Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

05. “Ở đây, sống của chúng tôi là một sống của hoạt động nội tâm mãnh liệt.”

19/07/201114:19(Xem: 5996)
05. “Ở đây, sống của chúng tôi là một sống của hoạt động nội tâm mãnh liệt.”

TIỂU SỬ CỦA KRISHNAMURTI
Krishnamurti's biography by Pupul Jayakar
Lời dịch: Ông Không
Tháng 4-2011

PHẦN 1

KRISHNAMURTI THỜI TRẺ TUỔI

1895 - 1946

CHƯƠNG 5

“Ở đây, sống của chúng tôi là một sống của hoạt động nội tâm mãnh liệt.”

M

ột nhóm bạn bè thân thiết của anh theo cùng Krishna đến Pergine ở Ý. Lady Emily, cùng hai cô con gái Betty và Mary, cũng có mặt; cũng cả Helen Knothe, một phụ nữ trẻ người Mỹ và một trong những người bạn thân của Krishnaji; Dr. Shivakamu, chị của Rukmini Arundale; Malti; vợ của Patwardhan; một người bạn thân khác của K, Ruth, John Cordes, người đại diện ở Áo của Star, đã ở Adyar năm 1911 và 1912 và lúc đó chịu trách nhiệm cho đào tạo, sức khoẻ, và những bài tập thể dục của Krishna. Rama Rao và Jadunandan Prasad, những người đồng hợp tác thân thiết của K ở Ấn độ, Và D. Rajagopal cũng trong nhóm. Câu chuyện không được biết đến này của K ở Pergine được tìm thấy trong số những giấy tờ của Shiva Rao sau khi anh chết. Mặc dù sự nhận dạng của tác giả không biết được, tài liệu có vẻ trung thực.

______________

Ngày 29 tháng tám năm 1924:

Ở đây sống của chúng tôi là một sống của hoạt động nội tâm mãnh liệt và hầu như hoàn toàn theo quán tính ở phía bên ngoài. Hay đó là việc gì nó nên là và việc gì Krishnaji mong muốn.

Vào những kỳ nghỉ trước thuộc loại này, khi Krishna đã tụ họp quanh anh những người anh mong muốn giảng dạy và giúp đỡ và đã lui về một nơi yên tĩnh nào đó xa khỏi nền văn minh, đã không có một kế hoạch sắp đặt sẵn của hành động. Dĩ nhiên, Krishnaji đã nói chuyện cá nhân với mỗi người đi theo, nhưng trước đó chưa bao giờ những Bậc Thầy đã nói chuyện với tất cả tập thể chúng tôi cùng một lúc, như trong nhóm hiện nay của chúng tôi, để cho mỗi thứ bậc và những người vẫn còn tách rời có lẽ lắng nghe và nói chuyện cởi mở về họ.

Chúng tôi hiện diện ở đây chỉ vì một mục đích, thực hiện “những bước” rõ rệt và qua đó trở nên hữu dụng một cách trực tiếp đối với Họ. Mỗi người có cơ hội của anh ấy, mỗi người tại một chặng đường khác nhau, và vì vậy có thể phục vụ những người ở trên và giúp đỡ những người ở dưới. (Những thuật ngữ như ở trên hay ở dưới có lẽ dẫn đến sự hiểu sai, tôi sử dụng chúng không hàm ý một người cao hơn hay thấp hơn, nhưng chỉ là một phân biệt.)

Thời khóa biểu cho một ngày là, tham thiền vào lúc tám giờ mười lăm, ăn sáng tám giờ ba mươi. Một chuyến dạo bộ xuống một cánh đồng lởm chởm mênh mông nơi chúng tôi chơi rounders khoảng một hay hai tiếng, và sau đó nói chuyện một tiếng dưới những cái cây, về những Bậc Thầy và về làm thế nào để phục vụ Họ. Ăn trưa lúc 12:30 – nghỉ ngơi hay công việc cá nhân, nếu muốn, cho đến ba giờ; những trò chơi trong sân của Castle, tắm và ăn tối lúc sáu giờ. Sau đó tất cả chia tay để nghỉ đêm, vài người chúng tôi đi đến tháp Square nơi sự chuẩn bị chuyên sâu tiếp tục một tiếng đồng hồ. Ngủ 8:30.

