- 01. Phẩm Tự
- 02. Phẩm Thuần Đà
- 03. Phẩm Ai Thán
- 04. Phẩm Trường Thọ
- 05. Phẩm Kim Cang Thân
- 06. Phẩm Danh Tự Công Đức
- 07. Phẩm Tứ Tướng
- 08. Phẩm Tứ Y
- 09. Phẩm Tà Chánh
- 10. Phẩm Tứ Đế
- 11. Phẩm Tứ Đảo
- 12. Phẩm Như Lai Tánh
- 13. Phẩm Văn Tự
- 14. Phẩm Điểu Dụ
- 15. Phẩm Nguyệt Dụ
- 16. Phẩm Bồ Tát
- 17. Phẩm Đại Chúng Vấn
- 18. Phẩm Hiện Bịnh
- 19. Phẩm Thánh Hạnh
- 20. Phẩm Phạm Hạnh
- 21. Phẩm Anh Nhi Hạnh
- 22. Phẩm Quang Minh Biến Chiếu Cao Quý Đức Vương Bồ Tát
- 23. Phẩm Sư Tử Hống Bồ Tát
- 24. Phẩm Ca Diếp Bồ Tát
- 25. Phẩm Kiều Trần Như
- 26. Phẩm Di Giáo
- 27. Phẩm Ứng Tận Hườn Nguyên
- 28. Phẩm Trà Tỳ
- 29. Phẩm Cúng Dường Xá Lợi
DịchTừ Hán Sang Việt: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
TịnhXá Minh Ðăng Quang, Hoa Kỳ Xuất Bản 1990
PHẨMQUANG MINH BIẾN CHIẾU CAO QUÝ
ĐỨCVƯƠNG BỒ TÁT THỨ HAI MƯƠI HAI
Trang01
Lúcbấy giờ Đức Thế Tôn bảo Quang Minh Biến Chiếu Cao QuýĐức Vương Bồ Tát : “Nầy Thiện nam tử ! Nếu có ĐạiBồ Tát tu hành kinh Đại Niết Bàn như vậy, thời đặng mườicông đức mà hàng Thanh Văn Bích Chi Phật chẳng có. Công đứcnầy chẳng thể nghĩ bàn, người nghe đến sẽ kinh sợ. Côngđức nầy chẳng phải trong ngoài, chẳng phải khó dễ, chẳngphải tướng phi tướng, không có tướng mạo, chẳng phảilà thế pháp, trong thế gian không có. Đây là mười công đức:
Côngđức thứ nhứt có năm điều : Một là chỗ chẳng nghe cóthể đặng nghe, hai là nghe rồi có thể làm lợi ích, ba làcó thể dứt tâm nghi hoặc, bốn là trí huệ chánh trực, nămlà có thể biết tạng bí mật của Như Lai.
Nhữnggì là chỗ chẳng nghe có thể được nghe ? Chính là nghĩavi mật rất sâu : Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, Phậtvà Pháp cùng tăng không có sai khác, tánh tướng của Tam Bảolà thường, lạc, ngã, tịnh, tất cả chư Phật không rốtráo nhập Niết Bàn là thường trụ không biến đổi. LạiNiết Bàn của Như Lai chẳng phải có không, chẳng phải hữuvi vô vi, chẳng phải hữu lậu vô lậu, chẳng phải sắc phisắc, chẳng phải danh phi danh, chẳng phải tướng phi tướng,chẳng phải hữu phi hữu, chẳng phải vật phi vật, chẳngphải nhơn quả, chẳng phải đãi phi đãi, chẳng phải minhám, chẳng phải xuất phi xuất, chẳng phải thường phi thường,chẳng phải đoạn phi đoạn, chẳng phải thỉ chung, chẳngphải quá khứ vị lai hiện tại, chẳng phải ấm phi ấm,chẳng phải nhập phi nhập, chẳng phải giới phi giới, chẳngphải thập nhị nhơn duyên, chẳng phải phi nhơn duyên. Nhữngpháp như vậy đều vi mật rất sâu, từ trước chỗ chẳngnghe mà có thể được nghe. Lại có chỗ chẳng nghe, như làtất cả sách vỡ ngoại đạo : Tỳ Đà Luận, Tỳ Dà La Luận,Vệ Thế Sư Luận, Ca Tỳ La Luận, cùng tất cả kỹ nghệ,chú thuật, y dược, thiên văn, địa lý v.v…, nay ở nơi kinhnầy mà đặng biết tất cả. Lại có mười một bộ kinhtrừ Tỳ Phật Lược, cũng không có những nghĩa rất sâu nhưvậy, nay do kinh nầy mà đặng biết rõ đó. Đây gọi là chỗchẳng nghe mà có thể được nghe.
Ngherồi có thể làm lợi ích, chính là nếu có thể nghe và lãnhthọ kinh Đại Niết Bàn nầy, thời có thể biết rõ tấtcả kinh điển Phương Đẳng Đại Thừa những nghĩa vị rấtsâu. Ví như đối với tấm gương sáng sạch, người thấyrõ ràng sắc tượng của mình. Cũng vậy, Bồ Tát cầmgương Đại Niết Bàn thời đặng thấy rõ tất cả nghĩarất sâu của kinh điển Đại Thừa. Cũng như có người ởtrong nhà tối cầm ngọn đuốc lớn thời thấy rõ các đồvật. Cũng vậy Bồ Tát cầm đuốc Đại Niết Bàn thời đặngthấy rõ nghĩa rất sâu của Đại Thừa. Cũng như mặt trờimọc có ngàn muôn ánh sáng soi rõ chỗ u ám của các núi, làmcho mọi người thấy những vật rất xa. Cũng vậy, huệ nhựtthanh tịnh Đại Niết Bàn nầy chiếu rõ chỗ rất sâu củaĐại Thừa, làm cho hàng nhị thừa xa thấy Phật đạo, vìcó thể nghe và lãnh thọ kinh Đại Niết Bàn vi diệu nầy.
NầyThiện nam tử ! Nếu có Đại Bồ Tát nghe và lãnh thọ kinhĐại Niết Bàn nầy thời đặng biết danh tự của tất cảpháp. Nếu có thể biên chép đọc tụng thông thuộc vì ngườigiảng thuyết, suy nghĩ ý nghĩa thời rõ biết nghĩa lý củatất cả pháp.
NầyThiện nam tử ! Người nghe và lãnh thọ thời chỉ biết danhtự mà chẳng biết ý nghĩa. Nếu có thể biên chép thọ trìđọc tụng, vì người giảng thuyết suy nghĩ ý nghĩa thờicó thể rõ biết được nghĩa.
NầyThiện nam tử ! Người nghe kinh nầy, nghe có Phật tánh nhưngchưa có thể thấy được. Nếu biên chép đọc tụng vì ngườigiảng thuyết suy nghĩ ý nghĩa thời thấy được Phật tánh.Người nghe kinh nầy, nghe có danh từ bố thí nhưng chưa cóthể thấy được Đàn Ba La Mật, nếu biên chép đọc tụngvì người giảng thuyết suy nghĩ ý nghĩa thời có thể thấyđược Đàn Ba La Mật, nhẫn đến Bát Nhã Ba La Mật cũng vậy.
