gian là gì?” Anh hỏi. “Liệu chúng ta có thể đơn giản và thâm nhập hết sức sâu thẳm vào bản chất của thời gian? Chúng ta biết nguyên một chuỗi của những chuyển động thời gian liên tục. Chúng ta biết thời gian vật chất và thời gian tâm lý như trở thành, và chuyển động của không-trở thành. Giữa ‘cái gì là’ và ‘cái gì nên là’ là thời gian. Thời gian vật chất là khoảng cách, từ đây đến đó. Bây giờ, liệu thời gian vật chất có liên quan phía bên trong với thời gian tâm lý?”

Tôi trả lời, “Bởi vì biết thời gian vật chất bằng đồng hồ, người ta vận dụng thời gian như một đến được, trong phía bên trong. Ảo tưởng là sự giới thiệu của khái niệm thời gian tâm lý vào phía bên trong và sự định hình cấu trúc của phía bên trong, dựa trên nền tảng của chuyển động thẳng của thời gian vật chất. Sự đo lường của trở thành là sự đo lường của thời gian phía bên trong.”

“Khi chuyển động phía bên ngoài được kéo dài sang những trạng thái tâm lý, ảo tưởng của thời gian len lỏi vào. Ý tưởng của sự tăng trưởng trong phía bên ngoài mở rộng vào phía bên trong.” Khi Krishnaji nói, anh đang lắng nghe thăm thẳm, đang lắng nghe chúng tôi và đang lắng nghe chính anh. Chính đang lắng nghe là một thâm nhập.

“Chuyển động của trở thành là ‘tôi nên là.’ Nó là một qui trình của ngụy biện dối trá; nó xây dựng từ ảo tưởng sang ảo tưởng. Cái trí trầm ngâm. ‘Cái gì sẽ hiện diện – sau đó cái gì sẽ xảy ra?” Những lo âu – những sợ hãi là bộ phận thuộc cấu trúc của nó.

“Bộ não kéo dài thời gian vật chất vào lãnh vực tâm lý phía bên trong, bởi vì bộ não bị quy định vào thời gian thẳng trong phía bên ngoài. Bởi vì nó bị quy định bởi điều đó, nó chấp nhận thời gian tâm lý trong phía bên trong. Tôi đang thâm nhập ảo tưởng đó mà quy định bộ não. Bộ não quen thuộc với chuyển động của trở thành. Nó tự-quan sát chính nó như một chuyển động trong thời gian. Nó vận hành trong ảo tưởng này. Bộ não được tiến hóa trong thời gian, và vì vậy quan sát mọi thứ dựa vào thời gian. ‘Tôi là, tôi đã là,’ được bổ sung thành, ‘Tôi sẽ là.’ Lúc này, tôi hỏi, nó như thế sao? Liệu có một ngày mai trong cái tinh thần?” Krishnaji hỏi.

“Có một ngày mai vật chất, vì vậy ngày mai tâm lý là không tránh khỏi,” tôi nói.

“Đó là sự tiếp tục,” Krishnaji xen vào.

“Tôi tồn tại; vì vậy sẽ phải có ngày mai. Tại sao những cảm giác mạnh mẽ của sợ hãi bị trói buộc trong sự chiếu rọi của ngày mai?” Tôi hỏi. Có sự yên lặng khá lâu.

“Không có thời gian,” bỗng nhiên Krishnaji nói. “Thời gian vật chất chúng ta biết như chuyển động. Không có cách nào đo lường thời gian vật chất nếu không có sự chuyển động. Nếu không có sự chuyển động trong cái tinh thần, như sự suy nghĩ, bánh xe của thời gian kết thúc.

“Hãy quan sát nó,” anh nói. “Chuyển động là thời gian. Chuyển động là sự suy nghĩ. Sự suy nghĩ là một qui trình vật chất. Điều đó đơn giản. Tại sao chúng ta gây phức tạp nó? Liệu bạn có thể chấp nhận nó thậm chí theo lý luận?”

“Nó có nghĩa gì khi chấp nhận một câu nói thậm chí theo lý luận?” Tôi hỏi.

“Để thấy rằng bất kỳ chuyển động thuộc tâm lý là qui trình của trở thành. Lúc này, liệu có một chuyển động nơi không-thời gian tồn tại?” Anh hỏi. “Nếu bạn ngồi trong một căn phòng tối, không-chuyển động, không-suy nghĩ, liệu có thời gian? Điều này cũng giống như thế trong phía bên trong. Khi không có suy nghĩ, không chuyển động trong thời gian, phía bên ngoài và phía bên trong là cùng chuyển động.”

“Có lẽ có một kết thúc của chuyển động vật chất trong bộ não, trong một khoảnh khắc, nhưng hành động của thời gian như kéo dài, như tiếp tục, là một hoạt động mà vận hành trong mỗi tế bào của thân thể tôi. Nó cũng hành động trong bộ não. Hành động của thời gian là không tránh khỏi.” Tôi nói.

“Bộ não là một vật của vật chất. Bộ não bị già nua. Nó bị hư hỏng. Câu hỏi là liệu bộ não cần bị hư hỏng?” Krishnaji thâm nhập.

“Nếu nó là một qui trình vật chất, vật chất như sự kiện rằng tóc của tôi bị già nua – nó phải bị hư hỏng. Làm thế nào có thể rằng một phần của cơ quan có thể không bị ảnh hưởng?” Tôi hỏi.

“Bạn nói bộ não bị lão suy. Lão suy là một tiến trình hóa già bởi thời gian. Đối với tôi bộ não cần phải không bao giờ bị già nua,” Krishnaji nói.

“Làm thế nào anh phân biệt giữa bộ não và những cơ quan khác? Làm thế nào bộ não, một mình nó, có khả năng cho mới mẻ lại?” Tôi hỏi.

“Liệu chúng ta đã rõ ràng từ ngữ thời gian có nghĩa gì? Nó là cùng chuyển động trong cả phía bên ngoài lẫn phía bên trong. Chúng không tách rời. Từ thiên niên kỷ sang thiên niên kỷ, chuyển động đó đã tiếp tục. Câu hỏi là: Liệu chuyển động đó có thể kết thúc? Chuyển động liên tục đó là suy nhược, là nhân tố của thoái hóa, cả phần các cơ quan thân thể lẫn cái tinh thần.”

“Bộ não thâu nhận những kích thích vật chất vì vậy nó sẽ luôn luôn phản ứng như chuyển động đối với thách thức,” tôi nói.

“Thâm nhập chầm chậm, thâm nhập chầm chậm,” Krishnaji nói. Có phản ứng và hành động – ngược lại bộ não là chết rồi. Nhưng trong chính nó hành động đó chẳng có ý nghĩa bao nhiêu.”

“Bộ não không thể bất động toàn bộ,” tôi nói. “Sự lão hóa nảy sinh bởi vì sự chuyển động hay sự ma sát?” Tôi hỏi.

“Chuyển động, như chúng ta biết nó, là sự ma sát. Chuyển động là nhân tố gây thoái hóa. Nó giống như một van đẩy trong một động cơ. Bất kỳ chuyển động nào trong bộ não thuộc vật chất đều bào mòn bộ não. Chính là qui trình tâm lý mới gây ảnh hưởng thân thể và bộ não. Không phải là cách ngược lại,” Krishnaji nói.

“Liệu có thể có chuyển động không ma sát?” Asit nói.

“Nếu không có chuyển động tâm lý, vậy thì chuyển động giống như ở trong không gian tuyệt đối, không có sự ma sát,” Krishnaji nói.

“Và tuy nhiên có chuyển động vô hạn trong không gian bên ngoài.”

“Khi chuyển động tâm lý không còn, thời gian như trở thành không còn. Nhưng người ta có thể ngồi rất yên lặng trong căn phòng tối suốt hai mươi năm và bộ não sẽ vẫn còn lão hóa – bởi vì sự suy nghĩ, như trở thành, tiếp tục vận hành. Nhưng khi sự suy nghĩ yên lặng, bất động, vậy thì cái tinh thần không có thời gian. Nếu không có chuyển động như sự suy nghĩ, không có trở thành. Trở thành tạo ra sự phân hai. Thế là, có xung đột, thoái hóa, thời gian. Thời gian là chướng ngại, là giới hạn. Chỉ một phi thuyền đang di chuyển không ma sát mới có thể đi đến cái vô hạn. Nếu sự ma sát như chuyển động, như thời gian tâm lý, kết thúc, liệu có một nhân tố của thoái hóa?” Krishnaji hỏi.

“Khi bộ não yên lặng, liệu thân thể vận hành một cách tự nhiên?” Asit hỏi.

“Vâng, thân thể có sự thông minh riêng của nó,” Krishnaji nói. “Liệu đây là một thực sự? Liệu bộ não có thể không chuyển động ngoại trừ chuyển động tự nhiên riêng của nó? Chuyển động tâm lý đang can thiệp vào thân thể. Liệu chuyển động đó có thể kết thúc? Luân phiên điều đó hàm ý, liệu có thể không có sự tích lũy thuộc bất kỳ loại nào?”

“Điều gì chỉ ra sự phủ nhận hay sự từ bỏ của tất cả thời gian như chuyển động?” Tôi hỏi. “Làm thế nào người ta nhận biết thời gian?”

“Tôi nhận biết nó khi có một thách thức,” Krishnaji nói.

