NgàiA Nâu Lâu Đà bảo : “ Chớ vội lấy ! Ông nên chờ đạichúng để cùng nhau chia.”
ThiênĐế nói : “ Trước kia đức Phật hứa cho tôi một răngnanh Xá Lợi, vì cớ ấy nên tôi vừa đến thời lửa liềntắt.”
Nóixong, Thiên Đế liền lấy một răng nanh xá Lợi ở hàm trênbên hữu đem về thiên cung xây tháp cúng dường.
Lúcđó có hai quỉ La Sát Thiệp Tập ẩn thân theo sau Đế Thích,mọi người đều chẳng thấy, hai quỉ trộm lấy một cặprăng nanh Xá Lợi của Phật.
Tấtcả đại chúng cùng nhơn dân trong thành đồng thời muốntranh lấy xá lợi.
NgàiA Nâu Lâu Đà bảo rằng: Đại chúng nên chẫm rãi chờ ! Nhưlời Phật dặn phải theo đúng pháp cùng nhau chia để cúngdường.
Mọingười chẳng nghe theo lời ngài A Nâu Lâu Đà, đều võ trangmuốn dành lấy Xá Lợi. Đồng áp đến bên kim quan, nhìn thấybông Đâu La Miên cùng bạch diệp còn nguyên chẳng cháy, Thấythế mọi người đứng nhìn cất tiếng khoc than, đồng cúngdường đãnh lễ, quì xuống rơi lệ nói kệ tán thán rằng:
NhưLai do sức đại tự tại, Tất cả thế gian được tự tại,Đại Bi bổn nguyện ở cõi nầy, Vòngquanh biển khổ độ chúng sanh. Vô lượng trí huệ sức thầnthông, Ra vào sanh tử không chướng ngại, Một thân hiện ralàm nhiều thân, Nhiều thân một thân làm vô lượng. Thầnbiến ứng khắp người đều thấy, Không duyên liền hiệnnhập Niết Bàn, Chúng tôi hết phước không duyên ứng, Nênbị Như Lai buông bỏ rời. Kim quan của Phật nơi Song Thọ,Tất cả lực sĩ không khiêng nổi, Do sức Đại Bi tự cấtlên, Bay trên hư không một Đa La. Chẫm rải bay vòng thànhThi Na, Bảy ngày bay đủ bảy vòng thành, Sau đó tự đếnchỗ trà tỳ, Thần lực bất cộng làm việc ấy. Đại chúngtrời người không lường được, Đức Phật ở trong ĐạiNiết Bàn, Kim Cang bất hoại sức tự tại, Tất cả lửa đuốcđều chẳng cháy, Từ nơi giữa ngực phóng chơn hỏa, Bảyngày đốt cháy mới hết củi, Trời người không thể tắtlửa nầy, Đại Bi Thế Tôn hiện thần lực. Đế Thích vừađến lửa bèn tắt, Bông Đâu La Miên bao thân Phật, Ngọnlửa quá to mà chẳng cháy, Ngàn trương bạch điệp quấn thânPhật, Ở trong lửa hừng mà chẳng cháy, Mới biết Như Laisức tự tại. Tự tại với pháp là Pháp Vương, Kỉnh lễTừ Tôn trong ba cõi, Lễ đấng vô úy trong các thành, Lễ đấngđại từ che tất cả, Lễ đấng thần biến đại tự tại,Chúng tôi từ nay xa Thế Tôn, Buồn khổ không ai cứu vớtđược, Buồn thay, thương thay đấng Đại Thánh, Vĩnh biệtngày nào lại thấy Phật !
Đạichúng nói kệ xong, than khóc cúng dường.
Lúcđó ngài A Nâu Lâu Đa vì tất cả đại chúng mà chẫm rãitháùo bạch điệp cùng bông Đâu La. Ngàn bức bạch điệpcủa Ma Ha Ca Diếp đều còn nguyên vẹn. Ngàn bức bạch điệpcủa nhân dân trong thành trừ một lớp ngoài còn nguyên, ngoàira đều cháy ra tro tất cả. Bông Đâu La Miên còn nguyên nhưcũ.
NgàiA Nâu Lâu Đà đem bạch điệp Đâu La Miên còn nguyên khôngcháy nầy cắt nhỏ ra chia cho đại chúng khiến đem về xâytháp cúng dường. Ngài lại đem tro bạch điệp cũng chia chođại chúng. Những thứ tro khác đại chúng riêng tự lấyđể đem về xây tháp cúng dường.
Ngườitrong thành Câu Thi Na đã sắm sẵn tám cái ché bằng vàng,mỗi ché dung lượng một hộc, cùng tám tòa sư tử trang nghiêmbằng bảy báu. Ché vàng để trên tòa sư tử, mỗi tòa cóba mươi hai lực sĩ khiêng. Trên mỗi tòa có ba mươi hai gáiđẹp trang sức lộng lẫy : Áo màu , chuỗi ngọc. Támngười vịn ché vàng, tám người cầm lọng báu, tám ngườicầm gươm báu, tám người cầm cờ Tiết dựng bốn mặt ché.
Theosau mỗi tòa, có vô lượng đại chúng trổi nhạc cầm phanlọng rải hương hoa. Lại có vô lượng võ sĩ cầm cung tênkiếm kích vệ hộ tòa sư tử.
Lúckhiên tám tòa sư tử ra khỏi thành, nhơn dân trong thành liềnđem vô số hương thủy hương nê theo sau lực sĩ, để sửasang mặt đất làm thành con đường bằng phẳng thơm sạch thẳng đến chỗ trà tỳ. Nhơn dân lại giăng treo vô số phanlọng hương hoa chuỗi ngọc chơn châu trang nghiêm hai bên đườngđể chờ cung nghinh Xá Lợi của Như Lai.
Lúccác lực sĩ khiêng tám tòa sư tử báu đến chỗ trà tỳ đạichúng cất tiếng kêu khóc vang động, cùng nhau đãnh lễ chítâm cúng dường Như Lai.
ĐứcThế Tôn dùng sức Đại Bi làm cho thân Kim Cang nát thành hộtXá Lợi nhỏ, chỉ bốn răng nang còn nguyên vẹn.
Đạichúng ngó thấy Xá Lợi càng thêm buồn thương than khóc đồngđãnh lễ cúng dường.
NgàiA Nâu Lâu Đà cùng người trong thành vừa khóc than rơi lệ,vừa thâu lấy Xá Lợi để vào trong ché vàng trên tòa sưtử. Tám ché vàng đựng đầy Xá Lợi của Phật mới hết.
Đạichúng thấy thân Xá Lợi vào ché vàng xong, lại khóc lóc đảnhlễ cúng dường.
Cácđại lực sĩ cùng nhân dân đại chúng rước Xá Lợi vàothành Câu Thi Na để giữa ngã tư đường. Người trong thànhvõ trang bốn đội quân phòng vệ bốn mặt thành. Lại sainăm trăm nhà chú thuật giỏi chia ra gìn giữ bốn cửa thành.Dầu võ trang phòng vệ như vậy, nhưng trọn không có lòngchiến tranh.
Ngoàithành cũng như trong thành, nhơn dân treo vô số phan lọng.
Támché vàng đựng Xá Lợi để yên trên tòa sư tử trọn bảyngày.
Đạichúng trời người cũng trọn bảy ngày khóc than chẳng dứtvà không ngớt đảnh lễ cúng dường.
Mỗitòa sư tử đều có năm trăm nhà chú thuật gìn giữ, phòngngừa có Thiên, Long, Dạ Xoa, Quỉ Thần đến lén lấy XáLợi.
QuốcVương Ca Tỳ La Vệ cùng dòng Thích Ca thân quyến của Phật,vì thần lực của Phật nên sau khi Đức Phật nhập NiếtBàn hai mươi mốt ngày mới hay tin. Quốc Vương cùng dòng họThích lật đật đến thành Câu Thi Na, thấy khắp thành phanlọng rợp trời, quân đội và các nhà chú thuật gìn giữbốn cửa thành nghiêm ngặt.
QuốcVương Ca Tỳ La hỏi thăm biết rằng Phật nhập Niết Bànđã qua hai mươi tám ngày, trà tỳ rồi sắp sửa chia Xá Lợi.Quốc Vưông xin phép các nhà chú thuật cùng quân đội giữthành để được vào đảnh lễ Xá Lợi của Đức Như Lai.Người giữ thành liền cho Quốc Vương cùng dòng họ Thíchvào thành.
Vừathấy Xá Lợi của Phật đựng trong ché vàng trên tòa sư tử,Quốc Vương Ca Tỳ La Vệ cùng người họ Thích Ca đều rơilệ nghẹn ngào cúi đầu đảnh lễ rồi đi nhiễu bảy vòng,muốn thỉnh một phần Xá Lợi của Đức Như Lai đem về nướccúng dường.