NầyThiện nam tử ! Đại Bồ Tát nếu có thể nghe kinh Đại Niếtbàn nầy thời biết pháp biết nghĩa đủ cả hai đức vôngại, đối hàng Sa Môn, Bà La Môn, hoặc chư thiên, Ma Vương,Phạm Vương, trong tất cả thế gian đều đặng vô sở úy,vì đại chúng khai thị phân biệt mười hai bộ kinh, diễnthuyết ý nghĩa không có sai lầm, có thể tự biết chẳngchờ học với người được gần vô thượng chánh đẳngchánh giác. Đây gọi là nghe rồi có thể làm lợi ích.
NầyThiện nam tử ! Có thể dứt tâm nghi lầm. Nghi có hai thứ: Một là nghi nơi danh từ, hai là nghi ý nghĩa. Người nghekinh nầy, dứt tâm nghi danh từ, người suy nghĩ ý nghĩa thờidứt tâm nghi ý nghĩa.
Nghilại có năm thứ : Một là nghi Phật quyết định nhập NiếtBàn hay chăng ? Hai là nghi Phật có phải thường trụ chăng? ? Ba là nghi Phật có phải chơn lạc chăng ? Bốn là nghi Phậtcó phải chơn tịnh chăng ? Năm là nghi Phật có phải chơnngã chăng ? Người nghe kinh nầy thời dứt hẳn lòng nghi Phậtnhập Niết Bàn. Biên chép đọc tụng vì người giảng thuyết suy nghĩ ý nghĩa thời dứt hẳn bốn điều nghi, thường, lạc,ngã, tịnh.
Nghilại có ba tbhứ : Một là nghi Thanh Văn là có hay là không? Hai là nghi Duyên Giác là có hay là không ? Ba là nghi Phậtthừa là có hay là không ? Người nghe kinh nầy thời dứt hẳnba điều nghi như vậy. Còn biên chép đọc tụng vì ngườigiảng thuyết suy nghĩ ý nghĩa thời có thể rõ biết tấtcả chúng sanh đều có Phật tánh.
NầyThiện nam tử ! Nếu có chúng sanh chẳng nghe kinh Đại NiếtBàn nầy, thời tâm họ nhiều sự nghi ngờ. Như nghi hoặcthường hay vô thường, hoặc lạc hay chẳng lạc, hoặc tịnhhay chẳng tịnh, hoặc ngã hay vô ngã, hoặc mạng hay phi mạng,hoặc chúng sanh hay phi chúng sanh, hoặc rốt ráo hay chẳng rốtráo, hoặc đời khác, hoặc đời đã qua, hoặc có, hoặc không,hoặc khổ, hoặc chẳng phải khổ, hoặc tập, hoặc chẳngphải tập, hoặc đạo hoặc chẳng phải đạo, hoặc diệthoặc chẳng phải diệt, hoặc pháp, hoặc phi pháp, hoặc thiệnhoặc bất thiện, hoặc không hoặc chẳng phải không. Ngườinghe kinh nầy thời dứt hẳn các điều nghi như vậy.
Thiệnnam tử ! Nếu có người chẳng nghe kinh nầy thời lại cónhiều tâm nghi. Như nghi sắc uẩn là ngã ư? Thọ, tưởng,hành, thức, là ngã ư? Nhãn là năng kiến ư ? Ngã là năngkiến ư ? Thọ tưởng hành thức là năng kiến ư ? Ngã lànăng kiến ư ? Sắc uẩn thọ báo ư ? Ngã thọ báo ư? Thọtưởng hành thức thọ báo ư ? Ngã thọ báo ư ? Sắc uẩnđến đời khác ư ? Ngã đến đời khác ư? Thọ tưởng hànhthức cũng như vậy. Những pháp sanh tử là có thỉ có chungư ? hay là vô thỉ vô chung ư ? Người nghe kinh nầy cũng dứthẳn được những điều nghi như vậy. Lại có người nghinhứt xiển đề phạm bốn tội nặng tạo tội ngũ nghịch,hủy báng kinh Đại Thừa Phương Đẳng, hạng người nghe kinhnầy cũng dứt hẳn được những điều nghi như vậy.
Lạicó người nghi thế gian có ngằn mé hay không có ngằn mé ?Có thập phương thế giới hay không thập phương thế giới.Người nghe kinh nầy cũng dứt hẳn được những điều nghinhư vậy. Đây gọi là có thể dứt tâm nghi lầm, có trí huệchánh trực không tà vạy. Vì nếu tâm nghi thời chỗnhận thấy chẳng chánh. Tất cả phàm phu nếu chẳng đặngnghe kinh Đại Niết Bàn nầy thời chỗ nhận thấy tà vạy.Nhẫn đến Thanh Văn Duyên Giác chỗ thấy biết cũng vạy vò.Vì phàm phu ở trong hữu lậu mà thấy là thường, lạc, ngã,tịnh nơi Như Lai lại thấy là vô thường khổ, bất tịnh,vô ngã, thấy có chúng sanh có thọ mạng, có tri kiến, chấptrời Phi Tưởng, Phi Phi Tưởng là Niết Bàn, thấy trời TựTại có tám thánh đạo, chấp có, chấp đoạn, các sự nhậnthấy như vậy gọi là tà vạy. Đại Bồ Tát nếu đặng nghekinh Đại Niết Bàn nầy tu hành thánh hạnh thời dứt trừđược những điều tà vạy như vậy.
HàngThanh Văn Duyên Giác thấy Bồ Tát từ trời Đâu Suất hoáhiện ngự trên Bạch tượng giáng thần vào thai mẹ tại thànhCa Tỳ La, cha hiệu Tịnh Phạn, mẹ tên Ma Gia. Ở thai đủmười tháng sanh ra. Lúc sanh ra chưa đến đất, ThiênĐế Thích đưa tay đỡ, Nan Đà Long Vương và Bạt Nan ĐàLong Vương phun nước tắm.
ĐạiThần Vương Ma Ni Bạt Đà cầm lọng báu đứng hầu phíasau. Địa thần hoá hoa sen đở dưới chân. Bồ Tát điqua bốn phương đều đủ bảy bước. Lúc đến Thiên Miếucác thiên tượng đều đứng dậy tiếp nghinh. Tiên A Tư Đàhai tay bồng xem tướng, xem xong Tiên nhơn buồn khổ thươngphận mình sắp chết chẳng được thấy Bồ Tát thành Phật.Lớn lên đến thầy học sách, học toán số, cỡi ngựa,bắn cung, đồ sắm, các nghề nghiệp. Ở trong thâm cung cùngvui với sáu muôn thể nữ. Ra ngoài thành dạo chơi đến vườnCa Tỳ La, dọc đường gặp người già, người bịnh, ngườichết, và gặp thầy Sa Môn mặc pháp phục đi trên đường,khi trở về cung, thấy các thể nữ hình mạo như xương khô,xem cung điện không khác gò mả. Nhàm chán, nửa đêm vượtthành xuất gia, đến chỗ các Đại Tiên nhơn Uất Đà Dà,A La La v.v… nghe giảng nói về Thức Vô Biên Xứ và PhiTưởng Phi Phi Tưởng Xứ. Nghe rồi quan sát kỹ biết nhữngxứ ấy là vô thường, khổ, bất tịnh, vô ngã, bèn bỏ điđến núi Tuyết, dưới cội cây tu khổ hạnh trọn sáu năm.Sau đó biết khổ hạnh chẳng đặng thành vô thượng chánhgiác, bèn đến tắm rửa trong sông A Nậu Bạt Đề. Tắm xongnhận lấy cháo sữa của cô gái chăn bò dâng. Ăn xong lạiđến ngồi dưới cây Bồ Đề, phá ma Ba Tuần đặng thànhvô thượng chánh giác. Đến thành Ba La Nại chuyển pháp luânlần đầu độ năm vị Tỳ Kheo, nhẫn đến ở rừng Ta Lanơi thành Câu Thi Na nầy nhập Niết Bàn . Các điều nhậnthấy như vậy gọi là chỗ thấy biết vạy vò của Thanh VănDuyên Giác.