Dĩ nhiên, Krishnaji là nhân vật trung tâm của mỗi ngày; của trò chơi, và của công việc. Quanh anh mọi thứ [được] tập trung; sống của Krishnaji là một sống của sự hiến dâng tuyệt đối cho Chúa, sự tôn sùng thật đam mê của lý tưởng và vẻ đẹp – và tuy nhiên anh là con người quá hoàn hảo và rất gần gũi với bạn bè. Không từ ngữ nào có thể mô tả nhân cách của anh, nhưng dường như anh giống như một con người đã tự hoàn chỉnh chính mình đến một mức độ tuyệt vời, hơn là một hiện diện thiêng liêng trong một hình dạng con người không hoàn hảo. Chắc chắn điều gì Chúa sẽ ao ước, sẽ là một công cụ con người hoàn hảo, để cho Ngài có thể tiếp xúc với nhân loại trên mức độ riêng của nó. Sự thiêng liêng mà Chính Ngài sẽ thể hiện qua công cụ. Ngoại trừ sự hiện thân của Thầy Thế giới đến thế giới của Thầy, không bao giờ có một hiệp thông giữa những thứ Thiêng liêng và những thứ mà là con người. Bởi vì thông thường con người vươn lên Thiêng liêng và khoảnh khắc nó tiếp xúc được nó trở thành một cùng Thiêng liêng, nhưng trong trường hợp này Thiêng liêng hạ xuống một công cụ con người, sử dụng nó, làm việc qua nó như chính nó tự tạo thành một đơn vị và tách khỏi nó, và lui về lại để cho công cụ vẫn còn là một công cụ con người. Chắc chắn sự tiến hóa của một công cụ con người thường quá mau lẹ đến độ hầu như tức khắc nó trở thành siêu nhân (qua sự phục vụ này) nhưng đây là một qui trình tách rời. Con người có lẽ vươn lên và trở thành Thiêng liêng nhưng anh ấy không thể sử dụng những quyền năng của Thiêng liêng trong khi anh ấy vẫn còn là con người. Trái lại, Thiêng liêng có thể hạ xuống và sử dụng những quyền năng của con người, mặc dù anh ấy không còn là con người nữa.

Hôm nay, tại bữa ăn sáng Krishnaji rất sinh động, và như thường lệ nói chuyện của chúng tôi không thể in ra được. Sáng hôm sau, một nói chuyện rất nghiêm túc hay một công việc gian nan của buổi chiều, Krishnaji sẽ thường xuyên bông lông nhiều, nói những chuyện đùa và cười cợt chúng rất náo động, cùng những bột phát đột ngột vang to của tiếng cười ngặt nghẽo, hay tiếng cười khúc khích kéo dài, lan truyền qua những người khác. Hai điều lạ lùng về anh – thứ nhất, khả năng của anh để thay đổi từ một tâm trạng nghiêm túc, thực sự và vinh quang nhất, thành một tâm trạng giỡn cợt và đùa bỡn [,] tức khắc; thứ hai, không câu chuyện đùa dù thô thiển đến chừng nào mà anh thốt ra, khiến cho bầu không khí thông thường có thể góp phần vào câu chuyện đó. Có vẻ như thể vẻ đẹp của anh, sự rõ ràng tuyệt đối của hiện diện của anh, quét sạch mọi thứ trước mặt nó, đến độ anh có thể tiếp xúc bất kỳ người nào, hay vật nào hay chủ đề nào, và chuyển tải sự hồn nhiên của anh vào nó, trao tặng nó không khí trong lành bởi sự hiện diện của anh. Krishnaji cố gắng nhớ lại những trải nghiệm riêng của anh. Khi lần đầu tiên anh và Nitya gặp C. W. L., anh đưa cho họ xem những bức tranh của Thầy M. và Thầy K. H. và hỏi họ Thầy nào họ ưa thích hơn. Khi họ chọn bức tranh của Thầy K. H., anh nói đó chính là điều anh suy nghĩ.

Khi Krishnaji còn nhỏ, những Bậc Thầy rất thực sự đối với anh, chính là vậy nên anh viết “Ngay chân Thầy,” tiếp theo đến thời kỳ khi đối với anh thực sựkhông còn mãnh liệt lắm, anh chỉ tin tưởng bởi vì điều gì C. W. L. và A. B. đã nói. Lúc này lại nữa thực sự mãnh liệt đã quay trở lại. Nitya nói rằng nhóm của chúng tôi sẽ tạo ra một bầu không khí mà phải “thu hút” sự chú ý của Họ. Anh nói về những ảnh hưởng khác biệt tại Ojai, vào những đêm khác nhau. Ảnh hưởng của Thầy M. như một quyền năng mà làm cho bạn cảm thấy có khả năng về bất kỳ việc gì. Ảnh hưởng của Thầy K. H. như sự độ lượng hoàn hảo – nó có vẻ như là mật ngọt đang chảy vào bạn khi Ngài nói. Và ảnh hưởng của Thầy K. H. như sự trong sáng tuyệt đối, sự minh bạch hoàn hảo. Tiếp theo, ảnh hưởng vĩ đại nhất của tất cả những ảnh hưởng, ảnh hưởng của Chúa, như chúng tôi cũng đã cảm thấy tại Ehrwald[10] – an bình – “an bình mà chuyển thành sự hiểu rõ.”