Đạichúng đáp rằng : “ Dầu biết các ông là quyến thuộc dòngThích Ca, nhưng Đức Thế Tôn trước kia có dặn phân chia XáLợi, chưa nghe nói đến các ông. Xá Lợi nầy đều có thỉnhchủ, đâu dám chia cho các ông, các ông nên trở về.”
QuốcVương cùng người dòng Thích Ca thỉnh Xá Lợi chẳng được,vì quá đau đớn nên kêu gào ngất xỉu, giây lâu tỉnh lạibảo đại chúng rằng : “ Đức Thế Tôn giáng sanh trong dòngThích Ca của chúng tôi, nay vì thương xót các ông mà nhậpNiết Bàn tại đây. Sao các ông lại hẹp hòi khinh khi chúngtôi mà chẳng chịu chia một phần Xá Lợi. Nói xong, đồngđảnh lễ Xá Lợi đi nhiễu bảy vòng, buồn khóc rơi lệôm giận mà trở về Ca Tỳ La Vệ.
VuaA Xà Thế chúa nước Ma Già Đà chẳng hay Đức Như Lai nhậpNiết Bàn . Trong đêm Đức Phật nhập Niết Bàn, vua mộngthấy mặt trăng rớt, mặt trời từ đất mọc lên, các ngôisao rơi rớt khắp nơi, hơi khói từ đất bay lên, bảy saochổi hiện ra trên trời, lửa lớn cháy khắp hư không rồiđồng thời sa xuống đất. Khi tỉng giấc lòng vua kinh sợtriệu các quan đến để hỏi.
Cácquan tâu rằng : Đây là điềm Đức Phật nhập Niết Bàn.Sau khi Đức Phật diệt độ, lục đạo chúng sanh phiền nãonổi dậy, nên nhà vua thấy lửa to cháy từ hư không sa xuốngđất. Nguyệt ái từ quang của Phật đều tắt mất nênnhà vua thấy mặt trăng lặn. Tám muôn luật nghi tất cả giớipháp, chúng sanh không tuân hành mà theo tà pháp đọa nơi địangục, nên nhà vua thấy các ngôi sao sa xuống. Tam đồ ác đạohiện khắp thê gian, chúng sanh bị khổ như ánh nắng gay gắtnóng bức, nên nhà vua thấy mặt trời từ đất mọc lên.
VuaA Xà Thế liền cùng các quan suốt đêm thẳng đến thành CâuThi Na, muốn vào thành để đảnh lễ Kim Cang Xá Lợi củaNhư Lai, người giữ cửa thành cho vua cùng các quan vàothành. Đến giữa ngã tư đường nhà vua thấy ché vàngđựng Xá Lợi để trên tòa sư tử, liền rơi lệ khóc lóc, cùng các quan đồng đãnh lễ cúng dường đi nhiễu Xá Lợibảy vòng. Vua A Xà Thế yêu cầu đại chúng cho thỉnh mộtphần Xá Lợi để đem về nước cúng dường. Đại chúngkhông bằng lòng. Vua A Xà Thế thỉnh Xá Lợi không đượcliền đảnh lễ buồn tức trở về nước.
Vuanước Tỳ Gia Ly, vua nước A Lặc Già La, vua nước Tỳ Nậu,vua nước Sư Già Na, vua nước Ba Kiên La, hay tin Phật nhậpNiết Bàn đều dắt các quan đi gấp đến thành Câu Thi Na,thấy vô số quân binh phòng vệ bốn cửa thành, các vua xinvào thành để đảnh lễ cúng dường Xá Lơiï. Người giữthành liền mở cửa cho vào. Sau khi buồn than đảnh lễ cúngdường Xá Lợi xong, các vua đều xin chia phần Xá Lợiđể thỉnh về nước cúng dường. Đại chúng không bằnglòng. Các vua sầu khổ đảnh lễ Xá Lợi buồn tức trở vềnước.
Khivề đến nước nhà, Quốc Vương Ca Tỳ La Vệ cùng vua cácnước đều sai sứ đến thành Câu Thi Na để xin thỉnh XáLợi. Người trong thành Câu Thi Na bảo rằng : “ Đức ThếTôn đã nhập Niết Bàn tại nước của chúng tôi, toàn thânXá Lợi phải để tại nước chúng tôi cúng dường mãi mãi,quyết chẳng chia cho người nước ngoài.”
Sứgiả của các nước bảo rằng : “ Nếu chịu chia xá Lợicho các nước thời tốt, bằng không, chúng tôi, buộc phảidùng sức mạnh để đoạt lấy.”
VuaA Xà Thế lại sai đại tướng Võ Hành đem binh đến bảongười trong thành Câu Thi Na : “ Nếu chịu chia Xá Lợi thờitốt, bằng không chúng tôi sẽ thêm binh lực để đoạt lấy.
Ngườitrong thành đều trả lời tùy ý. Rồi tất cả những trángsĩ cùng nam nữ trong thành đồng võ trang kéo bốn bộ binhra thành muốn giao chiến với binh các nước.
Lúcđó nước Tỳ Gia Ly sai quân đội đến thành Câu Thi Na. NướcTỳ Nậu, nước Giá La Ca La, nước Sư Gia Na, nước Ba KiênLa cùng Quốc Vương Ca Tỳ La Vệ, năm nước này cũng đềusai quân đội đến thành Câu Thi Na.
Quâncủa bảy nước vây kín thành Câu Thi Na.
Lúcđó trong đại chúng có một Bà La Môn họ Yên ở giữa quânđội của tám nước to tiếng khuyên rằng : “ Xin các lựcsĩ thành Câu Thi Na lóng nghe ! Đức Thế Tôn từ vô lượngkiếp chứa công đức lành, tu hạnh nhẫn nhục, các ngài cũngthường nghe Đức Phật khen ngợi hạnh nhẫn nhục. Hôm nayĐức Như Lai vừa diệt độ, các ngài đâu nên vì Xá Lợimà đánh đập nhau, hành động nầy chẳng phải là cử chỉtôn kính Xá Lợi. Các ngài nên chia Xá Lợi của Như Lai làmtám phần để cúng dường ở tám nước.”
Cáclực sĩ đáp rằng : “ Xin kính tuân lời đề nghị ấy.”
Lúcđó Yên Bà La Môn liền chia Xá Lợi làm tám phần bằng nhau.Chia xong Yên Bà La Môn to tiếng xin thỉnh cái bình dùng lườngXá Lợi để đem về tụ lạc Đầu Na La xây tháp cúng dường.Đại chúng đồng bằng lòng.
CácCư Sĩ và Bà La Môn ở nước Tất Ba Diên Na xin thỉnh tro chỗtrà tỳ. Đại chúng cũng bằng lòng.
Lúcđó người thành Câu Thi Na lãnh được phần Xá Lợi thứnhứt. Người nước Ba Kiên La thỉnh được phần Xá Lợithứ hai. Người nước Sư Già Na thỉnh được phần Xá Lợithứ ba. Người nước A Lặc Già thỉnh được phần Xá Lợithứ tư. Người nước Tỳ Nậu thỉnh được phần Xá Lợithứ năm. Người nước Tỳ Gia Ly thỉnh được phần Xá Lợithứ sáu. Người nước Ca Tỳ La Vệ thỉnh được phần XáLợi thứ bảy. Chúa nước Ma Già Đà Vua A Xà Thế thỉnh đượcphần Xá Lợi thứ tám. Người trong tám nước đều xây thápcúng dường Xá Lợi tại nước mình.
YênBà La Môn thỉnh bình đựng Xá Lợi về xây tháp tại tụlạc Đầu Na La.
Ngườinước Ba La Diên Na cũng thỉnh tro đem về xây tháp cúng dường.
Lúcđó trong Diêm Phù Đề có tám tháp thờ Xá Lợi của Phật,một tháp thờ bình lường Xá Lợi, một tháp thờ tro. Thếlà việc phân chia Xá Lợi đã xong.
Lúcđó chư Bồ Tát, hàng Thanh Văn, Trời, Người, Bát Bộ QuỉThần, Quốc Vương, Trưởng Giả, Quan, Dân toàn thể đạichúng buồn khóc rơi lệ cúi đầu đảnh lễ Xá Lợi củaPhật mà đi.
- TRỌNBỘ –
BỔKHUYẾT TÂM KINH
MAHA BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA TÂM KINH
QuánTự Tại Bồ Tát hành thâm bát nhãba la mật đa thời, chiếukiến ngũ uẩn giai không độ nhứt thiết khổ ách.