NầyThiện nam tử ! Đại Bồ Tát nghe và lãnh thọ kinh Đại NiếtBàn nầy, thời dứt trừ đặng những điều thấy biết nhưvậy. Nếu có thể biên chép đọc tụng thông thuộc vì ngườidiễn thuyết suy nghĩ ý nghĩa, thời đặng trí huệ chánh trựckhông tà vạy.
NầyThiện nam tử ! Đại Bồ Tát tu hành kinh Đại Niết Bàn, biếtrõ Bồ Tát từ vô lượng kiếp nhẫn lại chẳng từ trờiĐâu Suất giáng thần thai mẹ, nhẫn đến thành Câu ThiNa nhậpNiết Bàn. Đây gọi là chỗ thấy biết chánh trực của ĐạiBồ Tát.
Cóthể biết nghĩa thâm mật của Như Lai, tức là biết rõ ĐạiNiết Bàn, tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, sám trừbốn giới trọng, trừ tâm hủy báng chánh pháp, hết tộingũ nghịch, dứt nhứt xiển đề, rồi sau đặng thành vôthượng chánh giác.
Lạinghĩa thậm thâm là dầu biết chúng sanh thiệt không có ngã,nhưng nghiệp quả đời vị lai chẳng mất; dầu giết nămấm hiện đây dứt hết, nhưng nghiệp thiện ác trọn chẳnghư mất; dầu có các hành nghiệp nhưng không có tác giả; dầu có chỗ đến nhưng không có người đi; dầu có tróibuộc nhưng không người bị trói; dầu có Niết Bàn nhưngkhông có người diệt; đây gọi là nghĩa bí mật rất sâu.
CaoQuý Đức Vương Bồ Tát bạch Phật : “ Thế Tôn ! Như tôihiểu nghĩa được nghe chỗ chưa từng nghe của Phật nói thờinghĩa nầy chẳng phải. Vì nếu pháp là có lẽ ra quyết địnhcó, pháp nếu là không lẽ ra quyết định không. Nếu khôngthời lẽ ra chẳng sanh, nếu có thời lẽ ra chẳng diệt, nhưnghe thời là nghe, nếu chẳng nghe thời là chẳng nghe, sao lạinói rằng nghe chỗ chẳng nghe. Bạch Thế Tôn ! Nếu chẳngnghe đây là chẳng nghe, còn nếu đã nghe thời lại chẳngnghe, vì đã đặng nghe. Sao lại nói rằng nghe lại chẳng nghe?
Vínhư người đi, nếu đã đến thời chẳng đi còn đi thờichẳng đến. Cũng như đã sanh thời chẳng sanh, còn chẳngsanh thời là chẳng sanh. Đã đặng thời chẳng đặng, cònchẳng đặng thời là chẳng đặng. Nghe rồi thời chẳngnghe, còn chẳng nghe thời là chẳng nghe. Bạch Thế Tôn ! Nếuchẳng nghe mà nghe đó, thời tất cả chúng sanh chưa có BồĐề lẽ ra cũng có đó, người chưa đặng Niết Bàn lẽ racũng đặng đó, người chưa thấy Phật tánh lẽ ra cũng thấyPhật tánh, sao lại nói rằng bực Thập Trụ Bồ Tát dầuthấy Phật tánh nhưng chưa đặng rõ ràng.
BạchThế Tôn ! Nếu chẳng nghe mà nghe, thời đức Như Lai thuởxưa từ ai mà đặng nghe. Nếu nói rằng đặng nghe, cớ saotrong kinh A Hàm đức Như Lai lại nói là không có thầy, nếuchẳng nghe thời là chẳng nghe mà đức Như Lai đặng thànhvô thượng chánh giác, thời tất cả chúng sanh chẳng nghelẽ ra cũng đặng thành vô thượng chánh giác. Nếu đức Nhưlai chẳng nghe kinh Đại Niết Bàn mà thấy Phật tánh, thờitất cả chúng sanh chẳng nghe kinh nầy lẽ ra cũng được thấyPhật tánh.
BạchThế Tôn ! Phàm là sắc thời hoặc có thể thấy, hoặc chẳngthấy được, tiếng cũng như vậy, hoặc là có thể nghe, hoặcchẳng được nghe. Đại Niết Bàn nầy chẳng phải sắc chẳngphải tiếng , sao lại nói rằng có thể thấy nghe được.
BạchThế Tôn ! Quá khứ đã diệt thời chẳng thể nghe, vị laichưa đến cũng chẳng thể nghe, lúc hiện tại lóng nghe thờichẳng gọi là nghe, nghe rồi khiến dứt lại chẳng thể nghe.Kinh Đại Niết Bàn nầy cũng chẳng phải quá khứ vị laihiện tại, nếu chẳng phải thời gian thời chẳng thể nói,nếu chẳng thể nói thời chẳng thể nghe, sao lại nói rằngBồ Tát tu kinh Đại Niết Bàn nầy được nghe chỗ chẳngnghe.
Phậtnói : “ Lành thay ! Lành thay ! Nầy Thiện nam tử ! Nay ôngkhéo biết tất cả pháp như huyễn, như dương diệm, như thànhCàn Thát Bà, như dấu vẽ trong nước, cũng như bóng nước,bọt nước, cây chuối rỗng không chẳng chắc thiệt, chẳngphải mạng, chẳng phải ngã, không có khổ vui, như chỗ thấybiết của Thập Trụ Bồ Tát” .
Lúcđó trong đại chúng thoạt có ánh sáng lớn chiếu đến, ánhsáng nầy chẳng phải xanh vàng đỏ trắng, mà thấy là xanhvàng đỏ trắng, chẳng phải sắc, chẳng phải sáng, mà thấylà sắc là sáng, chẳng phải thấy mà thấy.
Đạichúng gặp ánh sáng nầy thân tâm vui thích như Tỳ Kheo nhậpSư tử Vương Định
VănThù Sư Lợi Bồ Tát bạch Phật : “ Thế Tôn : Ai phóng ánhsáng nầy ?”
ĐứcNhư Lai yên lặng chẳng đáp.
