- 01. Phẩm Tự
- 02. Phẩm Thuần Đà
- 03. Phẩm Ai Thán
- 04. Phẩm Trường Thọ
- 05. Phẩm Kim Cang Thân
- 06. Phẩm Danh Tự Công Đức
- 07. Phẩm Tứ Tướng
- 08. Phẩm Tứ Y
- 09. Phẩm Tà Chánh
- 10. Phẩm Tứ Đế
- 11. Phẩm Tứ Đảo
- 12. Phẩm Như Lai Tánh
- 13. Phẩm Văn Tự
- 14. Phẩm Điểu Dụ
- 15. Phẩm Nguyệt Dụ
- 16. Phẩm Bồ Tát
- 17. Phẩm Đại Chúng Vấn
- 18. Phẩm Hiện Bịnh
- 19. Phẩm Thánh Hạnh
- 20. Phẩm Phạm Hạnh
- 21. Phẩm Anh Nhi Hạnh
- 22. Phẩm Quang Minh Biến Chiếu Cao Quý Đức Vương Bồ Tát
- 23. Phẩm Sư Tử Hống Bồ Tát
- 24. Phẩm Ca Diếp Bồ Tát
- 25. Phẩm Kiều Trần Như
- 26. Phẩm Di Giáo
- 27. Phẩm Ứng Tận Hườn Nguyên
- 28. Phẩm Trà Tỳ
- 29. Phẩm Cúng Dường Xá Lợi
DịchTừ Hán Sang Việt: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
TịnhXá Minh Ðăng Quang, Hoa Kỳ Xuất Bản 1990
PHẨMQUANG MINH BIẾN CHIẾU CAO QUÝ
ĐỨCVƯƠNG BỒ TÁT THỨ HAI MƯƠI HAI
Trang02
Tấtcả phàm phu đối với đời vị lai đều có tâm nghi : Trongđời vị lai sẽ có thân hay chẳng có thân? Trong đời quakhứ thân vốn có hay là vốn không ? Trong đời hiện tạithân nầy có hay thân nầy không? Nếu có ngã, thời ngã ấylà sắc hay là chẳng phải sắc ? Là tưởng hay chẳng phảitưởng ? Thân nầy thuộc về cái khác hay chẳng thuộc ? Làcó mạng có thân hay có thân không mạng ? Thân cùng mạng làthường hay vô thường ? Thân cùng mạng do Tự Tại Thiên tạoư ? Thời tiết tạo ư ? Vô nhơn tạo ư ? Thế tánh tạo ư? Vi trần tạo ư ? Pháp cùng phi pháp tạo ư ? Sĩ phu tạo ư? Phiền não tạo ư ? Cha mẹ tạo ư ? Ngã ở nơi tâm hay ởnơi nhãn ? Ngã thắp đầy trong thân ư ? Ngã từ đâu đến,đi đến chỗ nào ? Ai sanh ai chết ? Ngã thuở quá khứ làchủng tánh nào ? Đời vị lai sẽ thuộc chủng tánh nào ?Thuở quá khứ, thân nầy của ta là nam hay nữ ? Nếu ta sátsanh sẽ phải tội hay không tội ? Nhẫn đến uống rượusẽ có tội hay không tội ? Ta tự gây tạo hay vì người màgây tạo ? Ngã thọ báo hay thân thọ báo ?
Vôlượng điều nghi chấp như vậy che đậy chúng sanh làm chotâm phiền muộn. Do những điều nghi chấp nầy sanh ra sáuthứ quan niệm : Một là quyết định có ngã, hai là quyếtđịnh không ngã; ba là ngã thấy là ngã; bốn là ngã thấylà không ngã; năm không ngã thấy là ngã; sáu là ngã làm ngãthọ ngã biết. Những quan niệm trên đây gọi là tà kiến.
NhưLai đã dứt hẳn vô lượng cội gốc tà kiến, hữu lậu nhưvậy, nên Như Lai chẳng phải hữu lậu. Đại Bồ Tát tu thánhhạnh Đại Niết Bàn cũng dứt hẳn được những lậu nhưvậy. Chư Phật thường tu thánh hạnh nên là vô lậu.
NầyThiện nam tử ! Phàm phu chẳng thể khéo nhiếp năm căn thờicó ba thứ lậu, bị nghiệp ác kéo dắt đến nơi chỗ chẳnglành. Ví như ngựa dữ tánh hung hăng, có thể làm cho ngườicỡi đến chỗ hiểm nạn. Người không khéo nhiếp năm căncũng như vậy, có thể làm cho người đó xa lìa pháp lànhđến những chỗ ác.
Vínhư voi dữ chưa điều thuận, người cỡi nó chẳng thể tùyý, nó đưa người xalìa thành ấp đến nơi rừng sâu. Chẳngkhéo điều nhiếp năm căn nó sẽ dắt người xa lìa thànhấp Niết Bàn đến nơi rừng rậm sanh tử. Ví như tôi nịnhbảo vua làm ác, như đứa con hư chẳng tuân lời dạy củacha mẹ sư trưởng, chẳng khéo nhiếp ngũ căn nó sẽ khiếnngười làm ác chẳng thuận pháp lành.
Phàmphu chẳng nhiếp ngũ căn thường bị địa ngục súc sanh ngạquỉ tàn hại, như giặc cướp hại người lành.
Phàmphu chẳng nhiếp ngũ căn chạy theo ngũ trần, như người chăntrâu chẳng khéo giữ gìn để trâu làm hại lúa mạ.
Phàmphu chẳng nhiếp ngũ căn nên thường ở trong ba cõi chịu nhiềusự khổ não. Đại Bồ Tát lúc tu Thánh hạnh Đại Niết Bàn,thường có thể khéo nhiếp ngũ căn, dứt trừ tham dục, sânkhuể, ngu si, kiêu mạn , tật đố, để được thành tựutất cả pháp lành.
Nếungười có thể khéo giữ gìn ngũ căn thời nhiếp được tâm, nếu nhiếp được tâm thời nhiếp ngũ căn. Ví như có ngườiủng hộ Quốc Vương thời là ủng hộ Quốc Gia, ủng hộQuốc Gia thời là ủng hộ Quốc Vương.
ĐạiBồ Tát nếu đặng nghe kinh Đại Niết Bàn nầy thời đượctrí huệ vì được trí huệ thời được chuyên niệm. Nếungũ căn tán loạn thời chánh niệm có thể nhiếp dừng lại,vì là niệm huệ vậy. Như người chăn giỏi, giả sử trâusút dây đi ăn lúa mạ của người thời liền bắt lại. Nhờniệm huệ nên Đại Bồ Tát thâu nhiếp ngũ căn chẳng chotán loạn. Nhờ có niệm huệ nên Đại Bồ Tát chẳng thấyngã tướng, chẳng thấy tướng ngã sở, chẳng thấy chúngsanh cùng chỗ thọ dụng. Thấy tất cả pháp đồng làpháp tánh, sanh ra tướng đất đá ngói sạn. Như nhà cửado nhiều duyên hiệp lại thành không có tánh nhứt định.Thấy chúng sanh do tứ đại ngũ ấm hiệp thành không tánhquyết định. Vì không tánh quyết định nên Bồ Tát ở trongđó chẳng sanh tham đắm. Tất cả phàm phu vì thấy có chúngsanh nên khởi phiền não. Đại Bồ Tát tu Đại Niết Bàn vìcó niệm huệ nên đối với chúng sanh chẳng sanh tham trước.
ĐạiBồ Tát tu kinh Đại Niết Bàn chẳng chấp trước tướng chúngsanh mà hiện làm ra những pháp tướng. Như thợ vẽ dùng cácthứ màu vẽ thành những hình tượng : Hoặc nam, hoặc nữ,hoặc trâu, hoặc ngựa. Phàm phu không trí huệ thấy đó thờicho rằng có tướng nam nữ v.v… thợ vẽ rõ biết không cónam nữ. Cũng vậy vì có niệm huệ nên Đại Bồ Tát đốivới tướng sai khác của các pháp thấy là một tướng, trọnchẳng thấy tướng chúng sanh.
ĐạiBồ Tát tu kinh Đại Niết Bàn vì khéo quán sát pháp tướngnên lúc thấy nam nữ đoan chánh trọn chẳng sanh lòng tham trước.
ĐạiBồ Tát biết ngũ dục không có thiệt vui, chẳng tạm dừng,như chó ngậm xương khô, như người cầm lửa đi ngược gió,như rắn độc đựng trong trấp, như trong chiêm bao lượm đượctrái cây trên đường, như khối thịt bầy chim đuổi theo,như bóng nước, như dấu vẽ trong nước, như dệt hết đườngcanh chỉ, như người tù dắt ra chợ, như vật mượn tạm.Bồ Tát quan sát ngũ dục nhiều lỗi ác như vậy.
ĐạiBồ Tát quán sát chúng sanh vì sắc hương vị xúc, nên từvô lượng kiếp đến nay, chịu nhiều khổ não. Trong mộtkiếp, mỗi chúng sanh, xương nơi thân chất như thành Vươngxá, như núi Tỳ Phú La. Uống sữa mẹ nhiều như nước trongbốn biển. Máu trong thân chảy ra nhiều hơn nước bốn biển.Nước mắt khíoc người chết của cha mẹ, anh em, vợ con,quyến thuộc, nhiều hơn nước bốn biển. Dùng tất cả cỏcây trên mặt đất làm thẻ dài bốn tấc để đếm cha mẹcũng không thể hết. Từ vô lượng kiếp, hoặc ở địa ngục súc sanh ngạ quỷ chẳng thể tính đếm. Vò quả đấtnầy bằng trái táo còn có thể dễ hết, nhưng sanh tử rấtkhó hết.
ĐạiBồ Tát quán sát tất cả chúng sanh vì ngũ dục mà chịu vôlượng sự khổ như vậy, do đây Bồ Tát chẳng mất niệmhuệ.
Vínhư trong đời có nhóm người đông đầy chật hai mươi lămdặm. Vua truyền một quan chức cầm một chén dầu đầy điqua giữa đám đông ấy không được làm đổ, nếu đổ rơimột giọt sẽ bị tội chết. Vua lại sai một người cầmgươm theo sau nếu thấy dầu đổ thời chém. Vì sợ chếtnên quan chức ấy hết lòng gìn giữ chén dầu, đi qua khỏiđám đông chẳng làm đổ một giọt.