XáLợi Tử ! Sắc bất dị không, không bất dị sắc ; sắc tứcthị không, không tức thị sắc ; thọ, tưởng, hành, thức,diệt phục như thị. Xá Lợi Tử ! Thị chư pháp không tướng: Bất sanh , bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bấtgiãm. Thị cố không trung vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức; vô nhãn, nhĩ, tỹ, thiệt thân, ý ; vô sắc, thinh, hương,vị xúc, pháp ; vô nhãn giới nãi chí vô ý thức giới ; vôvô minh diệc, vô vô minh tận, nãi chí vô lão tử diệc, vôlão tử tận ; vô khổ, tập, diệc, đạo ; vô trí diệc vôđắc. Dĩ vô sở đắc cố, Bồ đề tát đỏa y Bát nhã bala mật đa cố, tâm vô quái ngại, vô quái ngại cố, vô hữukhủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng cứu cánh NiếtBàn.
Tamthế chư Phật y Bát nhã ba la mật đa cố, đắc a nậu đala tam miệu tam bồ đề.
Cốtri Bát nhã ba la mật đa, thị đại thần chú, thị đại minhchú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừnhứt thiết khổ chơn thiệt bất hư.
Cốthuyết bát nhã ba la mật đa chú, tức thuyết chú viết :
“Yết đế yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồđề tát bà ha.”
VÃNGSANH QUYẾT ĐỊNH CHƠN NGÔN
Nammô A di đa bà dạ, đa tha già đa dạ, đa điệt dạ tha, A dirị đô bà tỳ, a di rị đa, tất đam bà tỳ, A di rị đa,tỳ ca lan đế, A di rị đa, tỳ ca lan đa, già di nị, già giàna, chỉ đa ca lệ ta bà ha. ( 3 lạy )
Khểthủ Tây phương An lạc quốc. Tiếpdẫn chúng sanh đại đạo sư. Ngãkim phát nguyện nguyện vãng sanh. Duynguyện từ bi ai nhiếp thọ, Ngãkim phổ vị tứ ân tam hữu, Cậppháp giới chúng sanh cầu ư chư Phật. Nhứtthừa vô thượng Bồ Đề đạo cố, Chuyêntâm trì niệm A Di Đà Phật, Vạnđức hồng danh kỳ sanh tịnh độ. Duynguyện Từ Phụ A Di Đà Phật, Ailân nhiếp thọ từ bi gia hộ.
A DiĐà Phật thân kim sắc, Tướnghảo quang minh vô đẳng luân. Bạchhào uyển chuyển ngũ Tu Di, Hámmục trừng thanh tứ đại hải. QuangTrung hoá Phật vô số ức, HoáBồ Tát chúng diệc vô biên, Tứthập bát nguyện độ chúng sanh, Cửuphẩm hàm linh đăng bỉ ngạn.
Nammô Tây Phương cực lạc thế giới đại từ đại bi tiếpdẫn đạo sư A Di Đà Phật.( niệm 10, 20, 30 câu tùy ý )
Nammô Quán Thế Âm Bồ Tát ( 10 tiếng ) Nammô Đại Thế Chí Bồ Tát ( 10 tiếng ) Nammô Địa Tạng Vương Bồ Tát ( 10 tiếng ) Nammô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát ( 10 tiếng )
HỒI HƯỚNG
Đệtử chúng đẳng, hiện thị sanh tử phàm phu, tội chướngthâm trọng, luân hồi lục đạo, khổ bất khả ngôn ; kimngộ tri thức, đắc văn A Di Đà danh hiệu, bổn nguyện côngđức, nhứt tâm xưng niệm, cầu nguyện vãng sanh, nguyện Phậttừ bi bất xả, ai lân nhiếp thọ, đệ tử chúng đẳng, bấtthức Phật thân, tướng hảo quang minh, nguyện Phật thị hiện,linh ngã đắc kiến cập kiến Quán Âm Thế Chí chư BồTát chúng, bỉ thế giới trung, thanh tịnh trang nghiêm, quangminh diệu tướng đẳng, linh ngã liễu liễu đắc kiến, ADi Đà Phật.
Ngãkim trì niệm A Di Đà Tứcphát Bồ Đề quảng đại nguyện : Nguyệnngã định huệ tốc viên minh Nguyệnngã công đức giai thành tựu Nguyệnngã thắng phước biến trang nghiêm Nguyệncộng chúng sanh thành Phật đạo. Vãngtích sở tạo chư ác nghiệp Giaido vô thỉ tham sân si Tùngthân ngữ ý chi sở sanh Nhứtthiết ngã kim giai sám hối. Nguyệnngã lâm dục mạng chung thời Tậntrừ nhứt thiết chư chướng ngại Diệnkiến ngã Phật A Di Đà Tứcđắc vãng sanh Cực Lạc sát. Ngãký vãng sanh Cực Lạc dĩ Hiệntiền thành tựu thử đại nguyện Nhứtthiết viên mãn tận vô dư Lợilạc nhứt thiết chúng sanh giới. NgãPhật chúng hội hàm thanh tịnh, Ngãthời ư thắng liên hoa sanh Thânđỗ Như Lai Vô Lượng Quang Hiệntiền thọ ngã Bồ Đề ký. Mongngã Như Lai thọ ký dĩ Hóathân vô số bá cu chi Trílực quảng đại biến thập phương Phổlợi nhứt thiết chúng sanh giới Chúngsanh vô biên thệ nguyện độ. Phiềnnão vô tận thệ nguyện đoạn, Phápmôn vô lượng thệ nguyện học, Phậtđạo vô thượng thệ nguyện thành. Nguyệnsanh Tây Phương tịnh độ trung, Cửuphẩm liên hoa vi phụ mẫu, Hoakhai kiến Phật ngộ vô sanh, BấtThối Bồ Tát vi bạn lữ Nguyệndĩ thử công đức Trangnghiêm Phật tịnh độ Thượngbáo tứ trọng ân Hạtế tam đồ khổ. Nhượchữu kiến văn giả Tứcphát Bồ Đề tâm, Tậnthử nhứt báo thân, Đồngsanh Cực Lạc Quốc, Tậnthử nhứt báo thân Đồngsanh An Dưỡng Quốc.
NGUYỆN
A DiĐà Phật, thường lai hộ trì, linh ngã thiện căn, hiện tiềntăng tấn, bất thất tịnh nhơn, lâm mạng chung thời,thân tâm chánh niệm, thị thính phân minh, diện phụng Di Đà,giữ chư thánh chúng, thủ chấp hoa đài, tiếp dẫn ư ngã.
Nhứtsát na khoảnh, sanh tại Phật tiền, cụ Bồ Tát đạo, quảngđộ chúng sanh đồng thành chủng trí.
Chítâm đảnh lễ : Nam Mô A Di Đà Phật Thế Tôn.
Nguyệnngã Tội chướng tất tiêu diệt ( 1 lạy ) Nguyệnngã Thiện căn nhựt tăng trưởng ( 1 lạy ) Nguyệnngã Thân tâm hàm thanh tịnh ( 1 lạy ) Nguyệnngã Nhứt tâm tảo thành tựu ( 1 lạy ) Nguyệnngã Tam muội đắc hiện tiền ( 1 lạy ) Nguyệnngã Tịnh nhơn tốc viên mãn ( 1 lạy ) Nguyệnngã Liên đài tự tiêu danh ( 1 lạy ) Nguyệnngã Kiến Phật ma đảnh ký ( 1 lạy ) Nguyệnngã Dự tri mạng chung thời ( 1 lạy ) Nguyệnngã Vãng sanh Cực Lạc Quốc ( 1 lạy ) Nguyệnngã Viên Mãn Bồ Tát đạo ( 1 lạy ) Nguyệnngã Quảng độ chư chúng sanh ( 1 lạy )
Chítâm qui mạng đảnh lễ : Nam Mô Tây Phương Cực Lạc thếgiới giáo chủ, thọ quang thể tướng vô lượng vô biên,từ thệ hoằng thâm, tứ thập bát nguyện độ hàm linh, đạitừ đại bi tiếp dẫn đạo sư A Di Đà Như Lai biến phápgiới Tam Bảo ( 1 lạy )
Tựquy y Phật, đương nguyện chúng sanh, thể giải đại đạo,phát vô thượng tâm (l lạy)
Tựquy y Pháp, đượng nguyện chúng sanh, thâm nhập kinh tạng,trí huệ như hải.( 1 lạy )
Tựquy y Tăng, đương nguyện chúng sanh, thống lý đại chúng,nhứt thiết vô ngại .( 1 lạy )
HẾTKINH ĐẠI BÁT NIẾT BÀN TRỌN BỘ
Chânthành cảm ơn Thầy Thích ĐồngBổnvà Đạo hữu LệDiệuđã giúp đánh máy vi tính bộ kinh này (Tâm Diệu)
NầyThiện-nam-tử ! Như nơi ngã tư đường có người đựng đầyđồ ăn thơm ngon trong chậu, trong bát, bày ra để bán. Cóngười khách từ xa đến quá đói, thấy đồ ăn ấy thơmngon, liền hỏi đây là vật gì ? Người bán nói : Đây làđồ ăn thơm ngon, nếu ai ăn thứ nầy, thời đặng sắc tốt,sức mạnh, có thể hết đói, hết khát và đặng thấy chưThiên. Nhưng chỉ có một tai hại là sẽ chết. Ngườikhách nghe xong nghĩ rằng : Nay tôi chẳng dùng sắc đẹp, sứcmạnh, thấy chư Thiên, vì tôi chẳng muốn chết. Nghĩ xonghỏi rằng : Ăn vật thực nầy nếu phải chết sao ông lạiđem bán.