CaDiếp Bồ Tát lại hỏi Văn Thù Sư Lợi : Nhơn duyên gì màcó ánh sáng nầy chiếu đến đại chúng ?
Văn Thù Sư Lợi yên lặng chẳng đáp.
Vô Biên Thân Bồ Tát lại hỏi Ca Diếp Bồ Tát : “Ai phóngánh sáng nầy?”
Ca Diếp Bồ Tát yên lặng chẳng đáp.
TịnhTrụ Vương Tử Bồ Tát lại hỏi Vô Biên Thân Bồ tát : “Duyên cớ gì trong đại chúng đây có ánh sáng nầy ?”
Vô Biên Thân Bồ Tát yên lặng không đáp.
Lần lượt đến năm trăm vị Bồ Tát xoay vần hỏi nhau ,nhưng không ai giải đáp.
ĐứcThế Tôn hỏi Văn Thù Sư Lợi : “ Duyên Cớ gì trong đạichúng đây có ánh sáng nầy ?
VănThù Sư Lợi đáp : “ Bạch Thế Tôn ! Ánh sáng nầy gọilà trí huệ. Trí huệ chính là thường trụ. Pháp thườngtrụ không có nhơn duyên, sao đức Phật lại hỏi duyên cớgì có ánh sáng nầy .”
Ánhsáng nầy gọi là Đại Niết Bàn, Đại Niết Bàn thời gọilà thường trụ, pháp thường trụ chẳng từ nhơn duyên, saođức Phật lại hỏi duyên cớ gì có ánh sáng nầy.
Ánhsáng nầy chính là Như Lai, Như Lai chính là thường trụ, phápthường trụ chẳng từ nhơn duyên, sao đức Phật lại hỏiduyên cớ.
Ánhsáng nầy gọi là Đại Từ Đại Bi, đại từ bi gọi là thườngtrụ, pháp thường trụ chẳng phải từ nhơn duyên, sao đứcPhật lại hỏi duyên cớ.
Ánhsáng nầy chính là niệm Phật, niệm Phật là thường trụ,pháp thường trụ chẳng từ nhơn duyên, sao đức Phật lạihỏi duyên cớ.
Ángsáng nầy là đạo bất cộng với tất cả Thanh Văn DuyênGiác, đạo bất cộng là thường trụ, pháp thường trụ chẳngtừ nhơn duyên, sao đức Phật lại hỏi duyên cớ, Đức ThếTôn cũng có nhơn duyên : Nhơn dứt vô minh chứng đặng vôthượng chánh đẳng chánh giác.
Phậtnói : “ Nầy Văn Thù Sư Lợi ! nay ông chớ nhập đệ nhứtnghĩa đế, nên dùng thế đế để giải đáp.”
VănThù Sư Lợi nói : “ Bạch Thế Tôn ! Từ đây qua phương đôngcách hai mươi hằng hà sa thế giới, có cỏi bất động, chổPhật ngự rộng một muôn hai ngàn do diên. Cõi đó toàn thấtbảo không có đất đá, bằng thẳng êm dịu không có hầmhố. Cây cối toàn bằng bốn chất vàng, bạc lưu ly và phalê, trên cây thường có hoa trái. Nếu có chúng sanh nào đượcngửi mùi thơm của hoa nầy thời thân tâm an vui nhập đệtam thiền. Khắp nơi có hai ngàn sông lớn nước sông đủtám vị công đức, nếu có chúng sanh nào tắm trontg nướcđó thời thân tâm vui vẻ như nhập đệ nhị thiền. Trongsông có nhiều thứ hoa đẹp : Những hoa sen xanh, vàng, đỏ,trắng. Hai bờ sông cũng có các thứ hoa thơm đẹp. Đáy sôngtoàn trải cát vàng. Có những thềm bực bằng vàng, bạc,lưu ly cùng pha lê nhiều màu, nhiều giống chim đẹp bay đậutrên đó.ï Lại có vô lượng cọp, sói, sư tử v.v… Cáccầm thú ấy xem nhau như con đẻ. Trong cỏi đó không có nhữngtội ác cùng hạng nhứt xiển đề. Khí hậu điều hòa khôngcó lạnh nóng đói khát khổ sở, không có tham dục, sân hậnphóng dật tật đố. Không mặt trời mặt trăng thời tiếtnhư cõi trời Đao Lợi. Nhân dân cõi đó đồng có ánhsáng, không có tâm kiêu mạn. Tất cả đều là Bồ Tát ĐạiSĩ đầy đủ thần thông, có công đức lớn, tôn trọng chánhpháp, mến tu Đại Thừa, có đại từ bi thương xót tất cảchúng sanh.
ĐứcPhật ở cõi đó hiệu là Mãn Nguyệt Quang Minh Như Lai, đầyđủ mười hiệu. Lúc đức Phật đó thuyết pháp, tòan thểchúng sanh trong cõi Bất Động đều được nghe. Đức Phậtđó vì Lưu Ly Quang Bồ Tát mà giảng thuyết kinh Đại NiếtBàn đến đọan Bồ Tát tu hành kinh nầy thời đều đặngnghe chỗ chẳng đặng nghe. Lưu Ly Quang Bồ Tát gạn hỏi đứcPhật Mãn Nguyệt Quang Minh, như tại đây Cao Quý Đức VươngBồ Tát vừa hỏi đức Như Lai giống nhau không khác. ĐứcPhật Mãn Nguyệt Quang Minh bảo Lưu Ly Quang Bồ Tát rằng :Phương Tây của cõi Bất Động nầy cách hai mươi hằng hàsa Phật độ có cõi Ta Bà, cõi ấy đầy những đất đá gaichông hầm hố gò nỗng, thường có những khổ về đói khátlạnh nóng. Nhơn dân cõi Ta Bà chẳng biết cung kính Sa Môn,Bà La Môn, cha mẹ Sư Trưởng, phần nhiều tham đắm phi pháp,tà pháp, chẳng tin chánh pháp, thọ mạng của họ ngắn ngủi.Nhiều kẻ gian trá bị chánh quyền trừng phạt. Dầu đã cónước để cai trị, nhưng vua quan chẳng biết vừa đủ sanhlòng tham kéo binh đánh chiếm nước khác làm cho những ngườivô tội bị chết oan. Các nhà lãnh đạo thật hành nhữngđiều phi pháp như vậy, nên Tứ Thiên Vương các Thiên thầnkhông hoan hỷ, thường giáng tai họa ; Hạn hán, bão lụt,mất mùa đói khát, nhơn dân nhiều bịnh, vô lượng sự khổnão. Cõi Ta Bà đó có Phật hiệu Thích Ca Mưu Ni Như Lai mườihiệu đầy đủ, hiện ở thành Câu Thi Na trong rừng Ta La SongThọ, vì đại chúng diễn thuyết kinh Đại Niết Bàn, hiệncó Bồ Tát tên Quang Minh Biến Chiếu CaoQuý Đức Vương đãđem việc nầy hỏi đức Thích Ca Mâu Ni, nay đức Phật đóđương giải đáp, ông nên mau qua cõi đó sẽ được nghe.