“Bộ não vươn ra, nhìn về phía trước và về phía sau, và đưa ra những câu hỏi.” Tôi tiếp tục thắc mắc.

“Đó là chuyển động,” Krishnaji nói.

“Nhưng thật ra bộ não luôn luôn đang nhai lại,” tôi nói. “Khi bộ não không còn bị thách thức nghiêm trọng, nó lại đùa giỡn cùng chính nó. Nó nhai lại những kỷ niệm.”

“Bộ não là ký ức,” Krishnaji nói. “Hối hận, tội lỗi, là một chuyển động liên tục trong bộ não, như ký ức. Bộ não là ký ức, một chuyển động từ quá khứ sang hiện tại đến tương lai.”

“Sự tiếp tục là việc đó. Bộ não tạo ra ký ức. Nó đùa giỡn cùng chính nó?” Asit hỏi.

“Bộ não tồn tại nhờ vào ký ức,” Krishnaji nói.

“Chúng ta biết chức năng của quả tim. Nó bơm máu qua những động mạch và tĩnh mạch. Chức năng của bộ não là gì? Liệu nó tạo ra hiểu biết như ký ức được lưu trữ?” Asit hỏi.

“Chuyển động mà phải ngừng lại là gì? Hay anh nói tất cả chuyển động phải ngừng lại?” Tôi hỏi.

“Bộ não cảm thấy rằng trong ký ức là an toàn,” Asit nói.

“Trong sự kết thúc của chuyển động này, liệu một chuyển động mới mẻ hiện diện, mà khiến cho nó tuyệt đối an toàn? Liệu có một chuyển động phía bên ngoài thời gian?” Tôi hỏi.

“Đừng đưa ra câu hỏi đó,” Krishnaji nói. “Khi quả tim vận hành một cách tự nhiên, vì vậy bộ não có chuyển động riêng của nó – khi ký ức không can thiệp. Bộ não có chuyển động riêng của nó mà nó đã chồng chất ký ức. Lắng nghe,” anh nói, “quả tim không nhớ lại. Quả tim đập không cần hồi tưởng. Bộ não có thể vận hành mà không chuyển động, nếu được cho phép làm như thế bởi sự suy nghĩ. Quả tim không đập bởi vì sự hiểu biết.”

“Vẽ ra những tương tự giữa quả tim và bộ não là không đúng,” tôi nói. “Bộ não vật chất đã tiến hóa từ ký ức, từ khả năng và những trải nghiệm của con người. Nó chỉ có thể tồn tại qua hy vọng, tìm kiếm sự sinh tồn.”

“Bộ não dạy thân thể sinh tồn?” Asit hỏi.

“Bộ não mà chúng ta biết được xây dựng từ ký ức? Có một phần của bộ não mà người ta không nhận biết. Khi tổng thể của bộ não vận hành, nó không có những giới hạn,” tôi nói.

“Bộ não dạy những khéo léo của bàn tay. Chính suy nghĩ tạo ra ký ức để sinh tồn,” Asit nói.

“Toàn bộ não không bị kết nối với ký ức,” tôi nói.

“Bộ não đã tìm kiếm sự an toàn qua hiểu biết,” Krishnaji nói.

“Liệu bộ não đã trở nên to lớn hơn bởi vì khả năng này? Liệu sự thay đổi ở bên trong bộ não? Chắc chắn sự thay đổi không thể ở bên ngoài bộ não?” Tôi hỏi. “Cái gì thay đổi?”

“Hiểu biết đã khiến cho nền tảng của bộ não rất giới hạn. Hiểu biết đang phát giác rằng nền tảng của bộ não mà nó đã tạo ra không bền vững, và cảm thấy rằng sự ma sát như chuyển động phải cần thiết cho bộ não sinh tồn. Vậy là nó làm gì?” Krishnaji nói. “Nó thấy không có sự an toàn trong hiểu biết. Bộ não nhận ra nền tảng trong hiểu biết của nó là rất yếu ớt.”

“Liệu nó có thể thấy rằng có lẽ có một nền tảng hoàn toàn khác hẳn?” Asit nói.

“Bộ não, như nó vận hành, không bao giờ có thể buông bỏ quá khứ. Tất cả chuyển động của thời gian. Vì vậy tôi hỏi, liệu người ta vẫn còn ở trong căn nhà cũ kỹ?” Krishnaji hỏi.

“Khi tôi không chuyển động, không có nền tảng trên đó căn nhà cũ kỹ có thể nảy sinh. Chuyển động khỏi nền tảng không vững chắc sáng tạo nền tảng mới mẻ,” Asit nói.

“Bất kỳ chuyển động nào đều có nghĩa sự phân hai,” Krisnaji nói.

Asit tiếp tục, “Khi không có thời gian, không có không gian. Nếu không có chuyển động, không có thời gian. Khi không có gì trong không gian – không vật, không suy nghĩ – thời gian ở đâu? Nhưng điều gì tôi nói là tại mức độ thuộc trí năng.”

“Nếu không có đo lường, liệu nó là cùng bộ não mà vận hành không-chuyển động? Khi bộ não yên lặng, cái trí vận hành. Đó là thông minh của vũ trụ.” Krishnaji đã thực hiện một cú nhảy vô hạn, và chúng tôi bị rớt lại đằng sau quá xa. Chúng tôi không có những từ ngữ. Sau đó, tôi phá vỡ sự yên lặng. “Thông minh là một năng lực của bộ não?”

“Thông minh là cái mà thấy chuyển động của sự tiếp tục, thấy nó như qui trình của lão hóa. Thông minh mà thấy điều này, ở phía bên ngoài của bộ não,” Krishnaji nói.

“Nếu bộ não có thể vươn đến nó, ai hay cái gì mà thấy sự giới hạn của bộ não? Muốn thấy điều đó, cái trí phải có sự tiếp xúc cùng điều đó,” Asit nói.

“Bộ não trong vận hành của nó có thông minh riêng của nó. Bộ não bị giới hạn đó không có liên quan với cái khác lạ,” Krishnaji nói.

“Vậy thì, cái gì mà có thể kết thúc chuyển động của bộ não?” Asit hỏi.

“Đang nhận biết của nó, sự không thỏa đáng riêng của nó,” Krishnaji nói.

“Nếu bộ não chỉ là một chuyển động của thời gian, vậy thì cái gì thấy sự giới hạn riêng của nó?”

Krishnaji nói từ một yên lặng vô tận. “Bạn sẽ chấp nhận thấu triệt như sự vận hành của toàn bộ não?”

“Vậy thì sự vận hành của thấu triệt không kết nối với sự vận hành chật hẹp của bộ não?” Tôi hỏi.

“Một thấu triệt vào sự vận hành của sự giới hạn làm tự do cái trí khỏi sự giới hạn. Thấu triệt chỉ có thể nảy sinh khi không có ký ức, và thế là không thời gian,” Krishnaji nói. “Khi toàn bộ não đang vận hành, nó được tự do khỏi quá khứ. Thấu triệt là cái trí đang vận hành vào bộ não.” Lại nữa có yên lặng.

“Bộ não bị giới hạn. Làm thế nào cái trí có thể vận hành vào bộ não?” Tôi hỏi.

“K đã nhìn ngắm cẩn thận, mà không có động cơ. Trong đang nhìn ngắm đó, có chú ý vô cùng. Nó giống như ánh sáng đang tập trung. Chú ý, chiều sâu của nó, là cái trí. Chú ý đó tập trung ánh sáng vào những giới hạn của bộ não. Tình yêu ở phía bên ngoài của bộ não. Tình yêu không là một cảm xúc. Thấu triệt không là một cảm xúc. Nó không là một phản ứng. Chúng ta đã đến một kết thúc,” vị thánh nhân nói.

Tôi đang đi bằng máy bay từ New Delhi tới Bombay vào ngày 28 tháng mười hai năm 1983. Tôi đã và đang sửa chữa bản thảo của tôi, khi bỗng nhiên sự khác biệt giữa lời giảng và đối thoại trở nên rõ ràng. Ở phương Tây, đối thoại hiếm khi nào đóng một vai trò cốt lõi trong thức dậy sự thâm nhập tôn giáo. Nó đã được sử dụng trong luận văn về triết lý, những đối thoại của Socrates quan tâm đến sự khám phá về sự thật qua sự tìm hiểu lý luận tỉ mỉ và chính xác. Nhưng sự mãnh liệt của tìm hiểu đã được sản sinh bởi Socrates vẫn còn là một phương tiện phổ biến cho cái khung khuôn khổ của lý luận và lý trí. Tại khúc cuối của đối thoại, lý do được thiết lập. Còn những người tham gia khác thì sao – liệu hai dòng chảy đã trở thành một trong sự trôi chảy của họ? Liệu tất cả sự phân chia đã kết thúc?

Trong hầu hết mọi tôn giáo sự thật là một sự thật được tiết lộ, được thiết lập qua giáo điều, của kinh Bible hay Koran, sự chấp nhận nó được đặt nền tảng trên sự trung thành. Bất kỳ ám chỉ nào của nghi ngờ hay tìm hiểu đều được coi như là dị giáo; nguyên tắc này cũng áp dụng trong Cathars của Pháp, những giáo phái Coptic đầu tiên, Gnostics. Sự thật của giáo hội không là sự thật được nảy sinh từ sự nhận biết ban sơ và tự-thâm nhập và năng lượng được sản sinh bởi đối thoại.