Ngườibán đáp : Những người có trí không ai bằng lòng mua. Chỉcó kẻ ngu, chẳng biết việc nầy, họ tham ăn nên họ trảgiá đắt cho tôi.
NầyThiện-nam-tử ! Đại-Bồ-Tát cũng như vậy, chẳng nguyệnsanh cõi trời, đặng sắc đẹp, đặng sức mạnh, thấy chưThiên, vì sanh cõi trời chẳng khỏi những khổ não. Kẻ phàmphu ngu si sanh chỗ nào cũng đều tham luyến vì họ chẳng thấygìa, bệnh, chết.
NầyThiện-nam-tử ! Ví như cây độc, gốc rễ cũng có thể giếtngười, thân cây, vỏ, bông, trái, hột đều cũng có thểgiết người. Tất cả thân ngũ ấmtrong hai mươi lăm cõi đềucó thể hại chúng sanh cũng như vậy.
NầyThiện-nam-tử ! Ví như phân nhơ, nhiều hay ít đều hôi cả.Cũng vậy, thọ sanh dầu sống lâu tám muôn tuổi hay mườituổi cũng đều khổ não cả.
NầyThiện-nam-tử ! Ví như hầm sâu nguy hiểm, lấy cỏ che trênmiệng hầm, bờ bên kia của hầm có mạch cam-lồ, ngườinào được ăn chất cam lồ, sẽ sống lâu ngàn năm không bệnhtật, an ổn , khoan khoái. Kẻ ngu si tham chất cam lồ, chẳngbiết dưới đó có hầm sâu, bèn chạy đến lấy, chẳng ngờtrật chơn té xuống hầm mà chết. Người trí biết sự nguyhiểm, nên không đến lấy chất cam-lồ.
Đại-Bồ-Tátcũng như vậy còn chẳng muốn nhận lấy vật thực thượngdiệu cõi trời huống là tong loài người. Kẻ phàm phu bènở nơi địa ngục nuốt hoàn sắt, huống là thức ăn thượngdiệu cõi trời cõi người mà có thể chẳng ăn.
NầyThiện-nam-tử ! Do những điều thí dụ như vậy, ngoài ra cònvô lượng thí dụ khác, nên biết thọ sanh thiệt là rấtkhổ.
Đâygọi là Đại-Bồ-Tát trụ nơi kinh Đại-thừa Đại-Niết-Bànquán sát sanh là khổ.
NầyThiện-nam-tử ! Đại-Bồ-tát trụ nơi kinh Đại-thừa Đại-Niết-Bànquán sát lão là khổ như thế nào ?
Sựgià yếu hay làm ho hen, ngăn nghẹn hơi, đưa lên, có thể làmmất sức mạnh, trí nhớ kém, sự tráng kiện không còn, mấtsự an vui thơ thới, khoan khoái. Tuổi già hay làm lưng còm,mỏi nhọc, lười biếng, bị người khi dể.
NầyThiện-nam-tử ! Ví như hoa sen nở tốt đầy trong ao nướcrất đáng ưa thích, gặp trận mưa đá, tất cả đều hưnát. Cũng vậy, tuổi già có thể phá hoại tráng kiện, sắcđẹp.
NầyThiện-nam-tử ! Ví như quốc vương có một trí thần dùngbinh giỏi. Có vua nước địch chống cự chẳng thuận hảo.Quốc vương sai trí thần đem binh qua đánh, bắt vua nướcnghịch mang về dưng cho quốc vương. Cũng vậy, tuổi già bắtđược tráng kiện, sắc đẹp đem giao cho tử vương.
NầyThiện-nam-tử ! Ví như trục xe đã gãy, xe đó không còn dùngđược. Cũng vậy, già suy thời không còn dùng được vàoviệc gì.
NầyThiện-nam-tử ! Như nhà giàu to có nhiều của báu : Vàng ,bạc, lưu ly, san hô, hổ phách, xa cừ, mã não. Có bọn cướpnếu vào đặng nhà đó thời có thể cướp giựt hết cả.Cũng vậy, tuổi tráng kiện và sắc đẹp thường bị giặcgià suy cướp giựt.
Nầythiện-nam-tử ! Ví như người nghèo tham thức ăn ngon, y phụcmịn màng, dầu có hy vọng nhưng không thể được. Cũng vậy,tuổi già suy dầu có tâm than, muốn hưởng thọ ngũ dụcsung sướng mà chẳng thể đặng.
NầyThiện-nam-tử ! Như con rùa ở trên đất cao lòng nó thườngnghĩ đến nước. Cũng vậy, người đời đã già suy khô héomà lòng họ thường nhớ tưởng những khoái lạc ngũ dụcthuở tráng kiện.
Nầythiện-nam-tử ! Như mùa thu ai cũng ưa ngắm hoa sen nở, đếnkhi hoa tàn héo, mọi người đều không thích. Cũng vậy, sựtráng kiện, sắc đẹp mọi người đều ưa thích, đến khigià suy ai cũng nhàm ghét.
Nầythiện-nam-tử ! Ví như cây mía, sau khi bị ép, bã xác khôngcòn vị ngọt. Cũng vậy, tráng kiện sắc đẹp đã bị giàép, thời không có ba thứ vị : Một là vị xuất gia, hai làvị đọc tụng, ba là vị tọa thiền.
NầyThiện-nam-tử ! Ví như mặt trăng tròn ban đêm thời tỏ sáng,ban ngày thời không như vậy. Cũng vậy, tráng kiện thời hìnhmạo nở nang xinh đẹp, già thời suy yếu, thân thể và tinhthần kém suy.
NầyThiện-nam-tử ! ví như có nhà vua thường dùng chánh pháp caitrị nhơn dân, chơn thật, không lừa dối, từ bi ưa bố thí.Thuở đó nhà vua bị nước địch xâm lăng đánh bại, bènlưu vong đến nước khác. Nhơn dân trong nước kia thấy nhàvua đều cảm thương nói rằng : Đại-vương ngày trước dùngchánh pháp trị nước chẳng uổng lạm bá tánh, thế sao naylại lưu vong đến đây. Cũng vậy, loài người đã bị giàsuy làm bại hoại, thời thường tán thán sự nghiệp đã làmthuở tráng kiện.
NầyThiện-nam-tử ! Ví như tim đèn dầu nhờ mỡ dầu nhưng mỡdầu sẽ hết, thế chẳng lâu dài. Cũng vậy, thân ngườidầu nhờ cậy sự tráng kiện, nhưng tráng kiện phải trảiqua già suy, đâu còn được dùng lâu.
NầyThiện-nam-tử ! Ví như con sông cạn khô không có thể lợiích cho ngưới, cho phi nhơn, chim thú. Cũng vậy, thân ngườibị già suy khô héo, không còn làm được việc gì, chẳngthể có lợi ích.
NầyThiện-nam-tử ! Ví như cây cheo leo bờ sông, nếu gặp gióto, ắt sẽ đổ ngã. Như vậy đến tuổi già ắt phải chết,thế chẳng thể còn được.
NầyThiện-nam-tử ! Như trục xe đã gãy, không thể chở chuyên.Cũng vậy, già suy không thể học hỏi tất cả pháp lành.
NầyThiện-nam-tử ! Như trẻ thơ bị người khinh khi. Cũng vậy,già suy thường bị người khinh hủy.
NầyThiện-nam-tử ! Do những điều dụ như vậy cùng vô lượngthí dụ khác nên biết sự già thiệt là rất khổ.
Đâygọi là Đại-Bồ-Tát tu hành kinh Đại-thừa Đại-Niết-Bànquán sát già là khổ.
NầyThiện-nam-tử ! Đại-Bồ-Tát trụ nơi kinh Đại-thừa Đại-Niết-Bànquán sát bịnh khổ như thế nào ?
Vínhư mưa đá làm hại mạ lúa. Cũng vậy, tật bệnh có thểphá hoại tất cả những sự an ổn vui vẻ.
Nhưngười có oán thù , tâm thường lo rầu sợ sệt. Cũng vậy,tất cả chúng sanh thường bị bịnh khổ, lo rầu không yên.
Vínhư có người hình dung xinh đẹp, Vương-phi tâm dục yêu thương,sai sứ đòi đến để cùng giao thông. Vua bắt đặng, liềntruyền lịnh khoét một mắt,cắt một vành tai, chặt mộttay, một chân, bấy giờ người đó hình dung đổi khác bịngười nhờm gớm khinh rẻ. Cũng vậy, thân người trướcthời dung mạo tươi tốt, tai mắt đầy đủ, đã bị bịnhkhổ hành hạ, thời xấu xa bị người nhờm gớm.