BạchThế Tôn ! Lưu Ly Quang Bồ Tát vâng lời đức Phật Mãn NguyệtQuang Minh cùng tám muôn bốn ngàn vị Đại Bồ Tát sắp đếnđây. Do nhơn duyên nầy nên hiện điềm phóng ánh sáng. Đâylà có duyên cớ mà có ánh sáng nầy.
Lúcđó Lưu Ly Quang Bồ Tát cùng tám muôn bốn ngàn Đại Bồ Tátmang theo các thứ phan lọng, hương hoa, chuỗi ngọc nhiều thứkỹ nhạc, đồng đến rừng Ta La nơi thành Câu Thi Na, đầumặt lễ chưn Phật, đem đồ cúng dường dưng lên, cung kínhđi nhiễu bên hữu ba vòng rồi ngồi qua một phía.
Đức Phật hỏi Lưu Ly Quang Bồ Tát : Ông vì đến mà lại,hay vì chẳng đến mà lại?
_ BạchThế Tôn ! Đến cũng chẳng lại, chẳng đến cũng chẳng lại.Tôi quán sát nghĩa nầy đều không có lại. Các hành phápnếu là thường cũng chẳng lại, nếu là vô thường cũngkhông có lại. Nếu người thấy có chúng sanh tánh thời cólại, chẳng lại. Nay tôi chẳng thấy chúng sanh có định tánh,thời đâu có lại cùng chẳng lại. Người có kiêu mạn thờithấy có đi, có lại. Người không kiêu mạn thời không thấycó đi, có lại. Người có chấp lấy tạo tác thời thấycó đi có lại. Người không chấp lấy tạo tác thời khôngthấy có đi, có lại.
Nếuthấy Như Lai rốt ráo nhập Niết Bàn thời có đi, có lại.Người chẳng thấy Như Lai nhập Niết Bàn thời không đi,không lại.
Ngườichẳng nghe Phật tánh thời có đi , có lại. Người nghe Phậttánh thời không đi không lại.
Nếuthấy hàng Thanh Văn Bích Chi Phật có Niết Bàn thời thấycó đi có lại. Người chẳng thấy hàng Thanh Văn Bích Chi Phậtcó Niết Bàn thời không đi, không lại.
Nếungười thấy hàng Thanh Văn Bích Chi Phật là thường, lạc,ngã, tịnh, thời có đi, có đến. Nếu người không thấythời không đi, không đến.
Nếuthấy Như Lai không có thường, lạc, ngã, tịnh thời có đicó đến. Nếu thấy Như Lai là thường lạc, ngã, tịnh thờikhông đi không đến.
BạchThế Tôn ! Xin để việc đó lại. Nay tôi có chỗ muốn hỏimong đức Phật thương xót cho phép.
Phậtnói : “ Nầy Thiện nam tử ! Giờ đây phải lúc tùy ý ônghỏi ta sẽ giải đáp cho ông. Vì chư Phật khó gặp như hoaƯu Đàm, pháp cũng khó được nghe, trong mười hai bộ kinh,bộ Phương Đẳng Đại thừa lại khó hơn. Vì thế nên phảichuyên tâm lóng nghe và lãnh thọ.
LưuLy Quang Bồ Tát bạch Phật : Thế Tôn ! Thế nào là Đại BồTát có thể tu hành kinh Đại Niết Bàn được nghe chỗ chẳngnghe.
Phậtkhen rằng : “ Lành thay ! Lành thay ! Nầy Thiện nam tử ! Nayông muốn cùng tận biển Đại Thừa Đại Niết Bàn, lạigặp Phật có thể khéo giải thuyết. Phật là lương y cóthể khéo nhổ mũi tên độc nghi ngờ của ông. Phật có đuốchuệ soi sáng Phật tánh cho ông. Ông muốn qua khỏi sông lớnsanh tử Phật có thể làm thuyền sư cho ông, ông ở nơi Phậttưởng là cha mẹ, Phật cũng ở nơi ông tưởng là một. Lòngông tham của báu chánh pháp, gặp Phật có nhiều pháp lạihay bố thí. Ông nên lóng nghe khéo suy nghĩ đó.
NầyThiện nam tử ! Khi nghe pháp rồi phải sanh lòng kính tin tôntrọng. Đối với chánh pháp chớ tìm cầu chỗ lỗi, chớnghĩ tham sân si. Chớ nhìn xem dòng họ tốt xấu của phápsư . Sau khi nghe pháp chớ sanh lòng kiêu mạn, chớ gìcung kính, danh dự, lợi dưỡng , phải vì được lợi íchpháp vị cam lồ độ thế gian. Cũng chớ nghĩ rằng, tôi nghepháp rồi trước tự độ mình sau sẽ độ người, trướcsẽ tự giải thoát sau sẽ giải thoát cho người, trước tựan thân sau sẽ làm cho người được an, trước tự đượcNiết Bàn sau sẽ làm cho người được Niết Bàn. Nêncó quan niệm bình đẳng đối với Phật, Pháp, Tăng. Trongsanh tử phải có quan niệm là khổ oan lớn. Đối với ĐạiNiết Bàn phải quan niệm là thường, lạc, ngã, tịnh. Trướcvì người sau sẽ vì mình. Nên vì Đại Thừa chớ vì NhịThừa. Nên không trụ trước đối với tất cả pháp, cũngchớ chuyên chấp tất cả pháp tướng. Đối với các phápchớ có lòng tham, thường có quan niệm biết pháp, thấy pháp.
NầyThiện nam tử ! Ông có thể hết lòng nghe pháp như vậy, đâythời gọi là được nghe chỗ chẳng nghe.
NầyThiện nam tử ! Có chẳng nghe mà nghe, có chẳng nghe mà chẳngnghe, có nghe mà chẳng nghe, có nghe mà nghe.
Nầythiện nam tử ! Như chẳng sanh mà sanh, chẳng sanh mà chẳngsanh, sanh mà chẳng sanh, sanh mà sanh.
Như chẳng đến mà đến, chẳng đến mà chẳng đến, đếnmà chẳng đến, đến mà
đến.
_ BạchThế Tôn ! Thế nào là chẳng sanh mà sanh ?
_ NầyThiện nam tử ! An trụ nơi thế đế, lúc mới xuất thai đâygọi là chẳng sanh mà sanh.
_ BạchThế Tôn ! Thế nào là chẳng sanh mà chẳng sanh ?
NầyThiện nam tử ! Đại Niết Bàn đây không có tướng sanh, đâygọi là chẳng sanh mà chẳng sanh.
_ BạchThế Tôn ! Thế nào gọi là sanh mà chẳng sanh ?
Nầy Thiện nam tử ! Cứ theo thế đế , lúc chết thời gọilà sanh mà chẳng sanh.
_ BạchThế Tôn ! Thế nào là sanh mà sanh ?
NầyThiện nam tử ! Tất cả phàm phu thời gọi là sanh mà sanh.Vì phàm phu sanh, sanh chẳng dứt, vì tất cả hữu lậu niệmniệm sanh luôn, đây gọi là sanh mà sanh. Bực tứ trụ BồTát thời gọi là sanh mà chẳng sanh, vì sanh mà tự tại.