Từ những thời gian xa xưa nhất, sự thâm nhập tôn giáo của Ấn độ đã hoàn thiện sự đối thoại như một công cụ của thâm nhập phía bên trong của những sự việc; sử dụng lý luận đến những giới hạn tột cùng của nó như một công cụ, nó có thể tự làm tự do chính nó khỏi lý luận và thâm nhập vượt khỏi.

Krishnaji đã trao cho sự đối thoại một chiều sâu và kích thước. Qua lắng nghe tại chiều sâu thăm thẳm, sự phân hai kết thúc và những cái cửa dẫn vào phía bên trong của cái trí và bản chất mở toang. Chất lượng, nhận biết, và những không gian của cái trí thay đổi. Nếu người ta theo dõi, trong đang lắng nghe một giảng đạo hay một giảng thuyết đều có một chấp nhận hay khước từ, thậm chí một nghi ngờ; sự suy nghĩ đang âm ỉ, bị đặt rải rác bởi suy nghĩ đang lang thang, bị trói buộc trong trở thành, như quá khứ hay tương lai.

Trong đối thoại tôn giáo nghiêm túc, tai khoáng đạt, năng lượng được tập hợp, những giác quan thức dậy, đang đồng thời vận hành; sự chú ý tràn ngập cái trí. Được giữ vững trong chú ý, cái trí nghỉ ngơi trong không phân biệt. Từ nền tảng này tất cả những đáp án đều có thể được. Muốn tham gia thăm thẳm, phải có lắng nghe thăm thẳm. Trong trạng thái này, người hỏi và người lắng nghe không còn những nhận dạng tách rời của họ.

Tôi bị lưỡng lự, không vững vàng về những hàm ý của điều gì đã nảy sinh. Khi đến Vasant Vihar, tôi nói cho Krishnaji về nó. Mau lẹ như thủy ngân, cái trí của anh nắm bắt toàn hàm ý của điều gì tôi đang dò dẫm. Anh hoàn toàn thức dậy, háo hức theo đuổi chủ đề, mở toang nó và thẩm thấu trong nghi vấn.

Chiều hôm đó chúng tôi bắt đầu bàn luận về bản chất của sự đối thoại mãnh liệt và vai trò của nó trong làm tự do bộ não khỏi thời gian.

Krishnaji nói, “Chúng ta sẽ bàn về thời gian và sự đối thoại như giữa hai con người tôn giáo. Tôn giáo trong ý nghĩa của những người được tự do khỏi tất cả truyền thống, tự do khỏi uy quyền, khỏi tất cả những hệ thống. Trong đối thoại như thế, có một nghi vấn và một đáp án; đáp án khích động một nghi vấn sâu thẳm hơn; và thế là nghi vấn cứ dồn dập tiếp tục. Trong đối thoại như thế có một trạng thái của đang lắng nghe nơi hai con người tan biến và chỉ còn lại nghi vấn.”

“Những đối thoại không cần có nghĩa hai con người,” tôi nói. “Tại cốt lõi, dường như ý nghĩa của nó là một thâm nhập vào cái gì đó qua một đang lắng nghe và đang thách thức tình huống. Tôi thấy rằng tất cả những vấn đề nảy ra trong bộ não đều được sinh ra bởi thời gian. Chúng nảy ra bởi vì nhu cầu phải thay đổi ‘cái gì là.’ Chuyển động của bộ não mà ao ước thay đổi ‘cái gì là’ thành cái gì khác tạo ra thời gian.”

“Thời gian vật chất là mặt trời mọc và mặt trời lặn,” Krishnaji nói. “Sự bao phủ từ một điểm đến một điểm khác. Thuộc tâm lý, thời gian là trở thành cái gì đó. Thời gian là toàn qui trình của sự tiến hóa, cả thuộc tâm lý lẫn vật chất.

“Câu hỏi của tôi là, liệu có một thời gian hoàn toàn khác hẳn? Thời gian như không-chuyển động? Thời gian như chúng ta biết nó là chuyển động, sự phân chia giữa một hành động và một hành động khác; thời gian là hy vọng, thời gian là chuyển động của quá khứ, sang hiện tại, đến tương lai. Thời gian là chuyển động của thành tựu, đạt được, trở thành. Thời gian là suy nghĩ về điều gì đó và hành động. Khoảng giữa là thời gian. Tôi đang hỏi. Liệu có một thời gian mà không phụ thuộc vào bất kỳ những bảng phân loại này?” Krishnaji đã lắng sâu trong nghi vấn.

“Anh giải thích thời gian mà anh nói không phụ thuộc vào bảng phân loại của chuyển động. Liệu nó phụ thuộc vào bảng phân loại của vật chất?” Tôi hỏi.

“Không như tôi hiểu rõ nó. Tôi đã được bảo rằng vật chất là năng lượng được thể hiện, được làm cho vững chắc. Thời gian như cái cây đang tăng trưởng,” Krishnaji nói.

“Bộ não là vật chất. Trong vật chất đó, sự tiến hóa phải tồn tại,” tôi nói.

“Dĩ nhiên. Chúng ta là những con khỉ; sau hàng triệu năm chúng ta là Những con người thông minh,” Krishnaji nói.

“Chúng ta liên kết sự tiến hóa đó với nội dung phía bên trong bộ não. Bộ não là vật chất. Sự tiến hóa vốn có sẵn trong bộ não. Nội dung của bộ não là ký ức. Chúng ta liên kết sự tiến hóa trong bộ não với sự tiến hóa trong ký ức.” Đang lắng nghe, sự phản ứng nảy ra.

“Tôi thấy điều gì bạn đang nói. Liệu ký ức đã tiến hóa qua một qui trình của sự tiến hóa?” Krishnaji hỏi.

“Vấn đề nảy sinh do bởi chúng ta áp dụng vào ký ức cùng những luật lệ như chúng ta áp dụng vào vật chất,” tôi nói. “Sự tiến hóa vốn có sẵn trong vật chất. Vấn đề là chúng ta thâu nhận nội dung của bộ não mà là ký ức và cảm thấy rằng có một thực thể mà có thể thay đổi nội dung đó. Toàn qui trình của trở thành là việc đó. Đó là thời gian của phía bên trong, thời gian của nội tâm.”

“Nhưng tất cả tiến hóa hàm ý thời gian,” Krishnaji nói.

“Chúng ta áp dụng sự tiến hóa, mà vốn có sẵn trong chất liệu của bộ não, vào nội dung của nó. Liệu có sự tiến hóa trong thời gian phía bên trong?” Tôi hỏi.

“Sự tiến hóa là thời gian.” Krishnaji không chuyển động.

“Nếu sự tiến hóa là thời gian, tại sao nó không nên áp dụng vào trở thành?” Tôi hỏi.

“Trở thành hàm ý thời gian. Tôi là điều này, tôi sẽ là điều kia. Pupulji hỏi liệu nội dung của bộ não là bộ phận của qui trình tiến hóa?” Anh đã hướng về những người khác.

“Không. Chính bộ não là một sản phẩm của thời gian như sự tiến hóa. Nhưng liệu nội dung của bộ não, mà đã là một tập hợp của trải nghiệm suốt hàng thiên niên kỷ, giống hệt với bản chất của chính chất liệu bộ não?”

“Rất đơn giản khi hiểu rõ rằng trở thành là ảo tưởng. Nhưng có cái gì đó còn nhiều hơn nữa. Anh hàm ý rằng có một thời gian phía bên ngoài của đồng hồ và một thời gian phía bên trong của trở thành. Sau đó anh hỏi: Liệu có một thời gian khác mà không phụ thuộc vào hai loại này? Thời gian và không gian là một. Thời gian và vật chất là một.” Tôi đẩy sâu.

“Thời gian là vật chất. Thời gian là năng lượng được thể hiện. Chính sự thể hiện là một qui trình của thời gian,” Krishnaji nói.

“Vậy là thời gian không thể tồn tại nếu không có sự thể hiện?” Tôi thắc mắc.

“Chúng ta biết thời gian như quá khứ, hiện tại, và tương lai,” Krishnaji nói.

“Chúng ta chiếu rọi thời gian vào tương lai. Điều gì là bản chất – sự nhận biết của tích tắc đó mà trong nó là sự thật?” Tôi hỏi.

“Tôi thấy rằng tương lai là quá khứ đang tự bổ sung chính nó trong hiện tại. Đó là thời gian. Tôi sẽ làm – tôi sẽ trở thành. Bây giờ, liệu có một hành động không-thời gian mà là sự nhận biết – hành động mà không có khoảng ngừng?” Krishnaji đã bắt đầu nghi vấn mà là sự khai mở của những lối vào.

“Cái gì được bổ sung trong hiện tại?” Tôi hỏi.

“Sự suy nghĩ,” Krishnaji nói.

“Liệu chúng ta có thể thâm nhập tích tắc đó khi sự bổ sung xảy ra?” Tôi hỏi.

“Tôi sợ rằng việc đó có lẽ xảy ra vào ngày mai. Ngày mai là cả hiện tại và ngày hôm qua. Hiện tại, ‘ngay lúc này,’ là cả quá khứ và tương lai,” Krishnaji nói.

“Liệu sự nhận biết trong hiện tại phủ nhận cả quá khứ lẫn tương lai?”