Cũngvậy, Đại Bồ Tát ở trong sanh tử chẳng mất niệm huệ,nên dầu thấy ngũ dục mà tâm không tham trước. Lúc bấygiờ ngũ căn của Bồ Tát thanh tịnh, vì ngũ căn thanh tịnhnên giữ gìn giới căn đầy đủ.
Tấtcả phàm phu ngũ căn chẳng thanh tịnh chẳng khéo giữ gìnnên gọi là căn lậu. Bồ Tát đã dứt hẳn nên là vô lậu.Như Lai đã dứt hẳn cội gốc nên chẳng phải là lậu.
NầyThiện nam tử ! Lại có ly lậu. Đại Bồ Tát vì muốn đượcquả Phật vô thượng cam lồ nên lìa các ác lậu. Nếu cóthể tu hành kinh Đại Niết Bàn, biên chép, thọ trì, đọctụng, giải thuyết, tư duy ý nghĩa, đây gọi là xa lìa.
NầyThiện nam tử ! Ta chẳng thấy trong mười hai bộ kinh có kinhnào lìa được các ác lậu như kinh Đại Thừa Đại NiếtBàn nầy.
Vínhư ông thầy giỏi dạy các đồ đệ, trong hàng đồ đệngười thuận theo lời thầy dạy thời chẳng gây tạo việcác.
Cũng vậy Đại Bồ Tát tu hành kinh Đại Niết Bàn thời tâmchẳng gây tạo nghiệp ác.
Vínhư trong đời có người giỏi chú thuật, nếu ai một lầnnghe được chú nầy trong bảy năm chẳng bị trúng độc, rắnđộc chẳng cắn được, nếu có người tụng thuộc chú nầythời trọn đời không có những sự họa hại. Cũng vậy,nếu có chúng sanh một lần nghe kinh Đại Niết Bàn nầy thờitrọn bảy kiếp chẳng bị đọa ác đạo. Nếu có ngườibiên chép, đọc tụng, giải thuyết, tư duy ý nghĩa, thờiquyết định thấy Phật tánh đặng vô thượng Bồ Đề.
KinhĐại Niết Bàn nầy có vô lượng công đức như vậy. Nếungười nào biên chép, đọc tụng, giải thuyết, tư duy ý nghĩacủa kinh nầy, thời thiệt là đệ tử Phật, khéo lãnh thọgiáo pháp của Phật, là người mà Phật thường thấy thườngnhớ, là người biết rõ Phật chẳng nhập Niết Bàn. Ngườinầy ở tại chỗ nào thời Phật cũng ở trong đó, thườngnhận sự cúng dường của người nầy, hoặc hiện làm TỳKheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di, Bà La Môn, Phạm Chí,người nghèo khổ ăn xin. Người nầy hoặc ở trong chiêm baothấy tượng Phật, hoặc thấy Trời, thấy Sa Môn, Thánh Vương,Quốc Vương, Sư Tử Vương, hoa sen, hoa Ưu Đàm, hoặc thấynúi cao, biển lớn, mặt trời, mặt trăng, hoặc thấy BạchTượng, bạch Mã, hoặc thấy cha mẹ, đặng bông, đặng trái,vàng bạc, lưu ly, pha lê những châu báu, thấy sữa, lạc,tô, đề hồ v.v…, nên biết chính là Như Lai nhận sự cúngdường. Người nầy sau khi tỉnh giấc vui mừng liền đặngnhững đồ vật cần dùng, tâm chẳng nghĩ điều ác, thíchthật hành điều lành.
NầyThiện nam tử ! Kinh Đại Niết Bàn có vô lượng vô số côngđức chẳng thể nghĩ bàn như vậy, nay ông phải tin lấy lờicủa Phật.
Nếungười nào muốn thấy Phật, muốn cung kính Phật, muốn đồngpháp tánh mà thấy Phật, muốn đặng không định, muốn thấythiệt tướng, muốn tu tập Thủ Lăng Nghiêm định, Sư TửVương định, muốn phá tám ma : Phiền não, ngũ ấm, tử ma,thiên ma, vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh, muốn đặnghưởng vui trong loài người hay trên trời, thời phải qua gầngũi học hỏi cúng dường cung kính tôn trọng tán thán ngườithọ trì đọc tụng biên chép giải thuyết tư duy ý nghĩakinh Đại Niết Bàn, rửa tay chưn cho người đó, trải giừơngchiếu cung cấp đầy đủ tất cả đồ cần dùng. Nếu ngườiđó từ xa đến, phải ra rước ngoài mười do diên. Vì tôntrọng kinh Đại Niết Bàn nên đem tất cả vật nhu dụng dưngcúng cho người đó. Nếu không có, phải tự bán thân mìnhđể mua sắm. Vì kinh nầy khó được gặp hơn hoa Ưu Đàm.
NầyThiện nam tử ! Ta nhớ thuở quá khứ vô lượng vô biên nado tha kiếp, thuở đó có cõi nước hiệu là Ta Bà, Phật hiệulà Thích Ca Mâu Ni đầy đủ mười hiệu, vì hàng đại chúngtuyên nói kinh Đại Niết Bàn. Thuở đó ta được nghe kinhnầy nơi các người bạn. Lòng ta vui mừng muốn sắm đồcúng dường, nhưng vì quá nghèo thiếu nên không có một vậtchi đáng giá. Ta tự đem thân đi bán, nhưng vì bạc phướcnên chẳng ai chịu mua. Buồn tủi trở về nhà, giữa đườngta gặp một người, bèn đem tâm sự bày tỏ. Người ấy bảota : Nếu ông bằng lòng làm theo nhu cầu của người thờingười sẽ mua với giá năm đồng tiền vàng. Người ấy cóbịnh lạ y sĩ chế thuốc mỗi ngày cần có ba lượng thịtngười. Ta vui mừng nhận lời yêu cầu. Người đó trả tiềntrước, sau bảy ngày ta sẽ đến nhà người để theo đúngnhu cầu của người. Người ấy bằng lòng nhưng chỉ cho mộtngày vì bịnh người phải gấp dùng thuốc.
Saukhi lãnh tiền ta liền đến chỗ Phật đảnh lễ chơn Phật,rồi đem tất cả năm đồng tiền vàng dưng lên Phật. Cúngdường xong, ta chí thành lóng nghe Phật giảng kinh Đại NiếtBàn. Lúc đó tâm trí ta quá tối, dầu đặng nghe kinh nhưngchỉ thọ trì được một bài kệ :
NhưLai chứng Niết Bàn . Dứt hẳn nơi sanh tử. Nếu người hếtlòng nghe thường được vui vô lượng.
Saukhi thọ trì bài kệ trên đây rồi, ta liền đến nhà ngườibịnh. Nhờ ta niệm tưởng bài kệ, nên dầu mỗi ngày cắtlấy ba lượng thịt nơi thân, nhưng ta chẳng lấy làm đaukhổ lắm. Trọn một tháng, mỗi ngày ta cắt lấy thịt chongười làm thuốc, do đó bịnh người được lành mà thâncủa ta cũng được bình phục, ta liền phát tâm vô thượntgBồ Đề, nguyện đời vị lai đặng thành Phật hiệu ThíchCa Mâu Ni.
NầyThiện nam tử ! Do công đức của một bài kệ ấy làm chota ngày nay được thành Phật, ở trong đại chúng tuyên nóikinh Đại Niết Bàn nầy.
NầyThiện nam tử ! Kinh Đại Niết Bàn thành tựu vô lượng vôbiên công đức chẳng thể nghĩ bàn như vậy, đây là tạngbí mật rất sâu của chư Phật. Do nghĩa nầy nên người thọtrì dứt lìa được những ác lậu. Chính là voi ác, ngựaác, trâu ác, chó ác, rắn độc, chỗ đất nhiều gai, gộpcao, bờ biển, nước xoáy chảy xiết, người ác, nước ác,thành ác, nhà ác, bạn ác v.v… Những nơi đó nếu là nhơnác lậu thời Bồ Tát liền xa lìa, nếu chẳng phải nhơn áclậu thời Bồ Tát chẳng xa lìa. Nếu thêm hữu lậu thờixa lìa, nếu chẳng thêm thời chẳng xa lìa. Nếu là pháp ácthời bèn xa lìa, nếu có thể làm lành thời chẳng xa lìa.Xa lìa như thế nào ? Chẳng cầm dao gậy, thường dùng tríhuệ phương tiện mà xa lìa đó, đây gọi là chánh huệ viễnly, vì muốn thêm lớn pháp lành thời phải xa lìa pháp ác.
ĐạiBồTát quán sát thân tướng của mình, xem như ghẻ, như nhọtnhư oán thù, như tên độc, là chỗ khổ, là cội gốc củatất cả thiện ác. Thân nầy dầu bất tịnh như vậy, BồTát vẫn săn sóc nuôi dưỡng, chẳng phải vì tham thân, chínhlà vì pháp lành ; chẳng phải vì sanh tử, chính là vì NiếtBàn ; vì thường, lạc, ngã, tịnh ; vì đạo Bồ Đề ; vìnhứt thừa ; vì ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp,vì pháp vương. Đại Bồ Tát thường phải giữ gìn thân thểcho được an tòan để biên chép, thọ trì, đọc tụng, giảithuyết, tư duy ý nghĩa kinh Đại Niết Bàn nầy. Vì thế nênBồ Tát phải khéo giữ gìn thân thể. Do nghĩa nầy nên BồTát đặng xa lìa tất cả ác lậu.
Nhưngười muốn qua sông phải khéo giữ gìn thuyền bè. Ngườiđi đường xa khéo giữ gìn ngựa hay. Như nhà trồng tỉa khéogiữ gìn phân tro. Như vì chữa độc nên khéo giữ gìn rắnđộc. Như người vì của cải nên nuôi dưỡng Chiên Đà La.Như vì muốn phá giặc nên nuôi dưỡng dũng sĩ. Như ngườilạnh giữ gìn ngọn lửa. Như người bịnh hủi tìm cầu thuốcđộc. Cũng vậy, Đại Bồ Tát dầu thấy thân nầy đầy vôlượng nhớp nhơ, nhưng vì muốn thọ trì kinh Đại Niết Bànnên vẫn giữ gìn nuôi dưỡng.