NầyThiện nam tử ! Trên đó là nói về nội pháp. Còn về ngoạipháp cũng có chưa sanh mà sanh, chưa sanh mà chưa sanh, sanh màchưa sanh, sanh mà sanh. Như hột giống lúa chưa mọc mầm, đượctứ đại hòa hiệp, công người săn sóc, rồi sau mới mọclên đây gọi là chưa sanh mà sanh. Như hột giống hư và hộtgiống chưa gặp đủ duyên, thời gọi là chưa sanh mà chưasanh. Như mầm đã mọc mà chẳng lớn thêm, thời gọi là sanhmà chưa sanh. Như mầm lớn thêm thời gọi là sanh màsanh. Tất cả ngoại pháp hữu lậu sanh mà sanh như vậy.
_ BạchThế Tôn ! Pháp hữu lậu nếu có sanh, thời là thường hayvô thường ?
Sanhnếu là thường, thời pháp hữu lậu không có sanh, sanh nếulà vô thường thời hữu lậu là thường.
_ BạchThế Tôn ! Nếu sanh có thể tự sanh, thời sanh không tự tánh. Nếu có thể sanh cái khác duyên cớ gì chẳng sanh vô lậu.
_ BạchThế Tôn ! Nếu lúc chưa sanh mà có sanh, sao lại đến nay mớigọi là sanh. Nếu lúc chưa sanh là không sanh, cớ sao chẳngnói hư không là sanh ?
Phậtnói : “ Lành thay ! Lành thay ! Nầy Thiện nam tử ! Chẳngsanh mà sanh, không thể nói được, cho đến sanh mà sanh cũngkhông thể nói được, sanh cùng bất sanh đều không thể nóiđược. Vì có nhơn duyên nên cũng có thể nói được.
Thếnào là chẳng sanh mà sanh chẳng thể nói được ? Chẳng sanhlại gọi là sanh, làm sao có thể nói được, vì nó sanh.
Thếnào là sanh mà sanh, chẳng thể nói được ? Vì sanh mà sanhnên là sanh, vì sanh mà sanh nên là chẳng sanh, cũng chẳng nóiđược.
Thếnào là sanh mà chẳng sanh, chẳng thể nói được ? Sanh thờigọi là sanh, sanh chẳng tự sanh, nên chẳng thể nói được.
Thếnào là chẳng sanh mà chẳng sanh, chẳng thể nói được ? Chẳngsanh gọi là Niết Bàn, vì Niết Bàn chẳng sanh nên chẳng thểnói được, vì Niết Bàn do tu mà chứng đặng.
Thế nào là sanh cũng chẳng thể nói được ? Vì sanh vốnlà không.
Thế nào là chẳng sanh không thể nói được ? Vì có chứngđặng.
Thếnào là vì có nhơn duyên cũng có thể nói được ? Mười phápnhơn duyên làm sanh tác nhơn do đây nên cũng có thể nói được.
NầyThiện nam tử ! Nay ông chớ nhập thậm thâm không định, vìđại chúng căn trí chậm lụt.
NầyThiện nam tử ! Pháp hữu vi sanh cũng là thường, do trụ vôthường, nên sanh cũng vô thường. Trụ cũng là thường dosanh mà sanh nên trụ cũng vô thường. Dị cũng là thường,do pháp vô thường nên dị cũng vô thường. Hoại cũng làthường, do trước không nay có nên hoại cũng vô thường.
NầyThiện nam tử ! Vì cứ nơi tánh, nên sanh trụ dị hoại đềulà thường, vì niệm niệm diệt nên không thể nói là thường,vì Đại Niết Bàn nầy có thể dứt diệt được, nên lạigọi là vô thường.
NầyThiện nam tử ! Pháp hữu lậu lúc chưa sanh, đã có tánh sanh,vì thế nên sanh có thể sanh được. Pháp vô lậu vốn không tánh sanh, vì thế nên sanh không thể sanh được. Nhưlửa có tánh sẵn gặp duyên thời phát. Mắt có tánh thấyđủ duyên thời thấy. Sanh pháp của chúng sanh cũng như vậy,do tánh sẵn có, gặp nhơn duyên của nghiệp, cha mẹ hòa hiệpthời bèn có sanh. Lưu Ly Quang Bồ Tát cùng tám muôn bốn ngànĐại Bồ Tát nghe pháp nầy rồi, vọt thân lên hư không caobảy cây Đa La, chắp tay cung kính bạch Phật : “ Thế Tôn! Tôi nhờ đức Như Lai ân cần dạy bảo, do Đại Niết Bànmới đặng tỏ ngộ ý nghĩa nghe chỗ chẳng nghe, cũng làmcho tám muôn bốn ngàn Bồ Tát nầy hiểu rõ những nghĩa chẳngsanh mà sanh v.v… của các pháp.
BạchThế Tôn ! Nay tôi đã tỏ ngộ dứt hết nghi ngờ, nhưng tronghội nầy có một Bồ Tát hiệu là Vô Úy lại muốn thưa hỏimong đức Phật cho phép.
Phật bảo Vô Úy Bồ Tát : “ Nầy Thiện nam tử ! Tùy ý ônghỏi, ta sẽ vì ông giải
nói”.
VôÚy Bồ Tát cùng tám muôn bốn ngàn Bồ Tát đồng đứng dậynghiêm chỉnh y phục, quỳ chắp tay bạch Phật : “ Thế Tôn! Chúng sanh cõi Ta Bà nầy phải thật hành hạnh nghiệp gìđể được sanh về cõi Bất Động ? Bồ Tát cõi đó thếnào mà đặng đầy đủ trí huệ, đầy đủ các công hạnh,có oai đức lớn, trí huệ lanh lẹ, nghe liền hiểu rõ ?”
ĐứcPhật liền nói kệ rằng :
Chẳnghại mạng chúng sanh.
Giữgìn các cấm giới.
Bẩmthọ pháp của Phật.
Thờisanh cõi Bất Động.
Chẳngđoạt của người khác.
Thườngban cho tất cả.
Tạochiêu đề tăng phường.
Thờisanh cõi Bất Động.
Chẳngphạm vợ con người,
Vợnhà chẳng phi thời.
Thítrì giới ngọa cụ,
Thờisanh cõi Bất Động.
Chẳngvì mình hoặc người,
Cầulợi và khủng bố.
Giữlời chẳng vọng ngữ.
Thờisanh cõi Bất Động.
Chớphá thiện tri thức,
Xalìa quyến thuộc ác.
Thườngnói lời hòa hiệp,
Thờisanh cõi Bất Động.
Như các bực Bồ Tát,
Thườnglìa lời ác khẩu.
Nóira người thích nghe,
Thờisanh cõi Bất Động.
Nhẫnđến lúc giỡn cười,
Chẳngnói lời phi thời.
Giữgìn lời chánh pháp,
Thờisanh cõi Bất Động.
Thấyngười đặng lợi dưỡng,
Thườngsanh lòng vui mừng.
Chẳngsanh lòng tật đố,
Thờisanh cõi Bất Động.
Chẳngnão hại chúng sanh,
Thườngsanh lòng từ bi.
Chẳnglàm phương tiện ác,
Thờisanh cõi Bất Động.