Krishnaji nói về Adyar như về một ngôi nhà quyền năng phi thường, nơi hoặc bạn trở thành một vị thánh, trở nên điên khùng, hoặc bị đuổi đi như người vô dụng bởi một người quan sát luôn luôn chính xác.

Tôi chưa bao giờ thấy anh đẹp rực rỡ như lúc này vào những buổi tối, tại những thời điểm này. Đôi mắt của anh tươi cười bằng một hân hoan siêu thoát lạ thường, mà là hoan hỉ và tuy nhiên lại quá thanh thoát. Sự thanh thoát và một hân hoan tha thiết và thuần khiết choàng quanh anh, và biểu hiện trong những đường nét và những khúc khủy, và một hương thơm của những bông hồng lan tỏa và bao bọc anh. Thỉnh thoảng, anh run rẩy như thể bị lạnh và vào những lúc khác anh lại quá mệt nhoài, nhưng vào những đêm này, những đêm đặc biệt này mà tôi đang nói, Krishna thực sự, tất cả điều đó khiến cho anh là cái gì anh là trong ý nghĩa sâu thẳm nhất, đến và nhìn ra ngoài qua đôi mắt của anh.

Ngày 1 tháng giêng năm 1924:

Lady Emily so sánh Rajagopal với St. Peter. Có vẻ anh là Người Hề Vui nhộn trong số những môn đệ hiện nay; và anh thiết tha thương yêu chức vụ của anh như High Court Jester Anh Hề. Muốn biết Krishnaji, người ta phải biết những người theo anh. Lúc trước, Rajagopal là St. Bernard của Clairveaux, và vào những thời điểm khác, anh đã là một giáo sĩ được kính trọng; và cả vị thánh lẫn giáo sĩ trỗi dậy nơi anh lặp đi và lặp lại. Đặc biệt có lẽ là người sau. Anh nói liên tục, và khi nói năng lại dài dòng và nhạt nhẽo, thật ra anh lên lớp về đạo đức một cách rỗng tuếch. Anh ham mê hay nói khác hơn giả vờ rất ưa thích thức ăn, điều này là chủ đề chính của anh cho những câu chuyện đùa vân vân. Khi Krishnaji bị căng thẳng và mệt mỏi, hay nói chung cả nhóm, bị buồn chán, Rajagopal luôn luôn có sẵn vài câu chuyện đùa, hay những cụm từ vui nhộn, và anh tự động cười dai dẳng đến độ mọi người phải cười theo. Người ta nói rằng một phẩm chất mà tất cả những Bậc Thầy phải có, và nếu không có nó thì tất cả những môn đệ không thể tiến bộ được, là khiếu hài hước. Và sống thuộc tinh thần càng được dẫn dắt nhiều bao nhiêu, điều này càng trở nên rõ ràng nhiều bấy nhiêu. Khiếu hài hước sẽ giải tỏa sự căng thẳng của những cảm thấy và những suy nghĩ dưới những tình huống gay go nhất, và thường thường chắc chắn việc đó ngăn cản một cắt đứt rõ ràng trong công việc, hay cá thể trong một người. Chắc chắn sự dí dỏm của Rajagopal không thuộc loại nhạy bén và rõ ràng nhất, nhưng sau đó, nó cho phép Krishnaji và những người khác tham gia và góp thêm sự hài hước của họ. Không cần phải nói, Rajagopal nhận được nhiều chọc ghẹo, nhưng tiếp theo mọi người đến gần Krishna cũng vậy, mà là một cách anh gây ảnh hưởng mọi người; đặc biệt thuộc những phương cách nào đó.