ĐạiBồ Tát xem voi ác cùng bạn ác đồng nhau không khác, vì đều làm hại thân. Đối với voi ác, Bồ Tát chẳng sợbằng sợ bạn ác.Vì voi ác chỉ hại thân mà chẳng hại đượctâm. Bạn ác thời hại cả hai thứ thân và tâm. Voi ác chỉlàm hại một thân. Bạn ác có thể làm hại vô lượng thânlành vô lượng tâm lành. Voi ác chỉ có thể phá hoại thânhôi nhơ. Bạn ác có thể phá hoại tịnh thân cùng tịnh tâm.Voi ác chỉ có thể làm hại nhục thân. Bạn ác làm hại đếnpháp thân. Bị voi ác giết chẳng sa đến ba đường ác. Bịbạn ác giết tất sa đến ba đường ác. Voi ác chỉ là kẻoán thù của thân. Bạn ác là kẻ oán thù của pháp lành.Do đây nên Bồ Tát thường phải xa lìa bạn ác.
Nhữngác lậu như vậy, phàm phu chẳng xa lìa nên sanh ác lậu, BồTát xa lìa thời chẳng sanh ác lậu. Bồ Tát còn không có áclậu như vậy huống là Như Lai.
Thếnào là gần gũi ác lậu ? Tất cả phàm phu lãnh lấy y phụcvật thực đồ nằm thuốc thang, họ vì sự đòi hỏi củathân tâm mà tìm cầu những vật như vậy, nên gây tạo nhiềutội ác, chẳng biết là lỗi lầm, phải luân hồi trong bađường ác, do đây nên gọi là ác lậu. Đại Bồ Tát thấynhững lỗi như vậy thời bèn xa lìa.
Lúccầu y phục Bồ Tát bèn nhận lấy. Chẳng phải vì thân mụcđích chỉ vì pháp lành ; chẳng kiêu mạn, thường khiêm tốn,chẳng vì phục sức tốt đẹp, chỉ vì hổ thẹn, để chelạnh che nắng, che gió mưa ngăn muỗi mòng. Bồ Tát dầu lãnhthọ vật thực, nhưng lòng chẳng tham đắm chẳng vì thânchĩ vì chánh pháp, chẳng vì da thịt chỉ vì chúng sanh,để trị bịnh đói, dầu đặng món ăn ngon cũng vẫn khôngtham đắm.
BồTát lúc nhận lấy phòng nhà cũng như vậy, chẳng để quanniệm tham đắm ở nơi lòng, vì che mưa gió, vì Bồ Đề mànhận lấy phòng nhà.
Lúccầu thuốc thang lòng Bồ Tát không tham đắm, chẳng phảivì mạng sống chỉ vì chánh pháp, vì pháp thân huệ mạng.Như người bị ung nhọt, dùng thuốc đắp lên lấy vải bóđó, như vậy là chỉ vì để rút máu mủ cho bịnh đượclành. Vì tránh gió độc nên ở trong nhà kín. Cũng vậy, ĐạiBồ Tát xem thân thể là ung nhọt nên lấy y phục che đậy,vì cửu khiếu máu mủ mà tìm cầu món ăn vật uống, vì mưagió độc nên nhận lấy phòng nhà vì bốn độc phát bịnhnên tìm cầu thuốc thang. Vì đạo Bồ Đề mà Bồ Tát lãnhlấy bốn thứ cúng dường chẳng vì mạng sống. Bồ Tát suynghĩ như vầy : Nếu tôi chẳng nhận lấy bốn thứ cúng dườngnầy, thời thân thể phải chết mất, chẳng thể nhẫn thọkhổ nhọc ; nếu không kham sự khổ nhọc thời không thểtu tập pháp lành ; nếu kham sự khổ nhọc thời có thể tutập vô lượng pháp lành; nếu tôi chẳng kham nhẫn các sựkhổ, thời sẽ sanh lòng giận hờn đối với việc nghịchtrái, và sẽ sanh lòng tham đắm đối với cảnh thuận vui; nếu tìm cầu sự vui mà chẳng đặng thời sanh lớn vô minhmê muội.
Dođây nên phàm phu sanh những ác lậu đối với bốn thứ cầndùng. Bồ Tát vì có thể quan sát như vậy nên chẳng sanh nhữngác lậu, do đây nên gọi là vô lậu. Bồ Tát còn vô lậunhư vậy huống là Như Lai. Vì thế nên Như Lai chẳnggọi là hữu lậu.
NầyThiện nam tử ! Tất cả phàm phu dù khéo giữ gìn thân tâmnhưng vẫn còn sanh ba thứ ác giác, do cớ nầy nên dầu phụctrừ phiền não đặng sanh cõi trời phi phi tưởng, nhưng vẫntrở lại đọa trong ba đường dữ. Ví như có người đi quabiển lớn, sắp đến bờ mà bị chết đuối. Phàm phu trênđây cũng vậy, sắp ra khỏi ba cõi trở lại đọa nơi tamđồ. Đó là do vì không có thiện giác, chính là không cósáu chánh niệm.
Phàmphu tâm lành kém yếu, tâm ác lại lẫy lừng. Vì tâm lànhkém nên trí huệ cũng kém. Vì trí huệ kém nên thêm lớn nhữngác lậu.
BồTát nhờ huệ nhãn thanh tịnh thấy lỗi của ba thứ giác quán,biết ba thứ giác quán nầy có những họa hoạn thường làmoán thù đối với ba thừa. Do ba thứ giác quán nầy làm chovô lượng phàm phu chẳng thấy Phật tánh, trong vô lượngkiếp điên đảo cho rằng Phật Thế Tôn không có thường,lạc, và ngã, chỉ có tịnh thôi ; lại cho rằng Như Lai rốtráo nhập Niết Bàn. Tất cả chúng sanh là vô thường, vôlạc, vô ngã, vô tịnh, mà điên đảo cho là có thường, lạc,ngã, tịnh. Thiệt không có tam thừa mà điên đảo cho là thậtcó tam thừa. Đạo nhứt thừa chơn thật mà điên đảo cholà không có nhứt thừa.
Bathứ giác quán nầy thường bị chư Phật và Bồ Tát quởtrách. Ba thứ giác quán nầy thường hại nơi mình cũng hạiđến kẻ khác. Có ba thứ giác quán nầy thời sanh ra tấtcả điều ác. Ba thứ giác quán nầy chính là ba sợi dây tróiliền chúng sanh trong sanh tử vô biên.
BồTát thường quán sát ba thứ giác quán nầy. Hoặc có lúc vìnhơn duyên đáng lẽ phải sanh dục giác Bồ Tát yên lặngchẳng lãnh thọ. Ví như người xinh đẹp sạch sẽ chẵngnhận lãnh tất cả phẩn nhơ, như hoàn sắt nóng không ai cầmlấy, như dòng Bà La Môn chẳng nhận thịt bò ; như ngườino bụng chẳng nhận đồ ăn dở, như vua Chuyển Luân chẳngngồi chung một giường với Chiên Đà La, Bồ Tát khinhghét ba thứ ác giác chẳng nhận chẳng ham cũng như vậy. BồTát thường suy nghĩ : Chúng sanh biết rằng ta là ruộng phướctốt, ta đâu nên nhận pháp ác ấy, nếu ta nhận pháp ác thờichẳng đáng là ruộng phước của chúng sanh. Dầu ta chẳngtự nói mình là ruộng phước tốt, nhưng chúng sanh thấy hìnhtướng bèn nói ta là ruộng phước. Nếu ta sanh ác giác nhưvậy thời là khi dối tất cả chúng sanh. Thuở quá khứ, vìkhi dối nên trong vô lượng kiếp đọa ba đường ác trôilăn trong sanh tử. Nếu ta có ác tâm nhận của người cúngthí, tất cả thiên nhơn và ngũ thông tiên đều sẽ rõ biết,sẽ bị quở trách. Nếu ta có ác giác nhận sự cúng thí củangười, sẽ làm cho thí chủ được phước đức kém ít, hoặckhông phước đức, như thế ta là kẻ thù óan của thí chủ.Tất cả thí chủ thường mến kính ta, sao ta lại khi dốihọ mà cho làm kẻ oán thù của họ, vì ta làm cho họ đượcít phước đức, hoặc không phước đức.
BồTát thường suy nghĩ : Ta thường tự xưng là người xuấtgia. Luận về người xuất gia chẳng sanh ác giác, nếu sanhác giác thời chẳng phải xuất gia. Người xuất gia thân cùngmiệng phải tương ưng, nếu chẳng tương ưng thời chẳngphải xuất gia. Ta bỏ cha mẹ anh em vợ con quyến thuộc bạnbè để xuất gia tu hành, chính là thời kỳ tu tập nhữngthiện giác, chẳng phải là thời gian sanh ác giác. Ví nhưcó người vào biển tìm châu báu, chẳng lấy chơn châu màlại lấy thủy tinh. Cũng như có người bỏ âm nhạc hay màđi chơi giỡn trên đống phẩn nhơ. Như bỏ bảo nữ mà giaothông với tớ gái. Như bỏ bồn vàng mà dùng chậu sành. Nhưbỏ vị cam lộ mà uống thuốc độc. Như bỏ y sĩ thân thiệntài giỏi mà cầu thuốc với y sĩ oán thù dở. Cũng vậy,ta bỏ lìa pháp vị cam lồ của Đại Sư Như Lai Thế Tôn,mà nhận lấy các thứ ác giác của ma oán. Thân người khóđặng như hoa Ưu Đàm mà ta đã được. Như Lai khó gặp nhưhoa Ưu Đàm mà ta đã gặp. Pháp bửu thanh tịnh khó đượcthấy nghe mà ta được nghe. Như con rùa đui gặp được bộngcây nổi. Mạng người chẳng dừng qua mau hơn thác nước đổ,ngày nay dầu còn khó bảo đảm được ngày mai, sao lại buônglung ở nơi pháp ác? Thời tráng kiện chẳng dừng qua mau nhưngựa chạy, sao lại tự thị sanh lòng kiêu mạn . Bốn ácma rình rập tìm cầu lỗi lầm của ta, sao lại để cho ácgiác sanh khởi ! Ví như nhà hư mục sắp sập, mạng sốngcủa ta cũng vậy, đâu nên sanh việc ác. Phàm Sa Môn gọi làtỏ ngộ nơi thiện giác, ta là Sa Môn sao lại sanh ác giác? Người xuất gia phải tu đạo lành, nay ta làm ác đâu đánggọi là xuất gia. Bà La Môn gọi là người tu hạnh thanh tịnh,nay ta thật hành ác giác chẳng thanh tịnh đâu gọi là chơnthật Bà La Môn. Nay ta cũng gọi là dòng Sát Đế Lợi. Luậnvề dòng Sát Đế Lợi thời hay trừ được kẻ oán địch,nay ta chẳng trừ được oán địch ác giác, đâu đáng gọilà dòng Sát Đế Lợi. Tỳ Kheo gọi là phá phiền não, nayta chẳng phá được ác giác phiền não đâu đáng gọi làTỳ Kheo.