Nhưcây chuối, cây tre, cây lau, cây la, hễ có con, có trái thìchết. Cũng vậy, người có bịnh thời chết.
Nhưvua Chuyển-Luân, đại thần, chủ binh thường làm tiền đạođi trước, nhà vua theo sau cũng như chúa cá, chúa kiến, chúaốc, chúa trâu, thương chủ, lúc ở trước chúng mà đi, thờitoàn chúng thảy đều đi theo không rời. Cũng vậy, sựchết thường theo sát bịnh khổ không rời.
NầyThiện-nam-tử ! Nhơn duyên của bịnh làm cho khổ não, rầulo, buồn than, thân tâm không an ổn. Hoặc bị kẻ giặc cướpbức hại, trái nổi bể hư, phá hoại cầu cống, đều cũngcó thể cướp giựt mạng sống. Bịnh lại có thể phá hoạisự tráng kiện, sắc đẹp, thế lực, an vui, mất lòng tàmquý, có thể làm cho thân tâm xót xa bức rức.
Donhững điều dụ đó và vô lượng thí dụ khác, nên biếtbịnh rất là khổ não.
Đâygọi là Đại-Bồ-Tát tu hành kinh Đại-thừa Đại-Niết-Bànquán sát bịnh khổ.
Nầythiện-nam-tử ! Thế nào là Đại-Bồ-Tát tu hành kinh Đại-thừaĐại- Niết-Bàn quán sát tử khổ ? Sự chết có thể đốtcháy tiêu diệt. Như hỏa tai khởi lên có thể đốt cháy tấtcả, chỉ trừ cõi trời nhị thiền trở lên, vì thế lựccủa hỏa tai chẳng đến được. Cũng vậy, sự chết có thểtiêu diệt tất cả, chỉ trừ Bồ-Tát trụ nơi Đại-thừaĐại-Niết-bàn vì thế lực của sự chết không đến được.
Nhưlúc thủy tai khởi lên, tất cả đều trôi, đều ngập,chỉ trừ cõi tam-thiền trở lên, vì thế lực của thủy taichẳng đến được. Cũng vậy, sự chết làm chìm mất tấtcả, chỉ trừ Bồ-Tát trụ nơi Đại-thừa Đại-Niết-Bàn.
Nhưlúc phong tai khởi lên, có thể thổi tan tất cả, chỉ trừcõi tứ thiền, vì thế lực của phong tai chẳng đến được.Cũng vậy, sự chết có thể tiêu diệt tất cả, chỉ trừBồ-Tát trụ nơi Đại-thừa Đại-Niết-Bàn.
Ca-Diếp-Bồ-Tátbạch Phật : “ Thế-Tôn ! Cõi Tứ-thiền kia do cớ gì màgió không thổi đến, nước chẳng ngập đến, lửa chẳngcháy đến ?”
_ NầyThiện-nam-tử ! Cõi Tứ-Thiền kia không có tất cả quá hoạntrong thân và ngoại cảnh.
CõiSơ- Thiền có quá hoạn : Trong có giác quán, ngoài có hỏatai.
CõiNhị-Thiền có quá hoạn : Trong có vui mừng, ngoài có thủytai.
CõiTam-Thiên có quá hoạn : Trong có hơi thở, ngoài có phong tai.
CõiTứ-Thiền trong ngoài đều không quá hoạn, nên ba thứ taihọa lớn chẳng thể đến được.
Đại-Bồ-Tátcũng như vậy, an trụ nơi Đại-thừa Đại-Niết-Bàn, trongngoài đều không tất cả quá hoạn, nên sự chết chẳng đếnđược.
Lạinầy Thiện-nam-tử : Như Kim-Súy-Điểu có thể nuốt, có thểtiêu tất cả loài rồng, cá và châu báu, vàng, bạc vân vân,chỉ trừ chất kim cương không tiêu được. Cũng vậy, sựchết có thể nuốt, có thể tiêu tất cả chúng sanh, chỉkhông tiêu được Đại-Bồ-tát trụ nơi Đại-Thừa Đại-Niết-Bàn.
Lạinầy Thiện-nam-tử ! Ví như những cỏ cây ở bờ sông, nướclụt dưng lên đều trôi theo dòng vào biển lớn, chỉ trừcây dương liễu, vì thứ cây nầy mềm dẽo. Cũng vậy, tấtcả chúng sanh đều trôi lăn vào biển chết, chỉ trừ Bồ-Táttrụ nơi Đại-thừa Đại-Niết-Bàn.
Lạinầy Thiện-nam-tử ! Như thần Na-La-Diên có thể hàng phụctất cả lực sĩ, chỉ trừ gió to, vì gió to vô ngại. Cũngvậy, sự chết có thể hàng phục tất cả chúng sanh, chỉtrừ Bồ-Tát trụ nơi Đại-thừa Đại-Niết-Bàn, vì bậcnầy vô ngại.
Lạinầy Thiện-nam-tử ! Ví như có người đối với kẻ thù giảlàm thân thiện, theo sát bên như bóng theo hình, chờ khi thuậntiện mà giết đó, nếu phòng bị chặt chẽ, thời ngườikia không hại được. Cũng vậy, sự chết luôn theo rình chúngsanh chờ dịp làm hại, chỉ không thể hại được bậc Đại-Bồ-Táttrụ nơi Đại-thừa Đại- niết-bàn, vì bậc Bồ-Tát nầychẳng phóng dật.
Lạinầy Thiện-nam-tử ! Ví như trời bỗng mưa kim cương xốixuống tất cả cỏ cây, núi rừng, đất cát, ngói, đá, vàng,bạc, lưu ly, cùng tất cả vật đều bị hư nát, chỉ kimcương chơn bảo không bị hư. Cũng vậy, sự chết đều cóthể phá hoại tất cả chúng sanh, chỉ trừ kim cương Bồ-Táttrụ nơi Đại-thừa Đại-Niết-Bàn.
Lạinầy Thiện-nam-tử ! Như Kim-súy-điểu có thể nuốt các loàirồng, chỉ không nuốt được rồng thọ Tam-quy-y. Cũng vậy,sự chết có thể nuốt tất cả chúng sanh, chỉ trừ Bồ-Táttrụ ba môn chánh định : Không, vô tướng vô nguyện.
Lạinầy Thiện-nam-tử ! Như độc rắn ma-la, khi rắn nầy cắnnhằm người, những chú hay, thuốc tốt đều không cứu được,chỉ có chú A-Kiệt Đa-Tinh là có thể chữa lành. Cũng vậy,sự chết tất cả phương thuốc đều không cứu được, chỉtrừ Bồ- Tát trụ nơi Đại-thừa Đại-Niết-Bàn.
Lạinầy Thiện-nam-tử ! Như có người bị nhà vua giận, có thểdùng lời dịu dàng khéo léo, dâng của cải châu báu mà đặngkhỏi tội. Sự chết không như vậy, dầu dùng lời nói dịudàng, tiền của châu báu để cống dưng cũng chẳng thoátkhỏi.
NầyThiện-nam-tử ! Luận về sự chết là chỗ hiểm nạn, khônggì giúp đỡ, đi đường xa xôi mà không bạn bè, ngày đêmđi luôn chẳng biết bờ mé, sâu thẳm tối tăm, không có đènđuốc, nó vào không có cửa nẻo mà có chỗ nơi, dầu khôngchỗ đau đớn nhưng chẳng thể chữa lành, nó qua không aingăn được, nó đến không thể thoát được, không phá pháchgì mà người thấy sầu khổ, nó không phải màu sắc xấuxa mà làm cho người kinh sợ. Nó ở bên thân người mà chẳnghay biết được.
NầyCa-Diếp Bồ-Tát, do những điều dụ đó cùng vô lượng thídụ khác, nên biết sự chết thật là rất khổ.
Đâygọi là Đại-Bồ-Tát tu hành kinh Đại-thừa Đại-Niết-Bànquán sát tử khổ.
NầyThiện-nam-tử! Thế nào là Đại-Bồ-Tát trụ nơi kinh Đại-thừa Đại-Niết-Bàn quán sát ái-biệt-ly khổ ? Ái biệt-ly nầy có thể làmcội gốc cho tất cả sự khổ. Như nói bài kệ rằng :
Nhơnái sanh lo, Nhơn ái sanh sợ, Nếu lìa sự ái, Nào lo nào sợ.
Vìái nên sanh sự lo khổ, vì lo khổ nên làm cho chúng sanh cógià suy. Ái- biệt-ly khổ là nói sự chết. Vì biệt-ly haysanh những sự khổ vi-tế, nay sẽ vì ông mà phân biệt rõràng.