Một trong những lý thuyết của Krishnaji là rằng người ta phải chắc chắn có thể phát triển chỉ qua duy nhất sự hân hoan, đến với Thượng đế một cách tự nhiên như một bông hoa nở trước ánh sáng mặt trời. Một thời gian, nó có vẻ gây lo lắng cho anh, rằng mọi người anh gặp gỡ từ trước đến nay đã phát triển trong những cách quanh co của đau khổ, và vì vậy chẳng có bao nhiêu người nhận được cách đơn giản của hân hoan. Tôi nghĩ thậm chí tôi đã nghe anh nói rằng chưa bao giờ gặp bất kỳ ai phát triển chỉ qua duy nhất sự hân hoan; dẫu vậy nó có lẽ xảy ra được, mà sẽ trở thành rất thông dụng chỉ khi nào văn minh hiện nay của chúng ta không quá phức tạp. “Hãy tự nhiên, hãy vui vẻ.” Thế là Rajagopal có một vai trò quan trọng trong sự kiện to tát này, trong đó Krishnaji là người đầu tiên sẽ cười, người dễ dàng nhất sẽ được vui vẻ. “Hãy là một Thượng đế, và vui đùa một mình.”

Nói về hai năm được đào tạo bởi Leadbeater của anh, Krishnaji nói anh bị “chán nản đến độ rơi nước mắt,” theo nghĩa đen. Tất cả những ham muốn bị đốt cháy; ví dụ, K và N xin những chiếc xe đạp, (có thể bởi vì họ là những cậu trai còn nhỏ họ đã gây bực mình cho Leadbeater khi xin xe đạp); những chiếc xe đạp được tìm ra và đạp xe mười dặm không chỉ được thực hiện một lần nhưng họ phải thực hiện nó mỗi ngày trong suốt hai năm. Cũng vậy họ diễn tả một ham muốn xin ăn cháo; họ có nó – nhưng lại nữa, mỗi ngày trong suốt một năm; nếu họ có hai bàn chân bẩn thỉu, hay như một lần Nitya ném một viên đá vào một con ếch, nó là “Môn đệ của những Bậc Thầy không làm những việc này.” Nhưng chắc chắn lúc đó có vẻ rất khó khăn cho cậu trai da sẫm bé tí mà sẽ trở thành Krishna của ngày hôm nay – Chúa Jesus của ngày mai.

Anh đã trải qua nhiều sống như một người đàn bà, và những sống này đã để lại một dấu vết rất sâu đậm trong nhân cách của anh; khả năng lạ thường của anh về giáo dục làm cho anh không giống như mọi người đàn ông khác. Thỉnh thoảng anh có thể hung dữ giống hệt như con người ngược lại của anh, nhưng việc này luôn luôn cho một mục đích. Một cụm từ sắc bén ngắn gọn, mà đôi mắt lóe sáng của anh nhấn mạnh đến một mức độ không thể chịu đựng nổi, đó là tất cả. Krishnaji sẽ không bao giờ đề nghị nói chuyện với bất kỳ người nào, nếu một tiếp cận không được thực hiện, và sau đó trong hai hay ba lần đầu tiên mà một nói chuyện nghiêm túc được bắt đầu, anh nhút nhát ghê lắm.

Ngày 8 tháng chín năm 1924:

Lady Emily, Cordes và tôi ngồi trong phòng của Krishnaji. Krishnaji đang ở trong một phòng tầng dưới. Thời gian vào khoảng bảy giờ mười lăm phút, và mọi chuyện đều giống hệt như những tối thông thường, ngoại trừ một yên lặng huyền bí ập xuống chúng tôi. Nơi nào đó trong cái tháp Nitya, Ramao Rao và Rajagopal đang hát thánh ca, và mùi hương trầm phảng phất trong phòng qua những chỗ nứt trên cửa ra vào. Tất cả chúng tôi cảm thấy Hiện diện của Ngài, làm thế nào ngay cả những người ngốc ngếch nhất mà không nhận ra được sự an bình không thể diễn tả được đang lan tỏa trong khu nhà. Chúng tôi ngồi “yên lặng lạ thường và hạnh phúc vô cùng” suốt một tiếng đồng hồ.

Sau đó, khi tất cả chúng tôi tập hợp lại cùng nhau, và Krishnaji ngồi giữa chúng tôi, nó như thể là chúng tôi chỉ vừa tìm được nhau; và khi chúng tôi kể về việc gì đã xảy ra, một tiếng cười ngọt ngào thấp giọng, của sự hân hoan vô cùng, không thể diễn tả được dường như bật ra trong đôi môi của chúng tôi. “Nếu bây giờ nó như thế này, nó sẽ là gì khi thời gian đến?”