Trongđời có sáu chỗ được gặp gỡ, nay ta đã được, đâunên để ác giác ở nơi lòng. Những gì là sáu chỗ khó được? _ Một là Phật ra đời khó gặp, hai là chánh pháp khó nghe,ba là tâm lo sợ khó sanh, bốn là khó được ở trung quốc,năm là khó được thân người, sáu là năm căn khó đầy đủ.Sáu việc như vậy khó được mà ta đã được, vì thế nênchẳng nên sanh ác giác.
BồTát tu hành kinh Đại Niết Bàn nầy thường siêng quán sátnhững ác giác như vậy.
Hàngphàm phu chẳng thấy lỗi họa của ác giác, nên lãnh thọba thứ ác giác, gọi đó là lãnh thọ ác lậu.
BồTát thấy như thế nên chẳng lãnh chẳng ham, nương nơi támthánh đạo để trừ bỏ đó, để chặt đứt đó. Do đâynên Bồ Tát không thọ ác lậu. Sao lại nói rằng Như Lai cóác lậu ? Do nghĩa nầy nên Như Lai chẳng phải là hữu lậu.
NầyThiện nam tử ! Phàm phu nếu gặp lúc thân tâm khổ não thờisanh các sự ác. Lúc bị thân bịnh hay tâm bịnh, khiến thânkhẩu, ý tạo những nghiệp ác. Vì tạo nghiệp ác nên luânhồi trong ba đường dữ thọ những sự khổ. Tại sao vậy? Vì phàm phu không có niệm huệ.
BồTát thường tự suy xét rằng : Ta từ vô số kiếp xưa đếnnay, vì thân tâm nầy mà gây tạo những nghiệp ác, nên phảilưu chuyển trong sanh tử đọa nơi ác đạo chịu đủ sựkhổ, làm cho ta xa lìa con đường chơn chánh ba thừa. Suy nghĩnhư vậy rồi Bồ Tát rất sợ sệt đối với thân tâm củamình, lìa bỏ việc ác mà thẳng đến đạo lành.
Vínhư có Quốc Vương đem bốn con rắn độc đựng chung trongmột cái trấp, sai người nuôi dưỡng cho ăn, tắm rửa. Vuara lịnh nếu để một con rắn giận dữ không vừa lòng, thờita sẽ xử tử nhà ngươi.
Ngườiđó nghe lịnh nghiêm khắc của Quốc Vương, sợ quá bỏ trấprắn chạy trốn . Vua liền sai năm Chiên Đà La cầm dao rượttheo. Người ấy ngó ngoái lại thấy phía sau năm người rượtgấp bèn vội chạy đi. Năm người lập kế giấu dao, rồibí mật sai một người giả dạng hiền lành đến khuyên bảongười ấy trở lại. Người ấy chẳng tin chạy thẳng đếnmột tụ lạc kia để ẩn trốn. Lúc đã vào trong tụ lạc,xem thấy những nhà cửa đều không có người cũng không cóđồ vật, bèn ngồi trên đất. Thoạt nghe trên không có tiếngnói : Nầy nam tử ! Tụ lạc nầy hoang vắng không có cư dân,đêm nay sẽ có sáu tên cướp đến. Nếu người gặp cướpthời khó bảo tồn tánh mạng. Người ấy nghe tiếng trênhư không bảo như vậy sợ hãi quá bèn bỏ tụ lạc mà đi.Dọc đường gặp một con sông nước chảy gấp. Tìm khôngcó thuyền bè, vì sợ nên lấy các thứ cỏ cây kết làm bè.Tự nghĩ rằng : Nếu ta dừng ở nơi đây tất sẽ bị rắnđộc, năm Chiên Đà La, một người dối hiền lành và sáutên cướp làm nguy hại. Còn nếu qua sông thời chiếc bè nầykhông bảo đảm có thể sẽ phải chìm chết. Nhưng thà chếtđuối, trọn chẳng để kẻ ác kia làm hại. Suy nghĩ xong,kéo bè cỏ xuống nước, thân nằm trên bè, tay ôm bè, chưnđạp nước vượt dòng nước chảy xiết mà qua sông.
Lúcđã được qua đến bờ bên kia an ổn không họa hoạn, hếtkinh sợ trong lòng rất thơ thới vui vẻ.
BồTát đặng nghe và thọ trì kinh Đại Niết Bàn, suy xét thânnầy như cái trấp, địa, thủy, hỏa, phong như bốn rắn độc: Kiến độc, Xúc độc, Khí độc, Nọc độc. Tất cả chúngsanh gặp bốn rắn độc nầy thời phải mất thân mạng. Tứđại cũng như vậy : Hoặc kiến chấp làm độc, hoặc chạmxúc làm độc, hoặc hà khí làm độc, hoặc cắn nọc làmđộc, do đây nên xa lìa những điều lành.
BồTát suy xét bốn rắn độc có bốn dòng họ : Dòng Sát Đế Lợi, dòng Bà La Môn, dòng Tỳ Xá, dòng Thủ Đà. Tứ đạicũng có bốn chủng tánh : Tánh cứng, tánh ướt, tánh nóng,tánh động. Vì thế nên Bồ Tát xem tứ đại đồng chủngtánh với bốn rắn độc.
BồTát lại suy xét bốn rắn độc nầy thường rình hại người: Lúc nào sẽ nhìn ngó, lúc nào sẽ chạm xúc, lúc nào sẽhà hơi, lúc nào sẽ cắn. Tứ đại cũng như vậy thườngrình chờ dịp để hại chúng sanh.
Nếubị bốn rắn độc hại chết chẳng đến nỗi phải đọatrong ba đường ác. Nếu bị tứ đại giết hại tất sa vàoba đường ác. Bốn rắn độc nầy dầu săn sóc nuôi dưỡngnó nhưng nó cũng thường muốn giết người. Cũng vậy, dầuthường cung cấp, nhưng tứ đại cũng luôn kéo dắt ngườitạo những nghiệp ác. Bốn rắn độc ấy nếu một con sângiận thời sẽ giết người. Tánh tứ đại nếu một đạiphát lên cũng có thể hại người. Bốn rắn độc ấy dầuở chung một chỗ, nhưng tâm tánh của nó đều riêng khác.Tứ đại dầu đồng ở một thân mà tánh của mỗi đạikhác nhau. Bốn rắn độc ấy dầu có cung kính nó cũng khócó thể gần gũi nó, tứ đại cũng như vậy. Bốn rắn độcấy nếu lúc hại người, có được phù chú thuốc men củaSa Môn hay Bà La Môn thời có thể chữa trị. Tứ đại giếtngười dầu có Sa Môn hay Bà La Môn dùng thần chú phép tắccũng chẳng trị được. Như người trí nghe hơi tanh của rắnđộc liền tránh xa. Chư Phật Bồ Tát nghe hơi hôi của tứđại cũng liền tránh xa.
BồTát lại suy nghĩ tứ đại như rắn độc, nên rất sợsệt chạy đi lo tu tám thánh đạo.
NămChiên Đà La dùng lệ cho năm ấm. Bồ Tát quán sát năm ấmnhư Chiên Đà La.
ChiênĐà La thường hay làm cho người phải xa lìa ân ái mà hộihọp với oán thù. Cũng vậy, năm ấm khiến người tham gầnpháp ác mà xa lìa những pháp lành.
NhưChiên Đà La võ trang để tự vệ: Hoặc dao, gậy, cung tênhoặc thuẫn giáp, họ có thể hại người. Cũng vậy, nămấm dùng các thứ phiền não để tự võ trang, hại nhữngngười ngu si làm cho sa vào trong ba cõi.
NhưChiên Đà La bắt được người có tội lỗi bèn giết hại.Cũng vậy, năm ấm có những kiết sữ thường hay hại người.
Donghĩa nầy nên Bồ Tát quán sát năm ấm như Chiên Đà La.
Lạinhư Chiên Đà La không tâm từ mẫn họ hại cả người thâncũng như kẻ thù. Cũng vậy, năm ấm hại cả pháp lành, phápác, không lòng từ mẫn.
NhưChiên Đà La não hại tất cả mọi người, ngũ ấm dùng cácthứ phiền não thường não hại tất cả chúng sanh trong dòngsanh tử.
ChiênĐà La luôn luôn có tâm niệm muốn giết hại, năm ấm cũngthường có những kiết sử não hại.
Nhưngười cụt chân lại không dao gậy không người hộ vệ,phải biết người nầy ắt bị Chiên Đà La giết hại. Cũngvậy, chúng sanh không chân, không dao, không hộ vệ, thời bịgiặc năm ấm làm hại. Chân lệ cho giới, dao lệ cho trí huệ,người hộ vệ lệ cho thiện tri thức. Nếu không ba điềunầy tất bị năm ấm làm hại. Do dây nên Bồ Tát xem nămấm như Chiên Đà La.
BồTát lại quán sát năm ấm còn hơn Chiên Đà La. Vì ngườibị Chiên Đà La giết hại chẳng đọa địa ngục, còn bịnăm ấm giết hại thời đọa địa ngục. Do đây nên BồTát lập thệ rằng : Tôi thà trọn đời gần Chiên Đà La,chớ chẳng gần năm ấm dầu chỉ tạm thời.
ChiênĐà La chỉ có thể hại nơi người ngu si ở cõi dục. Giặcngũ ấm hại khắp tất cả phàm phu chúng sanh trong ba cõi.
ChiênĐà La chỉ có thể giết hại người có tội, năm ấm giếthại chúng sanh không luận có tội hay không tội.
ChiênĐà La chẳng giết hại người già cả, phụ nữ và trẻ thơ,năm ấm giết tất cả chúng sanh không luận già trẻ cùngphụ nữ.
Vìthế nên Bồ Tát quán sát năm ấm còn hơn Chiên Đà La, lậpthệ trọn đời thà ở gần Chiên Đà La chớ chẳng gần gũinăm ấm dầu chỉ tạm thời.
ChiênĐà La chỉ hại người khác không bao giờ tự hại mình, giặcnăm ấm hại mình hại người hơn Chiên Đà La.
ChiênĐà La có thể dùng lời lành, tiền của, châu báu lo lót màđược thoát khỏi. Năm ấm chẳng như vậy, không thể dùnglời lành để khuyến dụ cũng không thể dùng tiền của châubáu lo lót mà được thoát khỏi.