“Sự nhận biết đó đòi hỏi một kết thúc của quá khứ. Sự nhận biết là không-thời gian. Đúng chứ? Bạn nhận biết rằng bạn đầy ắp những thành kiến, hiểu biết, kết luận, những niềm tin và cùng điều đó bạn nhìn vào hiện tại và hiện tại đó được bổ sung bởi sự thách thức. Bạn có lẽ thay đổi nó, nhưng bạn vẫn còn trong cùng cánh đồng,” K đáp lại.

“Vâng, đây là một trạng thái nơi không có vị trí của sự nhận biết. Nhưng hiểu rõ thời gian mà không phụ thuộc vào dòng chảy này chắc chắn là hiểu rõ sự nhận biết của ‘ngay lúc này,’ ” tôi nói.

“Sự nhận biết không thuộc thời gian. Nó không chứa đựng quá khứ,” Krishnaji nói.

“Cái gì là ‘ngay lúc này’?”

“Tôi sẽ nói cho bạn. ‘Ngay lúc này’ là quá khứ và hiện tại. ‘Ngay lúc này’ là tất cả thời gian như thời gian quá khứ, thời gian tương lai, và thời gian hiện tại,” Krishnaji nói.

“Liệu người ta có thể trải nghiệm thời gian quá khứ? Liệu người ta có thể trải nghiệm thời gian tương lai? Đang trải nghiệm của tất cả thời gian là gì?” Tôi đang thách thức Krishnaji.

“Bạn không thể trải nghiệm điều đó. Trải nghiệm điều đó hàm ý người trải nghiệm, mà đang trải nghiệm trong thời gian.” Đáp lại đến thật mau lẹ.

“Vậy là, khi anh nói ‘ngay lúc này’ là tất cả thời gian – anh thực sự có ý gì?” Có một khoảng ngừng lâu. “Liệu có một hiệp thông thực sự cùng ‘ngay lúc này’?” Tôi hỏi.

“Quá khứ đã tạo ra hiện tại,” Achyut nói.

“Hiểu rõ điều đó quá dễ dàng. Tôi đang cố gắng khoét sâu thêm nữa. Krishnaji nói cả quá khứ lẫn hiện tại đều được chứa đựng trong ‘ngay lúc này.’ Tôi nói ‘ngay lúc này’ này là gì?” Tôi đang đẩy sâu hết sức.

Sunanda chen vào. “Pupul, nhìn nó nè. ‘Ngay lúc này’ là ‘cái gì là’ – toàn bộ quá khứ ở trong ‘cái gì là.’ ”

“Nhưng ‘cái gì là’ là gì?” Tôi hỏi.

“Làm thế nào anh khẳng định rằng quá khứ được chứa đựng trong hiện tại? Anh thực sự trải nghiệm nó, hay nó là một lý thuyết? Đây là nghi vấn của tôi.” Pupulji đang hỏi.

“Điều gì khiến cho anh nói quá khứ được chứa đựng trong hiện tại? Liệu nó là một ý tưởng, lý thuyết, hay anh có một thấu triệt vào nó?’ ” Krishnaji đang tự chất vấn chính anh.

“Chúng ta hãy thấy điều gì K đang nói,” tôi nói. “Anh hỏi, ‘Liệu có một thời gian mà không là thời gian thẳng, cũng không là thời gian của trở thành? Liệu có một thời gian mà độc lập khỏi cả hai thời gian này?’ ”

“Đó là tất cả,” Krishnaji nói.

“Chỉ sự nhận biết hay sự bộc lộ có thể sáng tạo nó trong hiện tại. Làm thế nào tôi tiếp cận ‘ngay lúc này’ của trải nghiệm?”

“Bạn không thể tiếp cận nó. Bạn không thể trải nghiệm nó. Bạn không thể hình dung nó.

“Thấy điều gì đã xảy ra. Bạn không thể trải nghiệm nó, nhưng bộ não của bạn bị quy định bởi sự trải nghiệm, bởi sự hiểu biết. Nó bị quy định bởi sự đo lường qua những từ ngữ. Cái này không thể được tiếp cận qua cách đó. Đúng chứ? Đó là cái trí tôn giáo. Nó đã xóa sạch những lý thuyết, những ý tưởng. Chúng ta đang giải quyết những thực sự. Đúng chứ? Đó là nơi sự thâm nhập tôn giáo bắt đầu.” Krishnaji đang ở tại tâm điểm của sự thâm nhập.

“Liệu có thể thâm nhập vào thời gian mà anh nói này?” Tôi do dự.

“Trong ý nghĩa rằng có thể anh có lẽ sử dụng những từ ngữ, nhưng những từ ngữ không là sự việc.”

“Anh không thể phân chia quá khứ, hiện tại, và tương lai bằng những từ ngữ?” Sunanda nói.

“Vâng. Nhưng nghi vấn vẫn còn,” Krishnaji nói.

“Vâng, nghi vấn vẫn còn. Đó là điều gì lạ thường. Nghi vấn vẫn còn, nhưng những người nghi vấn không còn,” tôi nói.

“Vâng, những người nghi vấn không còn hiện diện,” Krishnaji nói.

“Nhưng liệu nó chỉ là một nghi vấn bằng từ ngữ?” Radhika hỏi.

“Nghi vấn vận hành trên cái gì?” Asit hỏi.

“Chúng ta hãy thâm nhập. Chúng ta đang nói thời gian là sự tiến hóa. Thời gian là trở thành. Thời gian là từ đây đến đó – thuộc vật chất và thuộc tâm lý. Chúng ta biết qui trình của trở thành và không-trở thành đó – tích cực và tiêu cực – và chúng ta tiến tới theo những giới hạn này suốt sống của chúng ta. Sau đó, người nào đó xuất hiện và hỏi, ‘để làm gì vậy?’ Anh ấy đã để lại cho tôi cùng nghi vấn đó. Chúng ta nghiền ngẫm nó và nói, ‘Chúng ta hãy quan sát nó, chúng ta hãy tìm ra.’ Chúng ta thấy có thời gian giữa thấy, suy nghĩ, và hiện diện. Khoảng giữa đó là thời gian. Nó ở trong lãnh vực của thời gian. Bạn cũng thấy rằng tất cả thời gian được chứa đựng trong hiện tại. Sau đó Pupul hỏi, ‘Liệu chúng ta có thể thâm nhập vào hiện tại?’ Tôi nói, ‘Không.’ Nếu bạn trải nghiệm nó, người trải nghiệm là quá khứ và chính trải nghiệm lại thuộc về thời gian. Trạng thái của bộ não mà đã xóa sạch tất cả những lý thuyết và những phỏng đoán là gì? Trạng thái của bộ não mà thấy sự nhận biết và hành động như một là gì? Nó thấy rằng không có khoảng giữa, và thế là không-thời gian. Sự nhận biết được tự do khỏi thời gian. Trạng thái đó mà là ‘ngay lúc này’ là gì? Sự nhận biết là ‘ngay lúc này.’ Sự nhận biết không thuộc thời gian. Không có ‘tôi sẽ học hành để nhận biết.’

“Sự nhận biết là gì? Nó không thuộc thời gian. Liệu người ta có thể trải nghiệm cái đó? Không thể được. Sự nhận biết không có người nhận biết. Sự nhận biết là ‘ngay lúc này’ – vì vậy nó không-thời gian. Vì vậy hành động được sinh ra từ sự nhận biết là không-thời gian.” Nghi vấn đã nở hoa.

“Thế là, trong sự nhận biết đó, quá khứ và tương lai hoàn toàn bị triệt tiêu?” Tôi do dự hỏi.

“Sự nhận biết về cái gì?” Asit hỏi.

“Sự cần thiết phải cho sự nhận biết đó nhận biết là gì, thưa anh?” Sunanda hỏi.

“Trong trạng thái của đối thoại,” chúng tôi đưa ra câu hỏi.

“ ‘Ngay lúc này là gì,’ Krishnaji nói, ‘Nó chứa đựng quá khứ, hiện tại, và tương lai.’ Sau đó bộ não hỏi, ‘Làm thế nào tôi hiệp thông cùng nó?’ Và anh ấy nói, ‘Nó không thể được hiệp thông. Chỉ có thể có sự nhận biết.’ Lúc này đang lắng nghe, đang thâu nhận của sự nhận biết đó xóa sạch quá khứ và hiện tại.” Tôi đang ngập ngừng cảm giác đường vào nghi vấn.

“Bạn thấy, nó đang xảy ra ngay lúc này. Đang lắng nghe không thuộc thời gian. Nếu tôi lắng nghe, nó là ‘ngay lúc này.’ Đang lắng nghe không có thời gian. Vì vậy không có thời gian ngang.” Krishnaji nói.

“Vậy thì, nghi vấn là gì?” Asit hỏi.

“Từ nghi vấn, lắng nghe nảy ra; từ lắng nghe, nghi vấn nảy ra,” tôi nói.

“Đừng lý thuyết.” Thật mau lẹ Krishnaji thấy rằng đáp lại của tôi thiếu chiều sâu.

“Tôi không đang lý thuyết.”

“Sự nhận biết là không-thời gian.”

“Vậy thì tôi đặt ra cho anh một nghi vấn. Liệu có thể thâm nhập?” Tôi hỏi.