NầyThiện-nam-tử ! Thuở quá khứ người sống vô lượng tuổi,có quốc vương tên là Thiện-Trụ nhà vua trị nước tám muônbốn ngàn năm. Trên đỉnh đầu của vua mọc lên một bứuthịt mềm nhuyễn như bông. Bứu ấy lần lần to lớn, khônglàm đau nhức. Mãn mười tháng, bứu ấy nứt ra, sanh mộtđồng tử hình dung đẹp lạ. Nhà vua vui mừng đặt tên làĐãnh-Sanh.
Thờigian sau vua Thiện-Trụ đem việc nước giao cho Thái-tử Đảnh-Sanh,tồi rời bỏ cung điện quyến thuộc vào núi tu hành. Ngàyrằm Thái-Tử Đảnh-Sanh lên ngôi, đương ở trên lầu caotắm gội trai giới, phương Đông liền có báu kim- luân, bánhxe vàng đủ một ngàn cây căm tự nhiên bay đến. Vua Đảnh-Sanhnghĩ rằng : Từng nghe Ngũ-Thông tiên nhơn nói : Nếu dòng vuaSát-Đế-Lợi ngày rằm ở trên lầu cao tắm gội trai giới,có báu kim luân đủ ngàn cây căm tự nhiên bay đến, thời nhà vua đó sẽ đặng làm Chuyển-Luân Thánh-Vương. Nay ta nênthí nghiệm. Nghĩ xong, vua Đảnh-Sanh tay tả bưng báu kim-luân,tay hửu cầm lư hương, qùy gối bên mặt mà phát thệ rằng: Nếu đây thiệt là báu kim-luân, thời nên bay đi như vuaChuyển-Luân Thánh-Vương thuở quá khứ. Nhà vua phát thệ vừaxong, thời báu kim-luân bay lên hư không, bay khắp mười phương,rồi trở về dừng lại trên tay tả vua Đảnh-Sanh. Nhàvua vui mừng biết chắc mình sẽ là Chuyển-Luân Thánh-Vương.
Sauđó không bao lâu, có tượng bảo xuất hiện, mình trắng nhưbạch liên-hoa, xinh đẹp, mạnh mẽ đôi ngà chấm đất. Vìmuốn thí nghiệm vua Đảnh-Sanh liền bưng lư hương quì gốibên hữu mà phát thệ rằng : Nếu thật là báu bạch tượngnên bay đi như thuở vua Chuyển-Luân Thánh-Vương quá khứ.Phát thệ xong, bạch tượng liền từ sáng đến chiều bayđi khắp tám phương, tột đến mé biển, rồi trở về cungvua. Kế đó lại có Mã-bửu xuất hiện, lông màu xanh biếcmướt đẹp, lông đuôi cùng gáy màu vàng ròng. Vì muốn thínghiệm vua Đảnh-Sanh tay bưng lư hương quì gối bên hữu phátthệ rằng : Nếu thiệt là Mã-bảo thời phải như củavua Chuyển-Luân Tánh-Vương thuở quá khứ. Phát thệ xong, từsáng đến chiều, Mã-bảo ấy đi khắp tám phương, đến mébiển rồi trở về cung vua.
Kếđó lại có Nữ-bảo xuất hiện xinh đẹp đệ nhứt, chơnlông thoảng mùi chiên đàn, hơi miệng thơm sạch như hoa senxanh, mắt sáng nhìn xa một do tuần, tai nghe, mũi ngữicũng xa như mắt, lưỡi rộng lớn le ra có thể trùm cả mặt,da mịn láng như lá đồng đỏ, rất thông minh có trí huệ,lời nói dịu dàng đối với tất cả mọi người. Tay ngườiấy lúc chạm đến áo của vua, liền biết thân vua khỏe mạnhhay bịnh hoạn, cũng biết những ý nghĩ của vua.
Kếđó trong cung vua tự nhiên có Ma-ni bảo châu lớn bằng bắpvế của người, màu thuần xanh, trong suốt, trong chỗ tốicó thể chiếu sáng một do tuần. Nếu trời mưa giọt lớnnhư trục xe, thế lực của bảo châu nầy có thể che mộtdo tuần, giọt mưa không rơi xuống được.
Sauđó, lại có Chủ- tạng thần hiện ra, cặp mắt có thể thấythấu những kho châu báu ở trong lòng đất, tùy ý vua muốnđều có thể dưng đủ. Vua Đảnh-Sanh muốn thí nghiệm bèncùng Chủ-tạng thần ngồi thuyền ra biển, vua bảo chủ-tạngthần : Nay ta muốn đặng châu báu. Chủ-tạng thần liền lấyhai tay quậy nước biển, đầu mười ngón tay liền hiện ramười kho châu báu lấy dưng cho vua tâu rằng : “Tùy ý nhàvua chọn dùng, còn thừa lại nên ném trả xuống biển.”
Kếđó lại có chủ-binh thần xuất hiện, thao lược đệ nhứt,điều khiển bốn binh chủng rất giỏi. Lúc vua cần binh thờihiện quân lính ra để dùng. Lúc chẳng dùng binh, thời quânlính ẩn mất. Xứ nào chưa hàng phục chủ binh thần nầycó thể làm cho hàng phục. Xứ nào đã hàng phục, thời đủsức giữ gìn.
Lúcđó vua Đảnh-Sanh tự biết là Chuyển-Luân -Vương, bèn bảocác quan : “Cõi Diêm-Phù-Đề nầy an ổn giàu vui, nay bảy báu đã đủ,cả ngàn vương tử cũng đủ, giờ đây nên làm việc gì ?”
Cácquan tâu : “ Châu Phất-Bà-Đề phương Dông còn chưa qui thuận,đại vương nên đem binh qua chinh phục.”
VuaĐảnh-Sanh bèn cùng thất-bảo bay qua châu Phất-Bà-Đề, nhơndân trong châu đó đều vui mừng qui thuận.
Cácquan lại tâu nên chinh phục châu Cù-Đà-Ni ở phương Tây. Kế đó lại đến chinh phục châu Uất-Đơn-Việt. Sau khi chinhphục ba châu xong. Vua Đảnh-Sanh bảo các quan : “ Châu Nam-Diêm-Phù-Đềnày cùng ba châu đều an onå giàu vui, tất cả đều qui thuậnta, nay đây lại nên làm việc gì ?”
Cácquan tâu : “ Cõi trời Đao-Lợi tuổi thọ dài lâu , an ổn,khoái lạc, thân chư Thiên xinh đẹp hơn nhơn gian, cung điệnnhẫn đến giường ghế toàn bằng bảy báu, cậy phước trờichưa chịu đến qui phục, nay nên đem binh đánh dẹp.”
VuaĐảnh-Sanh lại cùng thất bảo bay lên cõi trời Đao-Lợi,trông thấy một cây màu xanh đậm bèn hỏi đại thần : Đólà cây gì ?
Đại-thầntâu : Cây ấy tên là Ba-Lợi-Chất-Đa-La, chư Thiên cõi Đao-Lợinầy đến ngày mùa hạ thường tựu hợp vui chơi dưới câyđó.
Lạitrông thấy màu trắng như bạch vân, vua Đảnh-Sanh hỏiđại thần chỗ đó là gì ? Đại-thần tâu đó là thiện-pháp-đường,chư thiên cõi Đao-Lợi thường nhóm nơi đó để bàn luậnnhững việc cõi trời cõi người.
Thiên-ChúaThích-Đề-Hoàn-Nhơn biết vua Đảnh-Sanh đã đến, liền ratiếp rước, cầm tay vào thiện-pháp-đường lên tòa mà ngồi.Hai vua hình dung tướng mạo giống nhau, chỉ có đôi mắt nhìnnháy là khác nhau.
Lúcđó vua Đảnh-Sanh nghĩ rằng : nay ta có thể đuổi thiên-chúanầy để ta ở đây làm thiên-vương.
Thiên-Đế-Thíchvốn thọ trì đọc tụng kinh điển Đại-thừa, thường vìchư Thiên giảng thuyết, chỉ chưa thông đạt hết thâm nghĩacủa kinh. Do thọ trì giảng thuyết Đại-thừa nên Thiên-Đếcó oai đức hơn.
Khivua Đảnh-Sanh khởi ác tâm đối với Thiên-Đế, tổn phướcliền tự rớt xuống Diêm-Phù-Đề, nhớ tiếc cõi trời lòngrất khổ não. Không bao lâu vua Đảnh-Sanh phải bịnhchết.
NầyThiện-nam-tử ! Thiên-Đế thuở đó chính là Phật Ca-Diếp,vua Đảnh-Sanh thời là tiền thân của ta.
NầyThiện-nam-tử ! Phải biết ái-biệt-ly như vậy rất là khổnão.
NầyThiện-nam-tử ! Đại-Bồ-Tát còn nhớ những trường hợpái-biệt-ly khổ thuở quá khứ, huống là Bồ-Tát trụ nơikinh Đại-Thừa Đại-Niết-Bàn mà nên chẳng quán sát sựái-biệt-ly khổ trong đời hiện tại !