Trongngày đêm Chiên Đà La chẳng ắt luôn luôn giết hại, nămấm thời niệm niệm thường giết hại chúng sanh.
ChiênĐà La chỉ ở một chỗ, có thể trốn lánh khỏi, năm ấmthời ở khắp tất cả chỗ nên không thể trốn lánh.
ChiênĐà La dầu hại người, lúc hại xong, thời chẳng theo nữa.Năm ấm khi đã giết hại chúng sanh lại theo dõi luôn chẳngrời.
Dođây nên Bồ Tát lập thệ thà trọn đời ở gần Chiên ĐàLa, quyết không gần gũi năm ấm dầu chỉ tạm thời.
Ngườicó trí huệ dùng phương tiện lành khéo thoát khỏi đặngnăm ấm. Chính là thật hành tám thánh đạo, sáu Ba La Mật,bốn vô lượng tâm mà được giải thoát, thân tâm chẳngbị năm ấm làm hại. Vì thân như kim cương, tâm như hư không.
Donghĩa nầy nên Bồ Tát quán sát năm ấm có những điều chẳnglành, lòng rất sợ sệt lo tu tám thánh đạo. Cũng như ngườikia sợ bốn rắn độc cùng năm Chiên Đà La, kiếm đườngchạy trốn không dám ngó ngoái lại.
Kẻgiả làm bạn thân chính là để lệ cho tham ái. Bồ Tát quánsát kỹ tham ái như kẻ địch giả làm người thân. Nếu đãbiết đượclà giả thời không bị hại, còn nếu chẳng rõbiết tất sẽ bị hại. Cũng vậy, nếu biết đượctánh của tham ái thời nó chẳng thể làm cho chúng sanh luânchuyển sanh tử, như không rõbiết thời phải luân hồi trongsáu loài chịu đủ mọi sự khổ. Vì tham ái làm hại khóbỏ lìa, như kẻ địch giả làm người thân nên khó xa lìa.Kẻ oán địch giả làm người thân, luôn rình chờ có dịpđể hại người, tham ái làm cho người xa lìa tất cả pháplành gần gũi tất cả pháp ác cũng như vậy. Bồ Tát quánsát kỹ tham ái như kẻ địch giả người thân, vì thấy màchẳng thấy, vì nghe mà chẳng nghe, như người phàm phu thấylỗi sanh tử, dầu có trí huệ nhưng vì si mê che đậy nênrồi lại chẳng thấy lỗi. Hàng Thanh Văn Duyên Gúac cũng nhưvậy : Dầu thấy nhưng chẳng thấy, dầu nghe nhưng chẳng nghe.Do tâm tham ái nên dầu thấy lỗi sanh tử mà không thể mauđến vô thượng Bồ Đề. Do nghĩa nầy nên Bồ Tát xem thamái như kẻ địch giả người thân.
Nhưkẻ oán địch chẳng thân mà giả là người thiệt thân, chẳngthể gần gũi mà giả gần gũi, là ác mà giả là lành, chẳngthân yêu mà giả là thân yêu, để luôn luôn chờ dịp hạingười. Tham ái cũng như vậy.
Kẻđịch giả người thân, chỉ thấy được thân và miệng củahọ mà chẳng biết được tâm của họ, nên họ có thể phỉnhgạt. Tham ái hư dối khó biết nên nó có thể làm mê lầmtất cả chúng sanh.
Kẻđịch gỉa người thân thời có trước có sau có thể dễxa lìa, tham ái không trước không sau nên khó xa lìa được.
Kẻđịch giả người thân, ở xa thời khó biết, gần gũi thờidễ biết. Tham ái gần gũi còn khó rõ biết huống là ở xa.
Tấtcả chúng sanh vì tham ái mà xa Đại Niết Bàn gần gũi sanhtử, xa thường, lạc, ngã, tịnh mà gần vô thường khổ vôngã bất tịnh. Do đây nên trong các kinh Phật nói là nhơ nhớptrong ba cõi. Nơi việc hiện tại vì vô minh nên chẳng thấylỗi họa chẳng xa lìa được. Kẻ địch giả người thântrọn chẳng hại được người có trí. Do đây nên Bồ Tátquán sát kỹ tham ái nầy, lòng rất sợ lo tu tám thánh đạo.Như người kia sợ bốn rắn độc, năm Chiên Đà La và mộtkẻ giả người thân nên kiếm đường chạy trốn chẳng trởlại.
Tụlạc trống rỗng không cư dân chính là lệ cho lục nhập.Bồ Tát quán sát nội lục nhập trống rỗng không chỗ cónhư tụ lạc trống. Như người sợ chết kia đã vào tụ lạcnhẫn đến chẳng thấy có một người ở, tìm khắp nơi cũngchẳng gặp được một món đồ. Cũng vậy, Bồ Tát quán sátkỹ lục nhập trống rỗng không chỗ có, chẳng thấy chúngsanh, chẳng thấy một vật thật có.
Tụlạc trống rỗng đó, đảng cướp ở xa trọn chẳng tưởnglà trống rỗng. Phàm phu cũng như vậy, đối với lục nhậpchẳng nghĩ là trống rỗng, do đó nên luân chuyển trong sanhtử thọ vô lượng sự khổ. Bồ Tát quán sát lục nhập nầyluôn nghĩ tưởng là trống rỗng, nên chẳng bị khổ luânhồi sanh tử. Bồ Tát đối với lục nhập thường không cóquan niệm điên đảo, nên chẳng còn luân hồi sanh tử. Nhưđảng cướp, lúc vào tụ lạc trống rỗng nầy thời đượcan vui. Giặc phiền não cũng như vậy, lúc vào trong lục nhậpthời được an vui. Như đảng cướp vào tụ lạc nầy thờikhông lòng sợ sệt.
Giặcphiền não ở nơi lục nhập nầy cũng không sợ sệtnhư vậy. Như tụ lạc trống rỗng là chỗ ở của các loàiác thú : Sư tử, cọp, sói. Lục nhập nầy cũng là chỗ ởcủa tất cả phiền não ác.
Dođây nên Bồ Tát quán sát kỹ lục nhập trống rỗng khôngchỗ có là chỗ ở của tất cả việc ác. Tụ lạc nầy trốngrỗng không vui, mà đảng cướp tưởng là có người có vậtlà an vui. Đối với lục nhập trống rỗng không chỗ có màngười ngu tưởng là có, là vui, chỉ có người trí mới biếtđược sự thật.
Tụlạc kia lúc thời có người, lúc thời không người. Lụcnhập một mặt luôn không người, vì tánh nó vốn là không,chỉ có người trí rõ biết, chẳng phải là mắt thấy được.Do đây nên Bồ Tát quán sát lục nhập nhiều sự oán thùtai hại, lo tu tám đạo thánh chẳng thôi chẳng nghĩ. Như ngườikia sợ bốn rắn độc, năm Chiên Đà La. Một kẻ giả bạnthân cùng sáu tên cướp vội vã lên đường chạy thẳng.
Sáutên cướp dùng lệ cho sáu trần : Bồ Tát quán sát sáu trầnnầy như sáu tên cướp hung dữ, vì chúng nó có thể cướptất cả những pháp lành, như sáu tên cướp có thể cướptài vật của tất cả nhơn dân.
Nhưsáu tên cướp vào nhà người thời có thể cướp đoạt tấtcả tài sản hiện có trong nhà chẳng chọn tốt xấu, làmcho người giàu to thoạt vậy nghèo cùng. Giặc sáu trần nầylúc vào nơi sáu căn thời nó có thể cướp giựt tất cảpháp lành của người, làm cho người hết lành hết phướcthành kẻ bần cùng Nhứt Xiển Đề. Vì thế nên Bồ Tát quánsát sáu trần như sáu tên cướp.
Nhưsáu tên cướp lúc muốn cướp nhà người phải nhờ ngườitrong nhà làm nội ứng, nếu không người nội ứng thời bọncướp bèn trở lại. Giặc sáu trần nầy cũng như vậy, lúcmuốn cướp pháp lành cần phải do bề trong chúng sanh có nhữngtướng tri kiến : Thường, lạc, ngã, tịnh, bất không v.v…nếu không có những tướng bề trong như vậy, thời giặcsáu trần chẳng thể cướp được pháp lành.
Ngườitrí trong tâm không có những tướng như vậy, phàm phu thờicó, nên sáu trần thường đến xâm đoạt pháp lành của phàmphu.
Ngườitrí có thể khéo dùng trí huệ đề phòng giữ gìn nên chẳngbị cướp đoạt. Do đây nên Bồ Tát quán sát sáu trần nầynhư sáu tên cướp.
Nhưsáu tên cướp có thể làm khổ não thân tâm của nhơn dân,giặc sáu trần thường làm thân tâm chúng sanh khổ não cũngnhư vậy.
Sáutên cướp chỉ có thể đoạt tài sản hiện có của người,giặc sáu trần thường cướp đoạt pháp lành của chúng sanhcả ba đời.
Sáutên cướp đến đêm tối thời vui mừng, giặc sáu trần ởtrong vô minh hắc ám thời nó vui thích. Sáu tên cướp chỉcó nhà vua mới có thể dẹp bắt, giặc sáu trần chỉ cóPhật Bồ Tát mới ngăn dứt được nó.
Sáutên cướp nầy, lúc muốn cướp giựt, chẳng lựa chọn ngườixinh đẹp, thông minh, học rộng, giàu sang hay nghèo hèn. Giặcsáu trần lúc muốn cướp pháp lành cũng chẳng lựa chọnngười xinh đẹp nhẫn đến nghèo hèn.
Sáutên cướp nầy, dầu nhà vua bắt được, chặt tay chưn, nhưngvẫn không thể làm cho tâm chúng nó hết hung ác. Giặc sáutrần cũng như vậy, dầu Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm,chặt đứt nó, cũng chẳng thể làm cho nó chẳng cướp pháplành. Như người dũng kiện mới có thể dẹp hẳn sáu têncướp nầy. Cũng vậy, chư Phật và Bồ Tát mới có thể dẹphẳn giặc sáu trần.
Nhưcó người quyến thuộc đông, giòng họ lớn, bà con nhiều,thời chẳng bị sáu tên cướp xâm đoạt tài sản. Cũng vậy,chúng sanh nếu có thiện tri thức thời chẳng bị giặc sáutrần cướp hại.
Sáutên cướp nầy nếu thấy tài vật của người, thời có thểtrộm cướp. Giặc sáu trần nếu thấy, nếu biết, nếu nghe,nếu ngửi, nếu chạm, nếu hay biết, thời đều có thể cướpđoạt.