“Tôi nói, có. Trong thâm nhập cái trí tự loại bỏ khỏi tất cả những ý tưởng, tất cả những lý thuyết, tất cả những hy vọng, những ham muốn. Lúc này nó ở trong một trạng thái của tinh khiết. Trong trạng thái đó bạn có thể thâm nhập. Tôi bảo bạn, ‘Tình yêu không thuộc thời gian.’ Bạn lắng nghe như thế nào? Phản ứng của bạn là gì? Bạn nghe những từ ngữ, những từ ngữ có ý nghĩa. Bạn diễn giải nó tùy theo khả năng của bạn. Liệu bạn có thể lắng nghe sự thật của câu đó mà không có từ ngữ?” Krishnaji hỏi.

“Anh không thể lắng nghe sự thật của câu đó. Anh lắng nghe những từ ngữ,” Asit nói.

“Từ ngữ không là sự việc,” Krishnaji nói.

“Tôi lắng nghe từ ngữ, nhưng không hiểu rõ,” Asit lặp lại.

“Hãy thâm nhập, có một đối thoại cùng tôi.” Krishnaji đang cuốn hút về anh những người lắng nghe.

“Liệu tôi được phép nói điều gì đó, anh lắng nghe như thế nào? Đó không là nghi vấn quan trọng hay sao?” Tôi hỏi.

“Anh không thể lắng nghe những từ ngữ mà không diễn giải chúng,” Asit nói.

“Trong một đối thoại cùng Krishnaji bạn lắng nghe mà không có sự suy nghĩ đang vận hành, và tuy nhiên lại hiểu rõ trọn vẹn điều gì anh ấy đang nói. Có một đang lắng nghe tại chiều sâu thăm thẳm, đến độ nó mở toang nghi vấn,” tôi nói.

“Cô có ý gì qua từ ngữ hiểu rõ?” Sunanda hỏi.

“Liệu cô có thể có một đối thoại cùng nghi vấn, ‘Tình yêu không thuộc thời gian’?”

“Đừng diễn đạt bằng từ ngữ. Tất cả chúng ta đều được giáo dục để sử dụng cao độ trí năng. Một người nghèo hèn dường như không sáng sủa, anh ấy sẽ hiểu rõ một câu nói đơn giản,” Krishnaji nói.

“Làm thế nào có thể có sự nghi vấn trong một trạng thái của chú ý?” Asit hỏi.

“Chỉ lắng nghe. Bạn bảo tôi, ‘Tình yêu không thuộc thời gian.’ Đối với tôi, đó là một sự kiện lạ thường. Tôi nói, tôi thực sự không hiểu rõ nó, và bạn bảo tôi rằng tôi sẽ không hiểu rõ nó, theo cách tôi muốn hiểu rõ nó. Bạn nắm được điều gì tôi đang nói? Bạn muốn hiểu rõ nó qua qui trình trí năng, qua tranh luận, qua một qui trình thuộc từ ngữ của phản ứng. Nhưng bạn sẽ không hiểu rõ nó theo cách đó. Bạn nói, ‘Đó là dụng cụ duy nhất mà tôi có.’ Tôi nói, có một dụng cụ hoàn toàn khác hẳn. Bạn yêu cầu, ‘Bảo cho tôi về dụng cụ đó.’ Tôi nói, ‘Loại bỏ khả năng của bạn, hiểu biết của bạn mà là thời gian.’ ” Krishnaji nói.

“Anh đang nói, ‘Loại bỏ dụng cụ trí năng của anh,’?” Asit hỏi.

“Dĩ nhiên, không,” Krishnaji nói. “Tôi nói, ‘Gạt đi hiểu biết.’ Hiểu biết là sự tiến hóa. Liệu có một hiểu rõ, một thấu triệt, một nhận biết tức khắc, mà không có từ ngữ, mà không mang tất cả hiểu biết vào nó? Tôi nói, có. Liệu có thể có một trạng thái nơi có sự nhận biết thuần khiết về cái gì đó và liệu bạn có thể thâm nhập vào sự nhận biết đó?”

Những bàn luận về thời gian sẽ tiếp tục ở Madras. Ngày 4 tháng giêng năm 1984 tại một hội thảo ở Vasant Vihar, chủ đề được bàn luận lại. Professor George Sudarshan và Pandit Jagannath Upadhyaya có mặt.

“Nghi vấn đã được đưa ra bởi người bạn của chúng ta về vận hành của những loại thời gian khác nhau. Đó là, liệu có thời gian mà đang hoạt động, mà vận hành ngay cả khi trở thành không còn tồn tại? Rằng khi nguyên nhân và hậu quả đã kết thúc, khi qui trình thông thường của gây nguyên nhân, của ký ức và hy vọng, mong đợi – tất cả nền quá khứ được tích lũy qua suốt sống của người ta hay thậm chí còn trước đó – đã bị từ bỏ, buông rơi: Liệu vẫn còn có một loại thời gian trong đó những sự kiện khai mở?” George Sudarshan bắt đầu, triển khai câu hỏi.

Tôi thêm vào, “Krishnaji cũng nói về sự nảy sinh của một nhận biết mà cùng lúc phủ nhận chính sự nhận biết đó, một đồng thời của nảy sinh và phủ nhận; và bản chất của thời gian là gì, trong liên quan đến ‘ngay lúc này’?”

“Chúng ta đã nói, ‘Hiện tại, mà là quá khứ, cũng là tương lai.’ Chúng ta cũng đã nói rằng thời gian không những là trở thành, mong đợi, hy vọng, nhưng thời gian cũng còn là đang bám chặt – ý thức của sở hữu, ý thức của tích lũy hiểu biết và sống cùng hiểu biết đó; đó cũng là thời gian. Và chúng ta đã hỏi: Liệu có bất kỳ chuyển động thời gian nào khác nữa? Liệu chuyển động của sự suy nghĩ là một qui trình vật chất; sự suy nghĩ mà cũng là chuyển động? Vì vậy, thời gian và sự suy nghĩ là giống hệt nhau. Có thời gian vật chất, từ đây đến đó.

“Lúc này, bạn đang đưa ra một nghi vấn: ‘Liệu có một không-chuyển động khi người ta đã thoát khỏi thời gian tâm lý? Liệu có một chuyển động mà hoàn toàn khác hẳn chuyển động của thời gian sự và suy nghĩ?” Người Thầy đã bắt đầu sự thâm nhập.

“Anh nói về bộ não không còn vận hành, hay cái trí không còn vận hành?” Sudarshan dò hỏi.

“Tôi muốn tách rời bộ não và cái trí. Bộ não bị quy định. Cái trí ở phía bên ngoài bộ não. Cái trí, đối với tôi, là cái gì đó hoàn toàn không liên quan đến bộ não bị quy định và vì vậy là cái gì đó không thể đo lường được bởi những từ ngữ hay bởi sự suy nghĩ. Ngược lại, hoạt động của bộ não và sự lãng phí của hoạt động bộ não lại có thể đo lường được và sự đo lường là thời gian. Bây giờ, bất kỳ vận hành nào đang nảy sinh từ hiểu biết được tích lũy là cái đã được biết – như cái tôi, sự vị kỷ của tôi, hoạt động tự-cho mình là trung tâm của tôi. Bây giờ, liệu có thể không tự-cho mình là trung tâm? Liệu người ta có thể đưa ra nghi vấn này: Người ta có thể được tự do khỏi cái tôi, toàn bộ?

“Cái ngã, ‘cái tôi,’ là sản phẩm của thời gian – sự tiến hóa. Nó là hoạt động của bộ não tự-cho mình là trung tâm như vị trí của tôi, quyền hành của tôi. Nó là ‘cái tôi.’ Chừng nào còn có ‘cái tôi’ đó mà là hiểu biết, ký ức, trải nghiệm được tích lũy, có sự giới hạn của thời gian,” Krishnaji nói.

Jagannath Upadhyaya hỏi, “Người ta có lẽ nói về thời gian trong bất kỳ cách nào người ta ưa thích – thời gian như sự suy nghĩ, thời gian như sự chuyển động, vân vân. Có thời gian như sinh ra và thời gian như chết đi, mà là qui trình của trở thành trong đó chúng ta sống. Nhưng đằng sau nó, liệu có cái trí, trong đó không có sinh ra và chết đi? Nếu có như thế, vậy thì nó ở bên ngoài chúng ta, người ta không thể làm bất kỳ điều gì về nó. Chúng ta không thể hành động dựa vào nó hay thâm nhập nó?”

“Không, chúng ta không thể. Chừng nào cái ngã, ‘cái tôi,’ còn đang sinh ra, chết đi, sinh ra, kết thúc, và tiếp tục sinh ra lại, qui trình liên tục của trở thành này là thời gian.”

“Không chỉ trở thành nhưng còn hiện diện,” Người Phật giáo giải thích.

“Khi Upadhyaya nói về hiện diện, anh ấy có ý ‘Tôi là.’ Có một trở thành, nhưng cũng có ý thức của ‘Tôi là.’ ” Radha Burnier đã tham gia vào đối thoại.

“Chúng ta thấy qui trình này của sinh ra, trở thành – suy nghĩ sinh ra, suy nghĩ kết thúc – khi qui trình này kết thúc, điều gì xảy ra?”

“Làm thế nào bạn biết nó kết thúc?” Krishnaji hỏi.

“Giải thích đơn giản nó, khi trở thành kết thúc, liệu có Hiện diện?” Radhaji tiếp tục.

“Bạn có ý gì qua từ ngữ Hiện diện?”

“Ý thức của ‘Tôi là,’ ” Achyut gợi ý.