Tàkiến bác bố thí.
Khôngcha mẹ, khứ lai.
Chẳngcó tà kiến ấy.
Thờisanh cõi Bất Động.
Đườngxa làm giếng tốt.
Trồngrừng rậm cây trái.
Thườngthí người khất thực.
Thờisanh cõi Bất Động.
Đốivới Phật, Pháp, Tăng.
Cúngmột đèn một hương.
Nhẫnđến dưng một hoa,
Thờisanh cõi Bất Động.
Nếuvì cớ sợ sệt.
Lợidưỡng cùng phước đức.
Chépmột kệ kinh nầy.
Thờisanh cõi Bất Động.
Nếuvì cầu phước lợi.
Đượcở trong một ngày.
Đọctụng kinh điển nầy.
Thờisanh cõi Bất Động.
Nếuvì đạo vô thượng,
Trongmột ngày một đêm.
Thọtrì bát quan trai.
Thờisanh cõi bất động.
Chẳngcùng người phạm tội.
Ngườihủy báng Đại Thừa.
Đồngở chung một chỗ.
Thờisanh cõi Bất Động.
Nếuthí cho người bịnh.
Nhẫnđến một trái cây.
Vuimừng mà săn sóc.
Thờisanh cõi Bất Động.
Chẳnglạm dùng của Tăng.
Khéogiữ vật của Phật.
Tôquét chỗ Phật Tăng.
Thờisanh cõi Bất Động.
Tạotượng và tháp Phật.
Chừngbằng ngón tay cái.
Thườngsanh lòng vui mừng.
Thờisanh cõi Bất Động.
Nếuvì kinh điển nầy.
Đemthân cùng của cải.
Cúngdường người thuyế pháp.
Thờisanh cõi Bất Động.
Nếunghe và biên chép.
Thọtrì cùng đọc tụng.
Tạngbí mật của Phật.
Thờisanh cõi Bất Động.
VôÚy Bồ Tát Bạch Phật : “ Thế Tôn ! Nay tôi đã biếtnhững công hạnh đặng sanh về cõi nước Bất Động.
ThếTôn ! Cao Quý Đức Vương Bồ Tát nầy vì khắp xót thươngtất cả chúng sanh nên trước kia có chỗ thưa hỏi, nếu đứcNhư Lai giải thuyết thời có thể lợi ích an vui cho hàng trời,người, bát bộ.
ĐứcPhật bảo Cao Quý Đức Vương Bồ Tát : “ Lành thay ! Lànhthay ! Nầy Thiện nam tử ! Ông nên hết lòng lóng nghe,tôi sẽ vì ông phân biệt giải thuyết.
Vìcó nhơn duyên nên chưa đến chẳng đến. Vì có nhơn duyênnên chẳng đến mà đến, vì có nhơn duyên nên đến mà chẳngđến. Vì có nhơn duyên nên đến mà đến.
NầyThiện nam tử ! Xét về chẳng đến gọi là Đại Niết Bàn.Hàng phàm phu chưa đến bởi có tham dục sân khuể và ngu si.Vì hai nghiệp thân và khẩu chẳng thanh tịnh, cùng lãnh thọtất cả vật bất tịnh, phạm bốn trọng tội, hủy bángPhương Đẳng Đại thừa là hạng nhứt xiển đề tạo tộingũ nghịch, do nghĩa nầy nên chưa đến chẳng đến.
Chẳngđến gọi là chẳng đến Đại Niết Bàn. Do nghĩa gì mà đượcđến ? Vì dứt hẳn tham dục sân khuể ngu si và tội ác củathân khẩu, chẳng thọ tất cả vật bất tịnh, chẳng phạmbốn tội trọng, chẳng hủy báng Phương Đẳng Đại Thừa,chẳng làm hạng nhứt xiển đề, chẳng tạo tội ngũ nghịch.Do nghĩa nầy nên gọi là chẳng đến mà đến.
BựcTu Đà Hoàn tám muôn kiếp thì đến, bực Tu Đà Hàm sáu muônkiếp thì đến, bực A Na Hàm bốn muôn kiếp thì đến, bựcA La Hán hai muôn kiếp thì đến, Bích Chi Phật mười ngànkiếp thì đến. Do nghĩa nầy nên gọi là chẳng đến mà đến.
Đếngọi là hai mươi lăm cõi. Tất cả chúng sanh đều bị vôlượng phiền não che đậy, qua lại chẳng ngừng dường nhưbánh xe lăn, đây gọi là đến Thanh Văn Duyên Giác vàBồ Tát vì đã đặng lìa hẳn nên gọi là chẳng đến, lạiba bực nầy vì muốn hoá độ chúng sanh nên thị hiện ởtrong đó, nên cũng gọi là đến.
Đếnchính là hai mươi lăm cõi. Tất cả phàm phu, Tu Đà Hoàn nhẫnđến A Na Hàm, vì phiền não nên gọi là đến mà đến.
NầyThiện nam tử ! Nghe chỗ chẳng nghe cũng như vậy. Có chẳngnghe mà nghe, chẳng nghe mà chẳng nghe, nghe mà chẳng nghe, nghemà nghe.
Chẳngnghe là Đại Niết Bàn vì chẳng phải hữu vi, vì chẳng phảiâm thanh, vì chẳng thể nói. Thế nào là cũng nghe ?
Vìđặng nghe danh từ : Thường, lạc, ngã và tịnh. Do nghĩa nầynên gọi là chẳng nghe mà nghe.
CaoQuý Đức Vương Bồ Tát bạch Phật : “ Thế Tôn ! Như Phậtnói Đại Niết Bàn là chẳng thể nghe được, sao lại nóirằng thường, lạc, ngã, tịnh mà có thể nghe được. Vìngười đoạn phiền não gọi là đặng Niết Bàn, nếu chưađoạn gọi là chẳng được. Do nghĩa nầy tánh Niết Bàn trướckhông mà nay có. Nếu pháp thế gian trước không mà nay cóthời gọi là vô thường. Ví như bình bồn v.v…Trước khôngmà nay có, đã có hoàn không, nên gọi là vô thường. NiếtBàn nếu như vậy, sao lại nói rằng thường, lạc, ngã , tịnh.
BạchThế Tôn ! Phàm do trang nghiêm mà được thành đều gọi làvô thường. Niết Bàn nếu như vậy lẽ ra là vô thường.Những gì trang nghiêm Niết Bàn ? Chính là ba mươi bảy phẩmtrợ đạo, sáu pháp Ba La Mật, bốn tâm vô lượng, quán tướngxương trắng, a na ba na, lục niệm xứ, phá tích sáu đại,do những pháp đó mà thành tựu Niết Bàn nên là vô thường.
BạchThế Tôn ! Phàm là cóù, thời gọi là vô thường. Nếu NiếtBàn là có thời lẽ ra là vô thường. Như ngày trước trongkinh A Hàm Phật nói : Thanh Văn Duyên Giác, chư Phật đềucó Niết Bàn, do nghĩa nầy nên gọi là vô thường.