Sáutên cướp chỉ có thể cướp đoạt tài sản của người,cõi dục, giặc sáu trần có thể cướp đoạt tất cả củabáu pháp lành ba cõi.
Dođây nên Bồ Tát quán sát kỹ sáu trần còn hơn sáu tên cướpkia, do đây nên lo tu tám thánh đạo thẳng tiến chẳng trởlại. Như người kia sợ bốn rắn độc năm Chiên Đà La, mộtkẻ giả bạn thân cùng sáu tên cướp rời bỏ tụ lạc trống rỗng theo đường thẳng chạy đi.
Dọcđường gặp một con sông, chính là lệ cho phiền não.
BồTát quán sát phiền não nầy như sông lớn, nước sông chảyxiết có thể làm trôi hương tượng. Phiền não cũng có thểlàm trôi bực Duyên Giác.
Sâukhó đến đáy nên gọi là “sông”, bờ xa khó qua đếnnên gọi là “lớn”. Giữa sông có nhiều loài cá hung dữ.Phiền não cũng như vậy, chỉ có Phật và Bồ Tát mới cóthể cùng tột nên gọi là rất sâu, chỉ có Phật và BồTát mới qua đến bờ nên gọi là rộng lớn, thường hạitất cả chúng sanh si mê nên gọi là hung dữ. Do đây nên BồTát quán sát phiền não nầy dường như sông lớn.
Nhưnước sông lớn có thể sanh trưởng tất cả cỏ cây lùmrừng, phiền não cũng có thể sanh trưởng chúng sanh hai mươilăm cõi. Như có người té xuống sông lớn mà không hổ thẹn,chúng sanh sa vào trong phiền não cũng không hổ thẹn nhưté xuống sông chìm chưa đến đáy mà đã chết, chúng sanhsa vào phiền não luân hồi trong hai mươi lăm cõi vẫn chưađến đáy. Trên đây nói đáy sông là lệ cho tướng không,nếu chẳng tu tướng không nầy, thời chẳng đặng rakhỏi hai mươi lăm cõi. Tất cả chúng sanh vì chẳng thể khéotu tướng không nên thường bị phiền não nhận chìm : Do đâynên Bồ Tát quán sát phiền não nầy dường như sông lớn.
Nhưsông lớn kia chỉ có thể làm hại thân mạng mà chẳng pháđược pháp lành, phiền não thời có thể phá hoại tất cảpháp lành của thân tâm.
Sônglớn kia chỉ có thể làm trôi chìm người trong cõi dục, phiềnnão thời có thể hại tất cả nhơn thiên trong ba cõi.
Sônglớn trong đời nếu tay ôm phao, vịn bè, chưn đạp, thờicó thể đến bờ bên kia. Với phiền não thời chỉ có BồTát tu sáu pháp Ba La Mật mới qua khỏi được.
Nhưsông lớn người khó lội qua chúng sanh cũng khó thoát qua khỏiphiền não. Thế nào gọi là khó ? Đến bực thập trụ BồTát vẫn còn chưa rốt ráo thoát khỏi hẳn phiền não, chỉcó chư Phật mới rốt ráo. Do đây nên gọi là khó qua khỏiđược.
Nhưcó người bị nước sông đẩy trôi chẳng có thể làm đượcviệc gì, chúng sanh bị phiền não lôi cuốn cũng không thểtu tập pháp lành. Như người té sông bị nước cuốn đi,người có đủ sức thời cứu vớt được. Chúng sanh sa vàophiền não làm nhứt xiển đề, hàng Thanh Văn Duyên Giác, BồTát, Chư Phật đều không cứu tế được. Sông lớn trongđời phải khô cạn lúc kiếp tận. Với phiền não hàng ThanhVăn Duyên Giác dầu tu thất giác chi vẫn còn chẳng làm khôđược. Vì thế nên Bồ Tát quán sát các phiền não dườngnhư sông lớn.
Nhưngười kia sợ bốn rắn độc năm Chiên Đà La, một kẻ giảbạn thân cùng sáu tên cướp mà bỏ tụ lạc trống rỗngthẳng đường chạy đi đến bên sông lớn, rồi lấy cỏkết làm bè. Cũng vậy, Bồ Tát sợ tứ đại, ngũ ấm , thamái, lục nhập, lục trần , đến sông phiền não, rồi tu giới,định huệ, giải thoát, giải thoát tri kiến, sáu môn ba lamật, ba mươi bảy phẩm trợ đạo, dùng đây làm thuyền bèđể vượt qua sông phiền não đến bờ Niết Bàn : Thường,lạc, ngã, tịnh kia. Bồ Tát tu kinh Đại Niết Bàn suy nghĩnhư vầy : Nếu tôi không suy nghĩ nhận lấy sự khổ nơi thân,sự khổ nơi tâm, thời không thể làm cho tất cả chúng sanhqua khỏi sông phiền não. Nhờ suy nghĩ như vậy nên dầu cókhổ não, Bồ Tát vẫn yên lặng nhẫn thọ. Vì nhẫn thọthời chẳng sanh ác lậu. Bồ Tát còn không có những ác lậu,huống là Như Lai. Do đây nên chư Phật là vô lậu. Vì NhưLai thường đi trong hữu lậu, chính là hiện thân trong haimươi lăm cõi, nên hàng Thanh Văn cùng kẻ phàm phu cho rằngPhật là hữu lậu. Thật ra chư Phật Như Lai chơn thật vôlậu. Do nhơn duyên trên đây nên chư Phật Như Lai không cótướng quyết định. Và cũng do những cớ trên đây nên ngườiphạm bốn tội nặng, hủy báng kinh Đại Thừa và nhứt xiểnđề đều không quyết định.
CaoQúy Đức Vương Bồ Tát nói : “ Phải lắm ! Phải lắm !Đúng như lời đức Phật dạy, tất cả pháp đều không quyếtđịnh, do đây nên biết Như Lai cũng chẳng rốt ráo nhậpNiết Bàn.
Nhưvừa rồi đức Phật nói trong đoạn Đại Bồ Tát tu hànhkinh Đại Niết Bàn nghe chỗ chẳng nghe, có nói đến NiếtBàn cùng Đại Niết Bàn. Bạch ThếTôn! Thế nào là Niết Bàn ? Thế nào là Đại Niết Bàn ?
ĐứcPhật khen : “ Lành thay ! Lành thay ! Nầy Thiện nam tử ! NếuBồ Tát đặng niệm tổng trì, mới có thể thưa hỏi nhưông .
NầyThiện nam tử ! Như người đời nói : Có biển, có biển lớn; có sông, có sông lớn ; có núi, có núi lớn ; có thành, cóthành lớn ; có chúng sinh, có chúng sinh lớn ; có vua, có vualớn ; có người, có người lớn ; có trời, có trời lớn; có đạo, có đạo lớn ; Niết Bàn cũng như vậy : Có NiếtBàn và có Đại Niết Bàn.
Thếnào là Niết Bàn ?
Nhưngười đói đặng chút ít cơm ăn thời gọi là được anvui. Như người bịnh được lành thời gọi là an vui. Nhưngười kinh sợ đặng chỗ nương dựa thời được an vui.Như người nghèo cùng đặng châu báu thời được an vui. Nhưngười quán xương trắng chẳng sanh lòng tham dục thời đượcan vui. Tất cả sự an vui trên đây cũng gọi là Niết Bàn,nhưng chẳng được gọi là Đại Niết Bàn, vì còn trong phạmvi tương đối.
NầyThiện nam tử ! Nếu người phàm phu nhẫn đến hàng Thanh Văn,hoặc nhơn thế tục, hoặc nhơn thánh đạo, mà dứt đượckiết sử, cõi dục thời được an vui. Có thể dứt kiếtsử cõi sơ thiền nhẫn đến có thể dứt kiết sử cõi PhiPhi Tưởng thời được an vui. Những sự an vui nầy cũng gọilà Niết Bàn, nhưng chẳng được gọi là Đại Niết Bàn,vì còn có tập khí phiền não.
Thếnào gọi là tập khí phiền não ?
HàngThanh Văn Duyên Giác còn có tập khí phiền não, chính là nhữngquan niệm : Thân tôi, áo tôi, tôi đi, tôi đến, tôi nói, tôinghe, chư Phật Như Lai nhập Niết Bàn, bổn tánh Niết Bànkhông ngã, không lạc, chỉ có thường và tịnh, Phật, Phápvà Tăng có tướng sai khác, Như Lai rốt ráo nhập Niết Bàn,chỗ chứng đặng Niết Bàn của Thanh Văn, Duyên Giác cùngchư Phật đồng nhau không sai khác, những quan niệm trên đâylà tập khí phiền não. Vì thế nên chỗ chứng đặng củahàng nhị thừa chẳng phải là Đại Niết Bàn, vì không cóthường, lạc, ngã, tịnh. Có thường, lạc, ngã, tịnh mớiđược gọi là Đại Niết Bàn.
NầyThiện nam tử ! Ví như vùng nào có thể chứa đựng tất cảnhững dòng nước thời gọi là biển lớn. Chỗ nào Thanh Văn,Duyên Giác, Bồ Tát và Chư Phật chứng nhập thời gọi làĐại Niết Bàn. Tứ Thiền, ba môn tam muội, tám pháp bộixả, tám pháp thắng xứ, mười pháp nhứt thiết xứ, vịnào có thể nhiếp thủ vô lượng pháp lành như vậy thờigọi là Đại Niết Bàn.
NầyThiện nam tử ! Ví như có con sông, hương tượng lớn nhứtlội không đến đáy thời gọi là sông lớn. Hàng Thanh Văn, Duyên Giác nhẫn đến thập trụ Bồ Tát chẳng thấy Phậttánh thời gọi là Niết Bàn, chẳng phải Đại Niết Bàn.Nếu có thể thấy rõ Phật tánh thời được gọi là ĐạiNiết Bàn.
Chỉcó đại tượng vương mới có thể tột đến đáy sông lớnĐại Niết Bàn. Đại tượng vương đây là lệ cho chư Phật.
NầyThiện nam tử ! Nếu các đại lực sĩ trải qua nhiều thờigian không thể leo lên được, mới gọi là núi lớn. HàngThanh Văn Duyên Giác và Bồ Tát không thể thấy được mớigọi là Đại Niết Bàn.