“Đang tồn tại,” tôi chen vào.

“Đang tồn tại là gì? Khoảnh khắc bạn thừa nhận bạn đang sống, bạn khởi động sự vận hành toàn qui trình của cái tôi.”

“Không, tôi sẽ không chấp nhận điều đó,” tôi nói. “Cùng kết thúc, trở thành kết thúc. Đối với hầu hết chúng ta, một chiếu rọi suy nghĩ có thể kết thúc, mà là cho trở thành kết thúc. Nhưng trạng thái đó không là một sự việc chết rồi. Nó là một trạng thái của đang sống.”

Sudharshan tìm hiểu, “Khi anh nói về Hiện diện, liệu nó là một câu nói về một điều kiện hay chức năng hay anh đang nói về một vật? Nếu nó là Hiện diện, qua định nghĩa nó là một vật.”

“Tôi không đang nói về Hiện diện như vật.”

“Vậy là, khi anh nói về đang sống hay Hiện diện, đến mức độ không có sự tách rời giữa một người đang biết và phần còn lại, đến mức độ có vyaapati, sự đồng hóa tuyệt đối, mà không khẳng định bất kỳ điều gì cho chính anh, không có sự tách rời giữa chính anh và bất kỳ thứ gì khác,” Sudharshan nói.

“Tại sao anh phủ nhận Hiện diện? Hiện diện trong ý nghĩa rằng cái gì đó ‘là.’ Anh nói không-có gì cả?” Tôi hỏi.

“Không có sự khác biệt giữa Hiện diện và trở thành. Khi trở thành kết thúc, hiện diện kết thúc,” Pandit đáp lại.

“Vâng,” Krishnaji nói.

“Trở thành và hiện diện là giống hệt. Nơi nào có trở thành và hiện diện, có cái tôi cùng tất cả những hoạt động của nó, vân vân, và khi nó kết thúc, điều đó cũng kết thúc. Nhưng khi có sự kết thúc của tất cả điều này, của sự suy nghĩ, vân vân, vậy thì liệu còn có cái gì đó mà duy trì, trong nó mọi thứ được duy trì?” Jagannath Upadhyaya hỏi.

“Nếu tôi được phép hỏi, sự phân biệt ông nêu ra giữa trở thành và hiện diện là gì?” Tôi hỏi Pandit.

“Trong tiếng Phạn chúng không là hai từ ngữ. Bhava nghĩa là cả hiện diện lẫn trở thành,” Radhaji giải thích.

“Panditji nói rằng điều gì anh gọi là thông minh không liên quan đến trí năng. Chỉ khi nào trí năng này công nhận rằng nó bị phân chia và bị giới hạn thì nó mới kết thúc và thông minh được sinh ra,” Achyut nói.

“Tôi muốn thâm nhập vào trở thành và hiện diện thêm một chút xíu nữa. Hiện diện là một trạng thái của không-phân biệt.”

“Tại sao bạn phân biệt giữa hiện diện và trở thành?” Krishnaji thắc mắc.

“Có một trạng thái từ đó những sự vật sinh ra và vào nó những sự vật tan biến,” tôi nói.

“Cái tôi là gì?” Krishnaji hỏi.

“Trong một trạng thái của chú ý, một trạng thái của nhận biết, có gì?” Tôi thắc mắc.

“Trong chú ý, không có cái tôi,” Người Thầy nói.

“Vậy thì, bản chất của chú ý là gì?” Tôi hỏi.

“Liệu bạn đang hỏi bản chất của chú ý là gì, hay liệu có một nền tảng hay một tầng từ đó chú ý nảy ra?” Radhaji hướng về tôi.

“Chú ý không có nền tảng,” Krishnaji đưa chúng tôi trở lại nghi vấn trọng điểm.

Người khoa học Sudarshan bắt đầu thâm nhập. “Có hai loại vận hành trong vũ trụ vật chất. Một loại là một vận hành được liệt vào những sự kiện riêng rẽ trong đó bạn có một tuần tự theo thời gian, bạn có một chuỗi của những sự kiện, và sau đó bạn đặt ra những luật lệ liên quan đến những sự kiện. Và thế là bạn nói gió được gây ra bởi những khác biệt trong nhiệt độ, và bạn thấy một sự kiện đang gây ra một sự kiện khác mà đang gây ra một sự kiện khác, và bạn có thể hiểu rõ nhiều sự kiện. Tiếp theo có một loại vận hành khác trong nó bạn không phân biệt, ví dụ, một vật đang chuyển động tự do; và nó là một khám phá phi thường của vật lý khi người ta quyết định rằng chuyển động tự do không đòi hỏi một giải thích. Bạn không hỏi tại sao nó liên tục đang chuyển động; bạn quy cho nó là bản chất của những vật, bạn nói rằng chính là bản chất của những vật mà phải chuyển động. Và người ta có thể mở rộng, tổng quát phạm vi của quy luật để cho, trong một ý nghĩa nào đó không hệ thống nào vận hành mà không có quy luật này. Một hệ thống được cô lập – được cô lập trong ý nghĩa rằng không có cái khác; một hệ thống hoàn toàn không có lịch sử, không có những sự kiện trong nó. Những sự kiện hiện diện khi bạn đang đặt hệ thống mà đang vận hành một mình nó, vào phía bên trong ma trận của cái gì đó, và sau đó bạn nói cái gì đó mà đang chuyển động trong một khuôn mẫu khép kín, chắc chắn phải là không tự nhiên bởi vì chúng ta thích suy nghĩ thẳng. Thế là chúng ta đặt ra câu hỏi: Tại sao nó không đang chuyển động thẳng? Thế là thời gian tuần tự của khai mở xảy ra khi bạn có một hệ thống không hoàn chỉnh, không hoàn chỉnh trong ý nghĩa rằng có những lý tưởng cho sự vận hành riêng biệt của hệ thống, mà không là phía bên ngoài đối với hệ thống, và khi bạn đo lường sự thực hiện thực sự của hệ thống dựa vào những lý tưởng này, vậy là bạn nói về những sự kiện đang xảy ra và thời gian tuần tự. Nhưng khi hệ thống được hoàn chỉnh bên trong chính nó, nó không có đặc điểm, nhưng vận hành của nó không có thời gian tuần tự, không có những sự kiện bên trong chính nó. Rủi thay, chúng ta quá quen thuộc với ý tưởng của thời gian tuần tự đến độ sự tiến hóa tự nhiên luôn luôn gây rất bối rối: một tiến hóa trong đó không có những đang xảy ra. Vì vậy, bất kỳ khi nào có một chuyển động mà chứa đựng những sự việc đang xảy ra nhưng với nó chúng ta không thể đặt ra nguyên nhân và hậu quả xác định, chúng ta cảm thấy rất lo lắng, chúng ta cảm thấy rằng chúng ta không hoàn toàn hiểu rõ. Chúng ta muốn phá vỡ nó, tách rời nó.

“Hai loại có thể xảy ra thực hiện của khai mở này có lẽ được sử dụng hữu ích như những mẫu mực cho bàn luận này. Có một loại thời gian – thời gian vật chất trong đó những sự kiện xảy ra, trong đó luật lệ thứ hai của nguyên nhân và hậu quả xảy ra. Một thời gian khác trong đó bạn không thể nói nguyên nhân là gì và hậu quả là gì, bởi vì không có sự phá vỡ của những sự kiện liên quan đến điều đó.” Sudarshan ngừng nói.

“Điều đó xảy ra khi nào?” Krishnaji hỏi.

“Khi hệ thống không có những lý tưởng để so sánh với chính nó,” Sudarshan nói.

“Mà có nghĩa gì?” Krishnaji đang đẩy sâu.

“Chúng ta nói đến nó như một hệ thống khép kín, nhưng chúng ta có ý nó có lẽ là một hệ thống hoàn chỉnh,” Sudarshan.

“Trong tất cả những hệ thống – hành chánh, khoa học, tôn giáo – liệu có sự hư hỏng, sự thoái hóa cố hữu?” Krishnaji tìm hiểu.

“Có.”

“Vậy là, chừng nào bộ não còn là tập thể, nó hình thành một hệ thống.”

“Hoàn toàn đúng.”

“Vậy là, trong tập thể là một qui trình cố hữu của hư hỏng, thoái hóa xảy ra?” Krishnaji dò dẫm.

“Krishnaji, tôi băn khoăn về sự chú ý của anh đối với bộ não. Bộ não cũng là bộ phận của hệ thống vật chất và tôi không cần phải quá chú ý đến bộ não của tôi nhiều hơn chú ý đến cây cối và chim chóc,” Dr. Sudarshan nói.

“Không,” Krishnaji nói.

“Thỉnh thoảng tôi sử dụng chúng, nhưng sau đó thỉnh thoảng tôi cũng sử dụng cái cây. Vì vậy tại sao tôi phải cảm thấy quá quyến luyến đến điều gì xảy ra trong bộ não của tôi – những làn sóng suy nghĩ và sự vận hành của những quan hệ liên kết khác nhau và vân vân? Liệu tôi có nên quá quan tâm về bộ não đang làm gì?” Sudarshan hỏi.