NầyThiện-nam-tử ! Thế nào là Đại Bồ-Tát tu hành kinhĐại-thừa Đại- Niết-Bàn quán sát oán-tằng-hội khổ ?
Đại-Bồ-Tátnầy quán sát địa ngục, súc sanh, ngạ quỉ, loài người,trên trời đều có sự oán-tằng-hội-khổ như vậy.
Vínhư có người quán sát lao ngục giam nhốt, gông xiềng làrất khổ. Cũng vậy, Đại-Bồ-Tát quán sát năm loài chúngsanh đều là oán-tằng-hội-hiệp rất khổ sở.
Vínhư có người thường sợ kẻ oán thù, gông cùm, xiềng xích,nên bỏ cha mẹ, vợ con, quyến thuộc, cùng của báu sản nghiệpmà trốn lánh đi xa. Cũng vậy, Đại-Bồ-Tát sợ sanh tử,nên tu hành sáu môn Ba-La-Mật, chứng nhập Niết- Bàn. Đâygọi là Bồ-Tát tu hành Đại-thừa Đại-Niết-Bàn quán sátoán-tằng-hội khổ.
NầyThiện-nam-tử ! Thế nào là Đại-Bồ-Tát tu hành Đại-thừaĐại-Niết- Bàn quán sát cầu-bất-đắc khổ ?
Cầulà mong cầu tất cả , có hai thứ : Một là cầu pháp lành,hai là cầu pháp chẳng lành. Cầu pháp lành mà chưa đặngthời khổ, pháp ác muốn rời mà chưa rời được thời khổ.
Đâylà lược nói ngũ- ấm-thạnh khổ. Đây gọi là khổ đế.
Ca-diếpBồ-Tát bạch Phật : “ Thế-Tôn ! Như lời Phật nói, ngũấm thạnh khổ nghĩa đó chẳng phải. Vì như ngày trướcPhật bảo Thích-Ma-Nam : Nếu sắc là khổ, tất cả chúng sanhlẻ ra chẳng nên cầu sắc, nếu có người cầu thời chẳnggọi là khổ. Lại như Phật bảo các Tỳ-kheo thọ có ba thứ: Khổ thọ, lạc thọ, bất khổ bất lạc thọ. Lại như lúctrước đức Phật nói với các Tỳ-kheo : Nếu người nàocó thể tu hành pháp lành thời đặng thọ lạc. Lại như đứcPhật nói : Ở trong đường lành sáu căn lãnh thọ sáu cảnhvui : Mắt thấy sắc đẹp là vui, tai, mũi, lưỡi, thân nhẫnđến ý suy nghĩ pháp lành cũng như vậy.
NhưPhật từng nói kệ :
Trìgiới thời là vui, Thân chẳng thọ sự khổ. Ngủnghỉ đặng an ổn, Thức dậy lòng vui vẻ. Lúc nhậnlấy y thực, Đọc tụng và kinh hành, Ở riêng nơinúi rừng, Như vậy là rất vui. Nếu đối với chúngsanh, Ngày đêm tu lòng từ, Nhơn đây được thườngvui, Vì chẳng hại người khác. Ít muốn biết đủ vui, Học rộng biết nhiều vui, A-La-Hán không chấp, Cũnggọi là thọ vui, Các vị Đại Bồ-Tát, rốt ráođến bờ kia. Những việc làm đã xong, Đây gọilà rất vui.
Thế-Tôn! Trong các bộ kinh nói về tướng vui ý nghĩa như vậy. Thếnào tương ứng với nghĩa của Phật nói hôm nay ?
Phậtbảo Ca-Diếp Bồ-Tát : “ Lành thay ! Lành thay ! Ông khéocó thề thưa hỏi đức Như-Lai những nghĩa như vậy.
NầyThiện-nam-tử ! Tất cả chúng sanh đối với sự khổ hạnghạ tưởng lầm là vui. Vì thế nên nay ta nói tướng khổkhông khác với ngày trước đã nói.
Ca-DiếpBồ-Tát bạch Phật : “ Như lời Phật hỏi : Đối vớisự khổ hạng hạ tưởng cho là vui, thời sanh, lão, bệnh,tử hạng hạ cùng ái-biệt-ly, cầu-bất-đắc, oán- tằng-hội,ngũ-ấm-thạnh hạng hạ, những sự khổ như vậy lẽ ra cũngnên có vui.
Thế-Tôn! Sanh hạng hạ là ba ác thú, sanh hạng trung là loài người,sanh hạng thượng là trên trời.
Nếulại có người hỏi rằng : Nếu ở nơi sự vui hạng hạ tưởngcho là khổ, trong sự vui hạng trung tưởng cho là không khổkhông vui. Trong sự vui hạng thượng tưởng cho là vui, thờiphải trả lời thế nào ?
Thế-Tôn! Nếu trong sự khổ hạng hạ tưởng cho là vui, chưa thấycó người nào sẽ bị phạt đánh ngàn trượng, lúc mới đánhmột trượng đầu mà đã tưởng là vui. Nếu lúc đánhtrượng đầu chẳng tưởng là vui, thế sao nói rằng : Nơitrong sự khổ hạng hạ mà tưởng cho là vui ?”
Phậtbảo Ca-Diếp Bồ-Tát : “ Phải lắm ! Phải lắm ! Đúng nhưlời ông nói. Do nghĩa nầy nên không có tưởng là vui, vìnhư người tội kia sẽ bị phạt đánh ngàn trượng, khi bịđánh một trượng rồi liền đặng tha. Người nầy bèn sanhlòng vui. Vì thế nên biết rằng trong sự không vui lầm tưởnglà vui.”
Ca-DiếpBồ-Tát bạch Phật : Thế-Tôn ! Người đó chẳng vì bị đánhmột trượng mà sanh vui. Chính vì đặng tha mà sanh lòngvui.
_ NầyThiện-nam-tử ! Vì thế nên ta ngày trước nói với Thích-Ma-Namtrong ngũ ấm có vui, lời đó là đúng, thiệt chẳng phảimâu thuẩn vậy.
NầyThiện-nam-tử ! Có ba thọ và ba khổ. Ba thọ là : Lạc thọ,khổ thọ và bất khổ bất lạc thọ. Ba khổ là : Khổ-khổ,hành khổ, hoại khổ.
NầyT.hiện-nam-tử ! Khổ thọ chính là cả ba món khổ : Khổ-khổ,hành khổ và hoại khổ. Hai món thọ kia chính là hành khổvà hoại khổ. Do đây nên trong sanh tử thiệt có lạc thọ.Đại-Bồ-Tát thấy tánh khổ cùng tánh lạc chẳng rời lìanhau nên nói rằng tất cả đều khổ.
NầyThiện-nam-tử ! Trong sanh tử thiệt không có vui, vì chư Phật Bồ-Tát tùy thuận thế gian nên nói là có vui.
Ca-DiếpBồ-Tát bạch Phật : “ Thế-Tôn ! Chư Phật và Bồ-Tát nếutùy theo thế tục mà nói, thời là có hư vọng chăng ? NhưPhật thường nói, người tu hành pháp lành thời thọ quảbáo vui. Trì giới an vui thân chẳng thọ khổ, nhẫn đến việclàm đã xong đây là rất vui. Lời nói thọ vui trong các kinhnhư vậy, chừng có hư vọng chăng . Nếu là hư vọng, thờichư Phật Thế-tôn trong vô lượng trăm ngàn muôn ức a-tăng-kỳ-kiếptu hành đạo bồ-đề đã lìa vọng ngữ. Nay Phật nói nhưvậy ý nghĩa thế nào ?
_ NầyThiện-nam-tử ! Như bài kệ nói về những sự thọ lạc trướckia chính là cội gốc của đạo Bồ-Đề, cũng có thể trưởng-dưỡngvô thượng bồ-đề. Do nghĩa đó nên trong những kinh trướcnói tướng vui như vậy.
Vínhư trong thế gian những đồ cần dùng cho đời sống, cóthể làm nhơn cho sự vui, nên gọi là vui. Như nữ sắc, rượuuống, đồ ăn ngon, lúc khát được nước, lúc lạnh đượclửa, y phục, chuỗi ngọc, voi ngựa, xe cộ, tôi tớ, vàng,bạc, lưu ly, san hô, chơn châu, kho đựng lúa gạo, những vậtnhư vậy người đời cần dùng có thể làm nhơn cho sự vuinên gọi là vui.
NầyThiện-nam-tử ! Những vật như vậy cũng có thể sanh sự khổ.Nhơn nơi nữ sắc sanh sự khổ, lo, rầu, buồn, khóc nhẫnđến phải chết cho người nam. Nhơn nơi rượu, đồ ăn ngon,nhẫn đến lúa gạo cũng có thể làm cho người phải lo khổnhiều. Do nghĩa đó nên tất cả đều khổ không có tướngrốt ráo vui.