NầyThiện nam tử ! Nơi trấn giữ của các vị tiểu vương thờigọi là thành nhỏ, chỗ của vua Chuyển Luân Vương trấn đóngmới gọi là thành lớn. Chỗ chứng nhập của Thanh Văn DuyênGiác : Tám muôn, sáu muôn, bốn muôn, hai muôn, một muôn kiếp,thời gọi là Niết Bàn. Chỗ chứng nhập của Như Lai vô thượngpháp vương mới được gọi là Đại Niết Bàn.
NầyThiện nam tử ! Ví như có người thấy bốn đội binh lòngchẳng sợ sệt, nên biết người nầy gọi là đại chúngsanh. Nếu có chúng sanh đối với ác đạo phiền não ác nghiệpmà chẳng sợ sệt, có thể ở trong đó mà rộng độ chúngsanh, nên biết người nầy đặng Đại Niết Bàn.
Nếucó người cúng dường cha mẹ, cung kính Sa Môn và Bà La Mônthật hành pháp lành, lời nói thành thật không có khi dối,có thể nhẫn những sự ác hại, lại hay bố thí cho kẻ nghèothiếu, thời gọi là bực đại trượngphu. Cũng vậy, BồTát có đại từ bi thương xót tất cả, xem chúng sanh nhưcha mẹ, đưa chúng sanh qua khỏi sông sanh tử, đem đạo nhứtthừa chơn thật chỉ dạy cho chúng sanh, đây gọi là ĐạiNiết Bàn.
NầyThiện nam tử ! Chữ đại là nói chẳng thể nghĩ bàn, nếuchẳng thể nghĩ bàn mà chúng sanh chẳng thể tin được, thờigọi là Đại Niết Bàn, chỉ có Phật và Bồ Tát thấy được.Lại do vô lượng nhơn duyên rồi sau mới có thể được nêngọi là đại. Vì có đại ngã nên gọi là Đại Niết Bàn.Vì Niết Bàn không có đại ngã là tự tại nên gọi là đạingã. Đại tự tại là vì có tám điều tự tại : Một làcó thể thị hiện một thân làm nhiều thân, số thân lớnnhỏ nhiều như vi trần đầy khắp mười phương vô lượngthế giới. Thân Như Lai thiệt chẳng phải vi trần vì sứcđại tự tại mà thị hiện vi trần thân. Tự tại như vậythời gọi là đại ngã.
Hailà thị hiện một thân vi trần đầy khắp cõi đại thiên,thiệt ra thân Như Lai chẳng đầy nơi cõi đại thiên, vì làvô biên, do sức tự tại nên thị hiện đầy khắp cõi đạithiên. Tự tại như vậy gọi là đại ngã.
Balà có thể đem thân khắp cõi đại thiên nầy bay trên hưkhông nhẹ nhàng đến nơi hai mươi hằng hà sa thế giới màkhông chướng ngại. Thiệt ra thân Như Lai không có nặng nhẹ,do sức tự tại nên làm có nhẹ có nặng, đây gọi là đạingã.
Bốnlà Như Lai chỉ có nhứt tâm an trụ chẳng động, do sức tựtại, vô lượng thân hình hóa hiện ra đều làm cho có tâm.Cũng do sức tự tại, có lúc Như Lai làm một việc mà khiếncho tất cả chúng sanh đều được thành tựu. Do sức tựtại thân Như Lai thường ở một cõi mà làm cho tất cả chúngsanh ở cõi khác đều thấy. Tự tại như vậy gọi là đạingã.
Nămlà căn tự tại, với một căn Như Lai có thể thấy sắc,nghe tiếng, ngửi mùi, nếm vị, cảm xúc, hay biết. Sáu căncủa Như Lai thật ra chẳng thấy, nghe, ngửi, nếm, cảm, biết,do sức tự tại nên làm cho sáu căn đều tự tại, do đâygọi là đại ngã.
Sáulà vì tự tại nên chứng đặng tất cả pháp, thật ra tâmNhư Lai không có quan niệm chứng đặng, vì là vô sở đắc.Nếu pháp là có thời có thể gọi là chứng đắc, pháp vẫnkhông thật có, đâu được gọi là chứng đắc. Giả sửNhư Lai có quan niệm chứng đắc thời chư Phật chẳng đượcNiết Bàn. Do vì không chứng đắc nên gọi là được NiếtBàn. Do tự tại mà chứng được tất cả pháp nên gọi làđại ngã.
Bảylà diễn thuyết tự tại. Như Lai diễn thuyết nghĩa một bàikệ trãi qua vô lượng kiếp cũng chẳng hết như nói về giới,định, thí , huệ v.v… Đức Như Lai chẳng có quan niệm rằngta nói người nghe, cũng chẳng nghĩ là một bài kệ. Ngườiđời dùng bốn câu làm một bài kệ, Như Lai thuận theo thếtục nên cũng nói là bài kệ. Tất cả pháp tánh cũng khôngcó ngôn thuyết, do sức tự tại nên Như Lai diễn thuyết,vì diễn thuyết nên gọi là đại ngã.
Támlà Như Lai khắp đầy tất cả chỗ như hư không. Tánh hưkhông chẳng thể thấy được. Như Lai thiệt cũng chẳng thểthấy được, vì tự tại nên làm cho chúng sanh được thấy.Tự tại như vậy gọi là đại ngã.
Donghĩa tự tại nầy nên gọi là Đại Niết Bàn.
NầyThiện nam tử ! Như kho báu chứa nhiều thứ châu báu lạ kỳnên gọi là đại tạng. Cũng vậy, tạng pháp rất sâu, rấtdiệu của Như Lai chứa đầy những pháp kỳ lạ chẳng thểnghĩ bàn, nên gọi là Đại Niết Bàn.
NầyThiện nam tử ! Phật nhiều vô biên mới gọi là đại, NiếtBàn vô biên, vô lượng nên gọi là đại. Nầy Thiện nam tử! Lại vì có đại lạc nên gọi là đại Niết Bàn, NiếtBàn vốn không sự vui, do vì bốn điều vui nên gọi là đạiNiết Bàn. Một là vì dứt những sự vui, chẳng dứt sự vuithời gọi là khổ, nếu có khổ thời chẳng gọi là thiệtvui. Vì dứt sự vui nên không có khổ, không khổ không vuimới gọi là đại lạc. Tánh Niết Bàn không khổ không vuinên Niết Bàn gọi là đại lạc. Do nghĩa nầy mà gọi làđại Niết Bàn.
Vuicó hai thứ : Vui của phàm phu và vui của chư Phật. Vui củaphàm phu là vô thường bại hoại, nên không có thiệt vui.Vui của chư Phật là thường là không biến đổi nên gọilà đại lạc. Lại có ba thứ thọ : Một là khổ thọ, hailà lạc thọ, ba là bất khổ bất lạc thọ. Bất khổ bấtlạc đây cũng là khổ. Niết Bàn dầu cũng chẳng khổ, chẳngvui nhưng là thật vui, do đây nên gọi là Đại Niết Bàn.
Hailà vì đại tịch tịnh gọi là đại lạc. Tánh Niết Bànlà đại tịch tịnh, vì xa lìa tất cả sự ồn náo, do đạitịch tịnh nên gọi là Đại Niết Bàn.
Balà vì biết tất cả nên gọi là đại lạc. Như Lai biếttất cả nên gọi là Đại Niết Bàn.
Bốnlà vì thân chẳng hư hoại nên gọi là đại lạc. ThânNhư Lai là thân kim cương không hư hoại, chẳng phải thânphiền não, chẳng phải thân vô thường, nên gọi là đạilạc, là Đại Niết Bàn.
NầyThiện nam tử ! Danh tự của thế gian hoặc có nhơn duyên đặtra hoặc không nhơn duyên đặt ra. Có nhơn duyên đặt ra như Xá Lợi Phất, vì bà mẹ tên là Xá Lợi, nhơn tên mẹ màđặt tên ông là Xá Lợi Phất. Như Ma Vu La đạo nhơn, vìsanh quán tại nước Ma Vu La, nhơn tên nước mà đặt tên chođạo nhơn. Như Mục Kiền Liên, Mục Kiền Liên chính là họ,nhơn họ đặt tên gọi là Mục Kiền Liên. Như ta sanh trongdòng Cù Đàm, nhơn dòng họ đặt tên gọi ta là Cù Đàm. Nhưnhà thông thái Tỳ Xá Khư, Tỳ Xá Khư chính là tên một ngôisao, nhơn ngôi sao nầy đặt tên là Tỳ Xá Khư. Như ngườicó sáu ngón tay, nhơn đây gọi là người sáu ngón. Như danhtừ Phật nô, Thiên nô, nhơn nơi Phật, nhơn nơi Thiên, màgọi là Phật nô, Thiên nô. Như nhơn nơi ẩm ướt sanh ra nêngọi là loài thấp sanh. Như nhơn nơi tiến mà gọi là Ca CaLa, gọi là Cứu Cứu La. Những danh từ như vậy là có nhơnduyên mà đặt tên.
Khôngnhơn duyên mà đặt ra, như hoa sen, như đất, nước, gió, lửa, hư không. Như một danh từ mạn đà bà chỉ cho hai vật :Điện đường và uống nước, điện đường chẳng phảiuống nước nhưng cũng đều được gọi là mạn đà bà. Nhưtát bà sa đa gọi là xà cái, thiệt chẳng phải là xàcái. Như trên đây gọi là không nhơn mà lập danhtự.
NầyThiện nam tử ! Đại Niết Bàn đây cũng không có nhơn duyênmà lập danh tự. Như hư không chẳng nhơn sự trống rỗngnhỏ mà gọi là đại không, Niết Bàn cũng chẳng nhơn nơi tướng nhỏ mà gọi là Đại Niết Bàn. Ví như có mộtvật chẳng thể cân lườntg chẳng thể nghĩ bàn thời gọilà đại, Niết Bàn cũng chẳng thể cân lường chẳng thểnghĩ bàn nên gọi là Đại Niết Bàn.
Dovì thuần thanh tịnh nên gọi là Đại Niết Bàn. Thanhtịnh có bốn thứ : Một là hai mươi lăm cõi gọi là bấttịnh, vì có thể dứt hẳn nên gọi là thanh tịnh. Thanh tịnhđây tức là Niết Bàn. Niết Bàn nầy cũng đặng gọi làcó. Nhưng thiệt ra Niết Bàn chẳng phải là có, Như Lai thuậntheo thế tục nên nói Niết Bàn là có. Ví như người đờichẳng phải cha gọi là cha chẳng phải mẹ gọi là mẹ, chẳngphải thiệt cha mẹ mà nói là cha mẹ. Cũng vậy, tùy thuậntheo thế tục nên nói chư Phật có Đại Niết Bàn.