Ngày 14 tháng chín năm 1924:

Chiều nay thay vì chơi “bóng chuyền” như thường lệ, tất cả chúng tôi đều nằm dài trên những tảng đá chung quanh Square Tower. Krishnaji ngồi chồm hỗm trên những tảng đá cùng Ramao Rao, say mê ngắm nghía một con ốc sên nhỏ màu vàng. Có một lần cách đây vài năm, tôi nhớ đã ở cùng Krishnaji khi anh tìm thấy một đàn kiến và trải qua nguyên buổi sáng cho chúng ăn đường, chọc ghẹo chúng và quan sát chúng khuân trứng và dựng lại tổ của chúng. Vừa nãy, một con ốc sên khác được tìm ra và hai con bị bắt buộc bò qua nhau và bò lên xuống vách đá lởm chởm dốc đứng. Năm ngoái tại Ehrwald, anh nằm dài giữa những đám cỏ cao và hoa dại, bỗng nhiên một con bướm đậu trên bàn tay anh, và chốc lát sau anh lại có một hay hai con vẫy cánh thăng bằng trên đầu ngón tay của anh. Sự thích thú của anh không có giới hạn. Anh có tình yêu tất cả những sinh vật to lớn hay nhỏ bé, thật ra bất kỳ thứ gì đẹp đẽ và thiên nhiên đều khiến anh vui vẻ; anh sẽ đuổi theo một con cào cào và theo dõi những cử động của nó và thuộc lòng màu sắc hai cánh của nó; hay với câu “Tôi nói!” thông thường của anh, anh sẽ đứng mê mẩn trước một cảnh đẹp. “Chỉ nhìn ngắm cái hồ đó, nó rất êm ả, giống như tảng băng – và xanh đậm. Thấy những phản ảnh trong nó? Ồ, em nên thấy Geneva Lake – quá xanh.”

Krishnaji đọc một đoạn văn ngắn từ quyển “The Gospel of Buddha” “Lời vàng của Phật” trong khi tham thiền mỗi sáng. Thật ra anh là một người mộ đạo và chính âm thanh của danh tánh Chúa Buddha, hầu như có vẻ khiến anh rung động bởi một cảm giác tôn sùng tột đỉnh. Hôm nay có một câu, trong đó Chúa Buddha nói rằng, môn đệ sống trong thế giới phải giống như một bông sen. Ở Ấn độ, bông sen, tượng trưng sự tinh khiết. Khả năng nở hoa trọn vẹn trong khi vẫn bám rễ trong một cái ao bùn loãng của nó biểu hiện khả năng nở hoa trong sự tinh khiết và trỗi dậy từ bất kỳ điều kiện nào dù tối tăm hay ô uế của con người.

Chiều nay Krishnaji đang nói chuyện với tôi. Anh nói về Chúa Buddha và trạng thái hiện diện đó mà không có cái tôi. Những ngày này anh đang suy nghĩ về tuyệt đối không-cá nhân, và dường như anh đã lặn sâu vào cái giếng tinh khiết đó nơi không bị ô uế bởi bùn lầy của cái tôi. Và khi anh nói về Chúa Buddha, một thế giới mới mẻ trải dài trước mặt người ta, trong đó tất cả tham vọng và tình yêu cá nhân đều tan biến và đã trở thành con số không, chỉ một tình yêu vô bờ bến không-cá nhân không-lay động còn hiện diện. Sự nhận ra trọn vẹn của sống không-cái tôi chỉ thức dậy trong Krishnaji khi anh ở Ojai, và thậm chí anh thấy rằng nó hầu như không thể diễn tả được. Anh kể về làm thế nào khi tất cả những Bậc Thầy tụ họp cùng nhau, Chúa Buddha hiện diện giống như cơn gió phía bắc, quá tự do khỏi bất kỳ cái gì giống như cái tôi. Anh nói: “Bất kỳ lúc nào anh thấy bức tranh của Chúa Buddha, anh tự nhủ với mình, anh sẽ giống hệt như thế.”

Hình ảnh của Chúa Maitreya đã hiện ra cho anh rất nhiều dịp. Ở Pergine, khi xuất hiện lần cuối cùng Ngài sẽ trao cho Krishnaji một thông điệp – “Hạnh phúc mà ngươi đang tìm kiếm không phải ở đâu xa xôi; nó ở trong mỗi viên đá bình thường.” Trong một thông điệp khác, Ngài chuyển tải “Đừng tìm kiếm những Hiện diện Vĩ đại khi họ có lẽ ở rất gần con.” Ba buổi tối kế tiếp, Krishnaji sẽ thường xuyên cười đùa, kể những câu chuyện hài hước – nhiều thành viên của nhóm người bị choáng váng khi anh cư xử như thế.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com