NầyThiện-nam-tử ! Đại-Bồ-Tát nơi tám điều khổ nầy, hiểurỏ là khổ nên không bị khổ.
NầyThiện-nam-tử ! Tất cả hàng Thanh-Văn, Duyên-Giác chẳng biếtnhơn của sự vui, nên Phật vì họ ở trong sự khổ hạnghạ nói có tướng vui. Chỉ có Bồ- Tát trụ nơi Đại-ThừaĐại-Niết-Bàn bèn có thể biết nhơn của sự khổ sự vuinầy.
NầyThiện-nam-tử ! Thế nào là Đại-Bồ-Tát trụ nơi Đại-ThừaĐại-Niết- Bàn quán sát tập đế ? Đại-Bồ-Tát quán sáttập đế là nhơn duyên ngũ ấm. Tập nghĩa là trở lại ái-luyếnnơi hữu. Ái có hai thứ : Một là ái thân mình, hai là áiđồ cần dùng. Lại có hai thứ : Năm thứ dục lạc, lúc chưađặng tâm luôn tìm cầu, đã tìm cầu đặng rồi luôn đắmtrước. Lại có ba thứ : dục ái, sắc ái, vô sắc ái. Lạicó ba thứ : Nghiệp nhơn duyên ái, phiền não nhơn duyên ái,khổ nhơn duyên ái. Người xuất gia có bốn thứ ái : Y phục,đồ ăn uống, đồ nằm, thuốc thang. Lại có năm thứ : Thamlam nơi ngũ ấm, tùy chỗ cần dùng tất cả đều tham ái toantính phân biệt vô-lượng vô-biên.
NầyThiện-nam-tử ! Ái có hai thứ : Một là thiện ái, hai là bấtthiện ái. Chỉ người ngu tìm cầu bất thiện ái. Cácvị Bồ-Tát cầu nơi thiện-ái. Thiện ái lại có hai thứ: Bất thiện và thiện. Cầu pháp Nhị-thừa gọi là bất thiện.Cầu pháp Đại- thừa gọi là thiện.
NầyThiện-nam-tử ! Kẻ phàm phu tham ái gọi là “ tập” chẳnggọi là “đế”. Sự ái của Bồ-Tát thời gọi là thậtđế chẳng gọi là tập, vì Bồ-Tát muốn độ chúng sanh nênthị hiện thọ sanh, chẳng phải vì tham ái mà thọ sanh.
Ca-DiếpBồ-Tát bạch Phật : Thế-Tôn ! Như trong các kinh khác đứcPhật vì chúng sanh mà nói nghiệp làm nhơn duyên, hoặc nóikiêu mạn, hoặc nói lục xúc, hoặc nói vô minh làm nhơn duyênmà có ngũ ấm xí-thạnh. Hôm nay do nghĩa gì đức Phậtnói bốn Thánh-Đế riêng lấy ái làm nhơn cho ngũ ấm.
Phậtkhen Ca-Diếp Bồ-Tát : “ Lành thay ! Lành thay ! Đúng như lờiông vừa nói, các nhơn duyên chẳng phải làm cũng chẳng phảinhơn, chỉ vì năm ấm cần phải nhơn nơi ái.
Vínhư quốc vương lúc đi tuần du các quan quyến thuộc thảyđều theo hầu. Cũng vậy, ái đi đến chỗ nào thời các kiếtsử cũng đi theo.
Vínhư y phục thấm mồ hôi, bụi bay đến liền bám dính. Cũngvậy, chỗ nào có ái những nghiệp kiết cũng ở nơi đó.
Vínhư đất ướt thời có thể mọc mầm. Cũng vậy, ái có thểsanh tất cả mầm nghiệp phiền não.
NầyThiện-nam-tử ! Đại Bồ-Tát trụ nơi Đại-thừa Đại-Niết-Bànquán sát kỹ ái nầy có chín thứ : Một là như thiếu nợ,hai là như vợ La-Sát, ba là như trong cọng hoa đẹp có rắnđộc vấn , bốn là như vật thực độc mà cố ăn đó, nămlà như dâm nữ, sáu là như hột ma-lâu-ca, bảy là như thịtthúi trong mụn nhọt, tám là như gió bão, chín là như sao chổi.
Nhưthiếu nợ là thế nào ! Ví như người nghèo cùng thiếu tiềncủa người khác, dầu đã trả nợ mà vẫn còn thiếu, nênbị giam nhốt chưa ra khỏi ngục. Hàng Thanh-Văn Duyên-Giácvì còn tập khí thừa của ái nên chẳng chứng đặng vô thượngbồ-đề.
Nhưvợ La-Sát là thế nào ? Ví như có người lấy gái La-Sátlàm vợ, gái La- Sát nầy hễ sanh con liền ăn thịt, ăn thịtcon đẻ hết lại ăn luôn thịt chồng. Ái cũng vậy, tùy ngườisanh thiện căn nó liền ăn, ăn hết thiện căn nó lại ănluôn cả người làm cho phải đọa địa ngục, súc sanh ngãquỉ. Chỉ trừ các vị Bồ-Tát.
Nhưcọng hoa đẹp có rắn độc vấn là thế nào ? Như có ngườithích hoa đẹp mà chẳng thấy cọng hoa có rắn độc, liềnđến ngắt hoa bị rắn cắn chết. Tất cả phàm phu tham đắmngũ dục mà chẳng thấy độc hại của ái, nên bị ái làmhại, sau khi chết đọa trong ba đường ác. Chỉ trừ các vịBồ-Tát.
Vậtthực độc mà cố ăn là thế nào ? Như có người cố ănvật thực độc, ăn xong đau bụng thổ tả mà chết. Chúngsanh trong ngũ đạo vì tham ái mà phải bị đọa trong ba đườngác. Chỉ trừ các vị Bồ-Tát.
Nhưdâm nữ là thế nào ? Ngư người ngu tư thông với dâm nữ,dâm nữ nầy thường dối phĩnh gạt đoạt hết tiền củarồi xua đuổi người ấy. Người ngu không có trí tuệ bịtham ái đoạt tất cả pháp lành rồi xua đuổi vào trong bađường ác. Chỉ trừ các vị Bồ-Tát.
Nhưhột ma-lâu-ca là thế nào ? Nếu chim ăn hột ma-lâu-ca, phẩnchim do gió thổi rớt dưới cây liền mọc lên đeo vấn câyto làm cho khô chết, tham ái ràng buộc phàm phu làm cho pháplành không tăng trưởng nhẫn đến khô diệt, sau khi chếtđọa vào ba đường ác. Chỉ trừ các vị đại Bồ-Tát.
Thịtthúi trong mụn nhọt như thế nào ? Như người bị ung nhọt,trong nhọt sanh thịt thúi, người bịnh nầy phải chuyên tâmchạy chữa, nếu chểnh mãng thời thịt thúi sanh trùng cóthể phải chết, ngũ ấm của phàm phu cũng như vậy, ái sanhtrong đó, phải nên siêng năng điều trị tham ái, nếu khôngđiều trị sẽ phải đọa trong ba đường ác. Chỉ trừ cácvị Bồ-Tát.
Nhưgió bão là thế nào ? Gió bão có thể làm lở núi ngãcây. Cũng vậy, tham ái sanh tâm ác đối với cha mẹ,có thể làm ngã trốc cội cây vô thượng Bồ- Đề của cácông Đại-Trí Xa-Lợi-Phất vân vân. Chỉ trừ các vị Bồ-Tát.
Nhưsao chổi là thế nào ? Như sao chổi mọc thời trong thiênhạ phải bịnh tật, đói kém, họa tai khổ sở. Cũng vậy,ái có thể dứt tất cả căn lành làm cho phàm phu cơ cùngthiếu thốn sanh bịnh phiền não lưu chuyển trong sanh tử mangnhiều sự khổ. Chỉ trừ các vị Bồ-Tát.
NầyThiện-nam-tử ! Đại-Bồ-Tát Đại-Thừa trụ nơi Đại-Niết-Bànquán sát tham ái có chín thứ như vậy.
Donghĩa trên đây, hàng phàm phu có khổ, không đế. Hàng Thanh-VănDuyên- Giác có khổ đế mà không chơn thật. Các vị Bồ-Táthiểu khổ không có khổ mà có chơn đế. Hàng phàm phu cótập không có đế. Hàng Thanh-Văn Duyên- Giác có tập có tậpđế. Các vị Bồ-Tát hiểu tập không có tập mà có chơnđế. Hàng Thanh- Văn Duyên-Giác có diệt mà chẳng phải chơn.Đại-Bồ-Tát có diệt có chơn đế. Hàng Thanh-Văn Duyên-Giáccó đạo mà chẳng phải chơn. Đại Bồ-Tát có đạo có chơnđế.
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường, nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.
May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland, Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below, may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma, the Land of Ultimate Bliss.
Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600 Website: http://www.quangduc.com
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.