Hailà vì nghiệp thanh tịnh. Tất cả phàm phu vì nghiệp chẳngthanh tịnh nên không có Niết Bàn. Như Lai vì nghiệp thanh tịnhnên gọi là đại tịnh, do đại tịnh nên gọi là Đại NiếtBàn.
Balà vì thân thanh tịnh. Thân vô thường thời gọi là chẳngthanh tịnh. Thân Như Lai thường trụ không biến đổi nêngọi là đại tịnh, vì đại tịnh nên gọi là Đại NiếtBàn.
Bốnlà vì tâm thanh tịnh. Tâm nếu có ác lậu thời gọi là chẳngthanh tịnh. Tâm của Phật vô lậu nên gọi là đại tịnh,vì đại tịnh nên gọi là Đại Niết Bàn.
NầyThiện nam tử ! Đây gọi là nam tử nữ nhơn tu hành kinh ĐạiNiết Bàn nầy thành tựu đầy đủ phần công đức thứ nhứt.
NầyThiện nam tử ! Kế đây là Đại Bồ Tát tu hành kinh ĐạiNiết Bànn thành tựu đầy đủ phần công đức thứ hai.
ĐạiBồ Tát tu hành kinh Đại Niết Bàn, xưa chỗ chẳng đượcmà nay được, xưa chỗ chẳng thấy mà nay được thấy, xưachỗ chẳng nghe mà nay được nghe, xưa chỗ chẳng đến mànay được đến, xưa chỗ chẳng biết mà nay được biết.
Thếnào gọi là xưa chẳng được mà nay được ? Chính là nóivề thần thông. Thần thông có hai thứ : Một là ngoài, hailà trong. Thần thông ngoài thời cùng ngoại đạo giống nhau.Thần thông trong lại có hai thứ : Một là của nhị thừahai là của Bồ Tát. Thần thông của Bồ Tát, hàng Thanh VănBích Chi Phật chẳng có được. Hàng nhị thừa biến hóa mộttâm hiện làm một chẳng hiện được nhiều. Bồ Tát ở trongmột tâm thời có thể hiện đủ tất cả thân trong lục đạo,do vì được thế lực của kinh Đại Niết Bàn. Đây gọilà xưa chỗ chẳng được mà nay được. Lại Bồ Tátđược thân tự tại, tâm tự tại. Tất cả phàm phu thâncũng như tâm đều chẳng tự tại hoặc tâm theo nơi thân,hoặc thân theo nơi tâm. Ví như người say, rượu ở trong thân,lúc bấy giờ thân động tâm cũng động theo, cũng như thânmõi mệt thì tâm cũng mõi mệt theo, đây thời gọi là tâmtheo nơi thân. Lại như trẻ thơ, thân nó nhỏ bé, tâm nó nhỏtheo, người lớn thân lớn thì tâm cũng lớn theo. Lại nhưcó người thân thể thô rít, tâm họ thường nghĩ đến dầumỡ muốn thoa cho được trơn nhuyễn, đây cũng gọi là tâmtheo nơi thân.
Thếnào gọi là thân theo nơi tâm ? Chính là đi, đến, ngồi, nằm,thật hành bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, ngườisầu não thời thân gầy héo, người vui mừng thời thân tươinở, người kinh sợ thời thân run rẩy, chuyên tâm thính phápthời thân vui vẻ, người buồn khóc thời nước mũi nướcmắt chảy tuôn đây thời gọi là thân theo nơi tâm.
BồTát thời chẳng như vậy thân tâm đều được tự tại, ĐạiBồ Tát hiện thân tướng như vi trần, thân vi trần nầy cóthể khắp đến vô lượng vô biên hằng hà sa thế giới khôngbị chướng ngại, mà tâm Bồ Tát thường định vẫn khôngdi động, đây thời gọi là tâm chẳng theo nơi thân, và cũnggọi là xưa chỗ chẳng đến mà nay được đến, vì tấtcả Thanh văn, Bích Chi Phật chẳng thể đến được mà BồTát đến được. Tất cả Thanh Văn, Bích Chi Phật dầu dùngthần thông chẳng có thể biến thân nhỏ như vi trần khắpđến vô lượng hằng hà sa thế giới. Thanh Văn, Bích Chi Phậtlúc thân động thời tâm cũng động theo. Bồ Tát chẳng nhưvậy, tâm dầu chẳng động mà thân đến khắp tất cả chỗ,đây gọi là tâm chẳng theo nơi thân. Lại Bồ Tát hóa thânlớn bằng đại thiên thế giới, đem thân to lớn nầy chuivào thân nhỏ như vi trần, tâm của Bồ Tát cũng chẳng nhỏtheo. Thanh Văn, Bích Chi Phật dầu có thể hóa thân to lớnnhư đại thiên thế giới nhưng chẳng thể đem thân to lớnnầy chui vào thân nhỏ như vi trần.
Trongviệc nầy nhị thừa còn chẳng làm được huống là có thểkhiến tâm chẳng động theo. Đây gọi là Bồ Tát tâm chẳngtheo nơi thân.
ĐạiBồ Tát dùng một âm thanh có thể làm cho tất cả chúng sanhtrong đại thiên thế giới đều nghe trong tâm Bồ Tát trọnchẳng nghĩ rằng khiến âm thanh nầy khắp đến các thế giớilàm cho chúng sanh được nghe, Bồ Tát nói rằng do tôi thuyếtpháp làm cho chúng sanh được nghe nên biết người nầy trọnchẳng thể đặng vô thượng chánh giác. Vì tâm tưởng nhưtrên đây là tâm sanh tử, tất cả Đại Bồ Tát đã hếttâm sanh tử nầy vì thế nên thân tâm của Bồ Tát chẳngtheo dõi nhau.
NầyThiện nam tử ! Tất cả phàm phu thân tâm theo nhau. Bồ Tátchẳng như vậy, vì hóa độ chúng sanh nên dầu hiện thânnhỏ nhưng tâm chẳng bé nhỏ vì tâm tánh của Bồ Tát luônrộng lớn. Dầu lúc hiện thân lớn như đại thiên thế giới,nhưng tâm cũng chẳng lớn. Do nghĩa nầy nên tâm của Bồ Tátchẳng theo nơi thân Đại Bồ Tát đã từ vô lượntg, vô sốkiếp xa lìa rượu chẳng uống, nhưng tâm cũng động, tâmkhông buồn khổ mà thân cũng rơi lệ, thiệt không kinh sợmà thân cũng run rẩy, do đây nên biết rằng Bồ Tát thântâm tự tại, chẳng theo dõi nhau. Đại Bồ Tát dầu hiệnmột thân, mà các chúng sanh mỗi người tự thấy sai khác.
Thếnào là Đại Bồ Tát tu hành kinh Đại Niết Bàn, xưa chỗchẳng nghe mà nay được nghe ? Đại Bồ Tát trước lấy tướngcác thứ tiếng : Tiếng voi, tiếng ngựa, tiếng xe, tiếng người,tiếng ốc, tiếng trống, tiếng ống tiêu, tiếng ca, tiếng
Cườiv.v…
Màluyện tập đó, do luyện tập nên có thể nghe tất cả tiếngcủa những địa ngục trong vô lượng đại thiên thế giới,lại càng tu tập thêm nên được nhĩ căn khác lạ, khác hơnthiên nhĩ của Thanh Văn Bích Chi Phật. Vì nhĩ căn thanhtịnh của nhị thừa nếu nương tứ đại tịnh diệu, củaSơ Thiền thời chỉ nghe tiếng cõi Sơ Thiền chẳng nghe đượccõi Nhị Thiền, nhẫn đến Tứ Thiền cũng như vậy, dầucó thể trong một lúc được nghe tất cả tiếng trong đạithiên thế giới nhưng chẳng thể nghe được tiếng trong vôlượng vô biên trong hằng sa thế giới. Do nghĩa nầy nên gọilà BồTát xưa chỗ chẳng nghe mà nay được nghe, Bồ Tát dầunghe tiếng tâm mà trong lòng vẫn không có tướng nghe tiếngchẳng có tướng thường, lạc, ngã, tịnh, tướng chủ, tướngy, tướng tác, tướng nhơn, tướng định, tướng quả. Donghĩa nầy nên các vị Bồ Tát xưa chỗ chẳng nghe mà nay đượcnghe.
CaoQuý Đức Vương Bồ Tát bạch rằng : “ Thế Tôn ! NhưPhật nói Bồ Tát chẳng thấy có tướng định, không tướngquả thời không được đúng. Vì trước kia Như Lai nói : Nếucó người nghe một chữ một câu kinh Đại Niết Bàn nầyquyết định được thành vô thượng Bồ Đề. Giờ đây saoNhư Lai lại nói là không định không quả ? Nếu được vôthượng Bồ Đề thời chính là tướng quyết định, chínhlà tướng quả, sao lại nói rằng không định không qua ? Vìnghe tiếng ác thời sanh tâm ác vì sanh tâm ác thời đọa tamđồ, nếu đọa tam đồ thời là định quả, sao lại nóirằng không định không quả ?
NhưLai khen rằng: “ Lành thay ! Ông có thể thưa hỏi nhưvậy. Giả sử Chư Phật nói các âm thanh là có tướng địnhquả, đây thời chẳng phải là tướng của Chư Phật, màlà tướng Ma vương, là tướng sanh tử, là tướng xa lìa NiếtBàn. Vì tất cả Chư Phật chỗ nói ra không có tướng địnhquả. Ví như dùng lưỡi dao sáng soi mặt người; dựng đứngthời thấy mặt dài, để ngang thời thấy mặt rộng. Do nghĩađây nên Chư Phật phàm nói ra không có tướng định quả.Đại Niết Bàn thiệt chẳng phải kết quả của tiếng. Giảsử Niết Bàn là quả của tiếng thời Niết Bàn chẳng phảilà pháp thường trụ. Ví như những pháp trong đời theo nhơnmà sanh, có nhơn thời có quả, không nhơn thời không quả,vì nhơn vô thường nên quả cũng vô thường, nhơn cũng làmquả, quả cũng làm nhơn, do nghĩa nầy nên tất cả pháp khôngcó tướng nhứt định. Giả sử Niết Bàn từ nhơn mà sanh,vì nhơn vô thường nên quả cũng vô thường. Nhưng Niết Bànchẳng từ nhơn mà sanh, thể Niết Bàn chẳng phải là quả,vì thế nên Niết Bàn là thường trụ. Do nghĩa đây nên thểcủa Niết Bàn là không định không quả.