“Chừng nào bộ não của tôi còn bị quy định, bộ não trở nên rất bị giới hạn. Bộ não có một khả năng vô hạn, và khả năng đó đang bị khước từ bởi sự giới hạn riêng của nó. Bạn là một người khoa học và tôi không. Bạn đã thâu lượm vô số hiểu biết và có những thấu triệt thỉnh thoảng vào điều gì đó. Bạn liên tục chuyển động, liên tục thêm vào. Thêm vào này là nhân tố của bị quy định. Chắc chắn. Và vì vậy bộ não trở nên bị giới hạn và sự thêm vào đó là cái tôi. Chúng ta sẽ không đi vào những thuật ngữ khác biệt. Chừng nào cái tôi còn ở đó, cái tôi là một hệ thống, cái tôi là một nhân tố của sự thoái hóa,” Krishnaji nói.

“Điều gì chúng ta gọi là ‘cái ngã’ liên quan đến cái ngã nhỏ chứ không phải ‘Đại Ngã,’ ” Sudarshan nói.

“Cái ngã là cái tôi, không có Đại Ngã hay cái ngã nhỏ. Tôi đang sử dụng nó chỉ trong một ngữ cảnh, ‘cái ngã nhỏ.’ Đối với tôi, không có ‘Đại Ngã,’ ” Krishnaji nói.

“Quay lại điều gì Pupulji đã nói, thưa anh, anh đã nói rằng chú ý không có nền quá khứ,” Radhaji nhắc lại.

“Đây là một người khoa học. Đối với bạn chú ý là gì, thưa bạn? Hãy đơn giản.” Krishnaji quay về Sudarshan.

“Ồ, tôi sẽ nói chú ý là khi không có sự tách rời, khi không có sự nhận dạng của bất kỳ thứ gì, gồm cả sự nhận biết về bất kỳ thực thể nào. Chú ý là một, trong đó không có những mong đợi và không có những kỷ niệm.”

“Mà có nghĩa gì? Không có nền quá khứ?” Krishnaji hỏi.

“Không-nền quá khứ. Tôi cảm thấy rằng đó là câu nói đơn giản nhất. Trong chú ý không có nền quá khứ bởi vì nền quá khứ đảm đương một ma trận, một lý tưởng. Trong chú ý không có so sánh. Chú ý là một mà không có thứ hai,” Sudarshan nói.

“Khi có chú ý, không có nền quá khứ. Chúng ta đang bàn luận thời gian. Tôi nói tình yêu không có thời gian. Tình yêu không có những hồi tưởng. Tình yêu không là hoạt động của ham muốn hay vui thú. Hoạt động của ham muốn và vui thú dính dáng thời gian. Tình yêu không có thời gian,” Krishnaji.

“Đây là một đột biến mãnh liệt,” tôi diễn giải.

“Nó là một Brahmastra. Nó là một vũ khí mà tiêu diệt mọi thứ,” Upadhyaya thêm vào.

Nhưng Krishnaji sẽ không chấp nhận câu nói này. Nó có thể tiếp cận được,” anh nói. “Tôi không đặt cái gì đó trên một đỉnh tháp nhọn và sau đó nói nó không thể tiếp cận được.”

“Tình yêu có một nảy sinh và một kết thúc?” Pandit hỏi.

“Không. Nếu có một nảy sinh và kết thúc, nó không là tình yêu.”

“Vậy là nó vượt khỏi sự bàn luận,” Upadhyayaji nói.

“Một đối thoại là gì? Một đối thoại là – bạn hỏi và tôi trả lời; thế là, bạn và tôi được quên bẵng. Chúng ta không hiện diện. Chỉ còn lại nghi vấn. Và nếu bạn để lại nghi vấn, nó nở hoa, nó có sức sống, nó trao tặng một đáp án,” Krishnaji nói. “Liệu Panditji đã hiểu rõ đáp án của tôi?”

“Ông ấy đồng ý điều gì anh nói – rằng có một nghi vấn và một đáp án trôi chảy, nhưng ông ấy nói, “Cái này có liên quan gì đến tình yêu?’ ” Radha Burnier nói.

“Tôi đưa ra một câu nói – ‘Nơi nào tình yêu hiện diện, thời gian không hiện diện.’ Bạn lắng nghe, bạn hỏi nó, và tôi trả lời. Có một kết nối, cả bằng từ ngữ lẫn không-từ ngữ, và nghi vấn còn lại, sự kiện còn lại. Nếu bạn thả cho nó còn lại, nó bắt đầu chuyển động.”

“Anh nói tình yêu không có thời gian,” tôi hỏi.

“Thấy vẻ đẹp của nó.”

“Nó là một nghi vấn hay và không đáp án nảy sinh đối với nó, nhưng vẫn còn lại nghi vấn,” tôi nói.

“Vậy thì ở cùng nó. Pupulji, nhận một bông sen, nhìn ngắm nó.”

“Tôi nhìn ngắm.”

Có một khoảng ngừng vô tận. Sau đó Radha Burnier hướng về Jagannath Upadhyaya và nói, “Trong nhìn ngắm không có nghi vấn.”

“Tôi không biết làm thế nào để trả lời nghi vấn của Krishnaji.” Nhận biết một khô khan cằn cỗi nào đó trong những đối đáp, bỗng nhiên Krishnaji bỏ bàn luận và thực hiện một trong những bước nhảy vĩ đại của anh. “Chết không có thời gian.”

“Từ sự từ bi đối với chúng tôi, liệu anh có thể thực hiện những bước nhảy này ngắn lại? Bởi vì Panditji nói ông ấy đang phát giác rằng để đáp lại câu nói của anh là điều quá khó khăn, mà có lẽ anh hoàn toàn đồng ý, nhận biết. Làm thế nào chúng tôi liên kết câu nói đặc trưng này với nghi vấn của ‘hiện diện, trở thành’?” Sudarshan chen vào.

“Đối với tôi có vẻ rằng trước khi chúng ta chuyển động đến chết, chúng ta hãy nói về tình yêu, và sự liên quan của nó đến nghi vấn,” Sudarshan tiếp tục. “Lúc trước anh đã nói rằng khi có một đối thoại giữa hai hay nhiều người, và mục đích thực sự ở trong đối thoại, những con người không còn và nghi vấn vẫn còn và nó chuyển động quanh quanh, nó nói qua những người khác nhau và sức sống riêng của nó vận hành. Tôi nghĩ, Panditji đang nói rằng ông ấy không biết làm thế nào để đáp lại, không phải bởi vì ông ấy không đồng ý với ông – không phải rằng điều gì ông nói là một Brahmastra, vũ khí tối hậu mà hủy diệt mọi thứ kể cả bệ phóng – nhưng làm thế nào ông ấy đáp lại nghi vấn lúc đầu của anh rằng đối thoại có một sức sống riêng của nó?”

“Bạn đã hiểu rõ nó?” Krishnaji hỏi Sudarshan.

“Vâng.”

“Vậy thì, giải thích nó cho Panditji,” Krishnaji.

“Tôi nghĩ Krishnaji đang nói rằng mục đích của đối thoại không phải dành cho một người đưa ra những nghi vấn và người khác trả lời nó, nhưng dành cho nghi vấn và đáp án chuyển động quanh quanh, và trong một ý nghĩa là tự-chuyển động một mình nó giữa những con nguời. Vì vậy, nó không là một người đang trao thông tin cho một người khác, nhưng nó là một trường hợp của chính nghi vấn đang tự nhả ra đáp án cho chính nó, đang sử dụng những tiếng nói của con người như dụng cụ. Nhưng chúng ta luôn luôn có cảm giác rằng nó phải dựa vào một vấn đáp – một nghi vấn và đáp án. Krishnaji đang nói rằng nếu có một thời gian khi nghi vấn biến mất, cũng vậy đó là một thời gian rất quý báu, cũng vậy thật ra nó rất tự nhiên. Trong một ý nghĩa, điều gì nó phơi bày là một hình ảnh, một vang vọng của điều gì anh đang nói lúc trước – cụ thể là, liệu có một hiện diện tại vị trí này hay liệu có một trở thành hay liệu có cái gì đó mà khác hẳn hai điều kia? Được quan sát từ một vị trí, có hiện diện; được quan sát từ một vị trí khác, khi tất cả những nghi vấn tan biến, vậy thì còn ai hiện diện ở đó để đưa ra bất kỳ nghi vấn nào, còn ai hiện diện ở đó để hiểu rõ? Đang bám chặt nghi vấn đó, hay đang bám chặt đáp án nếu không có nghi vấn, trong một ý nghĩa, chính nó là đối thoại. Nó là một thiền định trong đó không từ ngữ nào được phát ra bởi vì nó là yato vaacho nivartante, một trạng thái nơi từ ngữ không tiếp cận được.”

“Vâng. Vậy là, chúng ta hãy nói về chết. Theo những người Phật giáo, theo Nagarjuna, chết là gì?” Krishnaji nói.

“Bằng bất kỳ nguyên nhân nào sự sống hiện diện, bằng cùng nguyên nhân sự sống kết thúc; đó là chết,” người Phật giáo nói.

“Tôi hiện diện bởi vì người cha và người mẹ của tôi gặp nhau, và tôi được sinh ra. Tôi sống tám mươi chín năm hay một trăm năm. Tại khúc cuối của một trăm năm, tôi chết. Có một tạo ra kết quả và một kết thúc của tạo ra kết quả. Đúng chứ? Đó là điều gì bạn gọi là chết?” Krishnaji hỏi.

“Tạo ra kết quả này không tại mức độ của những sự vật, đó là, tại mức độ thuộc sinh học; nhưng nó tại mức độ của ký ức, tại mức độ sự suy nghĩ. Nagarjuna nói trong chuyển động đó là quá khứ, hiện tại và tương lai.”

“Nếu bạn nói rằng quá khứ và hiện tại chứa đựng ‘ngay lúc này,’ ngay lúc này đó là chết. Đang trở thành và đang chết. Liệu đó là chết?” Krishnaji hỏi.

“Vâng,” Jagannath Upadhyaya nói.

“Điều đó hợp lý,” Krishnaji nói.

“Vâng, hợp lý.”

Krishnaji tiếp tục, “Nó là một ý tưởng thuộc trí năng.”

“Vâng.”

“Điều đó không gây hứng thú tôi,” Krishnaji nói, “Tôi đang chết.”

“Tại mỗi khoảnh khắc có một kết thúc; mỗi khoảnh khắc là tách rời. Luôn luôn có một chết,” Upadhyayaji nói.

“Nhưng tôi có một người con trai sắp chết và tôi bị đau khổ, tôi rơi nước mắt. Tôi bị cô độc, buồn bã. Bạn đến và nói về nhân quả. Nhưng tôi đang đau khổ. Bạn sẽ làm gì về nó?”

“Bất kỳ cái gì tồn tại kết thúc từ khoảnh khắc sang khoảnh khắc,” Upadhyayaji nói.

“Tôi đã nghe tất cả điều đó trước kia,” Krishnaji nói. “Nhưng tôi đang đau khổ.”

“Nhưng cái gì kết nối những khoảnh khắc lại cùng nhau là ký ức,” Upadhyayaji nói.

“Được rồi. Tôi đến với bạn và bạn giải thích điều đó. Tôi nói, ‘Đi đi.’ ”

Tôi chen vào, “Jagannath Upadhyaya nói rằng không có lời giảng Phật giáo đã nói về chết, ngoại trừ như một sinh ra và kết thúc.”

Krishnaji nói, “Tôi ở cùng một người đàn ông, thưa bạn, cách đây vài năm. Ông ấy sắp chết. Người vợ ông ấy đến và nói, ‘Ông ấy đang yêu cầu gặp ông.’ Tôi đi đến nhà ông ấy, ngồi cạnh, cầm tay ông ấy. Và ông ấy nói, ‘Tôi sắp chết, đừng giảng triết lý với tôi. Tôi sắp chết, và tôi không muốn chết. Tôi đã sống một cuộc đời khá tốt đẹp, một người vợ khá dịu dàng, tôi đã có gia đình của tôi, những kỷ niệm của tôi, tất cả những sự việc sự vật mà tôi đã tích lũy, và tôi không muốn chết. Nhưng tôi sắp chết.’ Trả lời của bạn cho điều đó là gì? Đừng đến với tôi bằng ‘khởi đầu và kết thúc’ của bạn. ”

“Câu trả lời là, ông ấy phải chết,” Upadhyayaji nói.

“Ồ! Chúa ơi!” Krishnaji la lên. “Đó là điều gì bạn nói với người con trai của bạn, người vợ của bạn, người chồng của bạn, hay sao? ‘Ông ấy phải chết’? Dĩ nhiên, ông ấy phải chết. Ông ấy bị ung thư, ông ấy bị lao phổi, bị một căn bệnh. Ông ấy còn khá trẻ, và ông ấy nói, ‘Chúa ơi! Giúp con hiểu rõ.’ ”

“Nhưng chết là bộ phận của sống,” Panditji nói.

“Panditji, ông đang nói rằng không có kết thúc cho đau khổ?” Tôi đang cố gắng khiến cho câu hỏi rõ ràng.

“Nếu nguyên nhân của đau khổ không bị loại bỏ, nó không thể kết thúc,” Pandit Phật giáo nói.

“Nhưng cái người sắp chết đã không loại bỏ nó. Bạn phải giúp đỡ người đàn ông sắp chết này. Không ai đã cầm bàn tay của ông ấy. Vì vậy, tôi cầm bàn tay của ông ấy và ông ấy có cảm giác rằng có tình yêu. Tôi không nói với ông ấy về một khởi đầu và kết thúc,” Krishnaji nói.

“Sự khó khăn ở đây là gì? Ông ấy có lẽ chết hay không chết. Ông ấy sẽ chết thời gian nào đó. Nhưng chúng ta sắp chết tại khoảnh khắc này, chúng ta sắp chết cảm giác này. Chúng ta đang đau khổ, không có nghi ngờ về điều đó. Câu hỏi là không phải liệu người em của chúng ta sắp chết. Chính là chúng ta mà đang đau khổ, và chúng ta đang yêu cầu sự trợ giúp, nâng đỡ. Ông ấy muốn an ủi. Nhưng tôi sẽ không cho ông ấy thứ gì cả. Chúng ta không thể trao tặng ông ấy sự sống. Ông ấy mà sắp chết không sắp chết phía bên ngoài của ông ấy, ông ấy sắp chết phía bên trong của ông ấy và đó là vấn đề của ông ấy.”

“Liệu câu hỏi là làm thế nào anh giúp đỡ người đó?” Sudarshan thắc mắc.

“Không,” Krishnaji nói, “nó là làm thế nào bạn xử lý chết.”

“Trong tiến hành này có hai việc. Một là cảm giác của tôi rằng người bạn của tôi sắp chết và rằng ông ấy bị sợ hãi, ông ấy buồn bã và không sẵn lòng chết. Điều còn lại là tôi có thể làm gì để giúp đỡ ông ấy tại giây phút đó. Chúng ta đang bàn luận điều gì trong hai khía cạnh này?”

Krishnaji trả lời, “Cả hai. Tôi muốn biết về chết. Tôi sắp chết. Tháng năm tôi sẽ được tám mươi chín tuổi – có thể tôi sẽ sống mười năm nữa. Tôi không bị sợ hãi. Tôi không muốn sự giúp đỡ của bất kỳ ai. Tôi đã sống cùng cả chết lẫn sống, luôn luôn, suốt cuộc đời của tôi. Bởi vì tôi không có bất kỳ thứ gì, tôi không sở hữu bất kỳ thứ gì phía bên trong. Tôi đang chết và đang sống tại cùng một thời điểm. Không có sự tách rời cho tôi. Tôi có lẽ đang sống trong ảo tưởng, nhưng thâu nhận nó như nó là.

“Nhưng người bạn của tôi sắp chết. Không nguời nào đã thương yêu ông ấy và ông ấy đã không thương yêu người nào cả. Buddha nói gì, liệu điều đó giúp đỡ? Ông ấy muốn người nào đó thương yêu ông ấy, hãy ở cùng ông ấy. Người nào đó mà nói, ‘Nhìn kìa, chúng ta cùng nhau trong điều này. Bạn bị cô độc và nó có nghĩa gì khi chết đến?’ Tôi thấy ông ấy hoàn toàn bị cô độc, bị tách rời khỏi bất kỳ người nào. Và có sợ hãi khủng khiếp. Và bạn đến và nói về khởi đầu, kết thúc. Tôi nói, ơn Chúa!”

“Nếu tôi thương yêu, liệu tôi có thể trao tặng nó cho ông ấy? Liệu nó là cái gì đó mà có thể được trao tặng?” Jagannath Upadhyaya hỏi.

“Không,” Krishnaji nói, “ông ấy ở cùng tôi, không phải rằng tôi trao tặng ông ấy tình yêu. Nó không là cái gì đó mà tôi trao tặng.”

“Bởi vì ông ấy bị bệnh và sắp chết, và ông ấy không muốn chết, làm thế nào chúng ta có thể trao tặng ông ấy tình yêu? Tình yêu không thể thay đổi nhân quả; nó không thể ở phía bên ngoài nguyên nhân và hậu quả. Dù từ bi có lẽ vĩ đại và sâu thẳm đến chừng nào, nó không thể độc lập khỏi nhân quả,” Upadhyaya nói.

“Thưa bạn,” Krishnaji nói, “ông ấy không hứng thú triết lý của bạn. Ông ấy không hứng thú điều gì Buddha đã nói. Ông ấy sắp chết. Đừng nói cho ông ấy về khởi đầu, sinh ra, và chết đi. Ông ấy không hứng thú điều đó. Chúng ta đi đến người sắp chết bằng một đống những từ ngữ và những từ ngữ này giống như tro bụi đối với ông ấy, kể cả những từ ngữ của Buddha. Ông ấy sắp chết và nói, ‘Chúa ơi! Sống của tôi ra sao? Đừng nói với tôi về tất cả điều này.’ Liệu người ta có thể đến bằng không-gì cả và cầm bàn tay của ông ấy? Liệu người ta có thể nói, ‘Người bạn của tôi, khi bạn chết, một bộ phận của tôi cũng sắp chết. Tôi chưa bao giờ gặp bạn trước kia. Nhưng người vợ của bạn đến gặp tôi và cô ấy yêu cầu tôi viếng thăm bạn. Vậy là, cả hai chúng ta đều sắp chết hôm nay. Tôi biết chết có nghĩa gì. Tôi đã sống suốt cuộc đời của tôi cùng đang chết và đang sống, không bao giờ tách rời làm hai. Tôi chết mỗi ngày.’ Thế là, tôi nói với người bạn của tôi, ‘Chúng ta hãy cùng chết. Tôi hiểu rõ sự sợ hãi của bạn.’ Vậy là, chết không là sợ hãi.”

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567