BạchThế Tôn ! Pháp có thể thấy thời gọi là vô thường. Như ngày trước Đức Phật nói : Người thấy Niết Bàn thờidứt trừ được tất cả phiền não. Ví như hư không chẳngcó chướng ngại nên gọi là thường. Giả sử Niết Bàn làthường v.v… , cớ sao chúng sanh lại có người được, ngườichẳng được. Như vậy Niết Bàn đối với chúng sanh chẳngbình đẳng lẻ ra chẳng gọi là thường.
Vínhư trăm người chung có một kẻ oán thù, nếu hại đượckẻ nầy thời nhiều người được an lạc. Giả sử NiếtBàn là pháp bình đẳng, lúc một người được, lẽra nhiều người cũng được, một người dứt kiết sử lẽra nhiều người cũng dứt, nếu chẳng như vậy sao lại gọilà thường.
Nhưcó người cung kính cúng dường tôn trọng tán thán quốc vương,vương tử, phụ mẫu, sư trưởng thời được lợi dưỡng,đây chẳng gọi là thường. Niết Bàn cũng vậy, như ngàytrước trong kinh A Hàm đức Phật nói với A Nan : Nếu có ngườicung kính Niết Bàn thời dứt được kiết sử hưởng thọvô lượng an lạc do đây nên chẳng gọi là thường.
BạchThế Tôn ! Nếu trong Niết Bàn có danh từ thường, lạc, ngã,tịnh thời chẳng gọi là thường, như không có, sao lại cóthể nói ?
ĐứcPhật bảo Cao Quý Đức Vương Bồ Tát : “ Thể Niết Bànchẳng phải trước không nay có. Nếu thể Niết Bàn trướckhông nay có thời chẳng phải vô lậu. Pháp thường trụ,nay có Phật hay không Phật, tánh tướng vẫn thường trụ.Bởi chúng sanh bị phiền não che đậy nên chẳng thấy NiếtBàn, bèn gọi là không. Đại Bồ Tát dùng giới định huệsiêng tu tâm mình, dứt xong phiền não bèn đặng thấy NiếtBàn. Phải biết Niết Bàn là pháp thường trụ chẳng phảitrước không nay có nên gọi là thường.
Nhưdưới giếng trong nhà tối có các thứ châu báu, người cũngbiết là có nhưng vì tối nên không thấy. Người có trí thắpđèn sáng lớn cầm soi đó thời thấy châu báu rõ ràng. Ngườitrí nầy trọn chẳng nghĩ rằng : Nước giếng cùng châu báu,trước không mà nay có.
Cũngvậy, Niết Bàn trước vốn tự có, chẳng phải nay mới có,vì phiền não tối tăm nên chúng sanh chẳng thấy. Đức NhưLai đại trí thắp đèn trí huệ, làm cho Bồ Tát đặng thấyNiết Bàn, thường, lạc, ngã , tịnh. Do đây nên người tríchẳng nên nói rằng Niết Bàn trước không mà nay có.
NầyThiện nam tử ! Như ông nói do trang nghiêm nên đặng thànhNiết Bàn lẽ ra là vô thường, nghĩa nầy cũng không phải.Vì thể của Niết Bàn chẳng phải sanh, chẳng phải xuất,chẳng phải thiệt, chẳng phải hư, chẳng phải tạo tác màcó, chẳng phải là pháp hữu lậu hữu vi, chẳng phải nghe,chẳng phải thấy, chẳng phải đọa, chẳng phải chết, chẳngphải tướng biệt dị, cũng chẳng phải tướng đồng, chẳngphải qua, chẳng phải lại, chẳng phải quá khứ, vị lai ,hiện tại, chẳng phải một và nhiều, chẳng phải dài vàvắn, chẳng phải tròn và vuông, chẳng phải nhọn và méo,chẳng phải có tướng và không tướng, chẳng phải danh vàsắc, chẳng phải nhơn và quả, chẳng phải ngã và ngã sở.Do những nghĩa nầy nên Niết Bàn là thường không biến đổi.Phải tu tập pháp lành trong vô lượng kiếp để tự trangnghiêm rồi mới được thấy.
Vínhư duới đất có mạch nước trong mát chúng sanh chẳng thấyđược, người trí ra công đào đất, thời đặng nước.Niết Bàn cũng như vậy.
Vínhư người mù chẳng thấy mặt trời mặt trăng lương y điềutrị thời đặng thấy. Mặt trời mặt trăng chẳng phải làtrước không mà nay có. Niết Bàn cũng như vậy từ trướcđã tự có, chẳng phải mới có ngày nay.
Nhưngười có tội bị trói nhốt trong khám, lâu ngày mãn tù mớiđược thả ra, trở về nhà đặng thấy cha mẹ anh em vợcon quyến thuộc. Niết Bàn cũng như vậy.
NầyThiện nam tử ! Ông nói vì nhơn duyên nên pháp Niết Bàn lẽra vô thường, nghĩa nầy chẳng đúng.
NầyThiện nam tử ! Xét về nhơn có năm thứ : Một là sanh nhơn,hai là hòa hiệp nhơn, ba là trụ nhơn, bốn là tăng trưởngnhơn, năm là viễn nhơn. Sanh nhơn chính là nghiệp phiền não,cũng như hột giống của cây cỏ.
Hòahiệp nhơn, như pháp lành hòa hiệp với tâm lành, pháp chẳnglành hòa hiệp với tâm chẳng lành, pháp vô ký hòa hiệp cùngtâm vô ký.
Trụnhơn, như dưới có cột thời nóc nhà chẳng sập, núi, sông,cây cối, nhơn mặt đất mà đặng đứng vững, cũng vậy,nhờ có tứ đại cùng vô lượng phiền não mà chúng sanh đặngan trụ. Tăng trưởng nhơn, do uống ăn y phục v.v… làm chochúng sanh Tăng trưởng. Ví như lửa chẳng đốt, chim chẳngăn thời hột giống của cây cỏ được Tăng trưởng. Nhưhàng Sa Môn, Bà La Môn nhờ thầy lành bạn tốt mà đượcTăng trưởng. Như nhờ cha mẹ mà con được Tăng trưởng.
Viễnnhơn, như nhơn thần chú mà quỉ chẳng hại được, độcchẳng trúng được, như nhờ quốc vương không có trộm cướp,như nương đất nước mà mầm mọc lên, như nước khuấy,công người là Viễn nhơn của chất tô. Như ánh sáng màusắc v.v…là Viễn nhơn của nhãn thức, tinh huyết của chamẹ là Viễn nhơn của chúng sanh. Như thời tiết v.v… đềugọi là Viễn nhơn.
_ NầyThiện nam tử ! Thể Niết Bàn chẳng phải do nhơn như vậylàm thành, sao ông lại nói là vô thường ?
_ Lạicó hai thứ nhơn : Một là tác nhơn, hai là liễu nhơn. Nhưkhí cụ của thợ gốm thời gọi là tác nhơn, như đèn đuốcvân vân soi vật trong tối thời gọi là liễu nhơn.
_ NầyThiện nam tử ! Đại Niết Bàn chẳng do tác nhơn mà có, chỉdo liễu nhơn. Ba mươi bảy phẩm trợ đạo, sáu pháp Ba LaMật gọi là liễu nhơn. Bố thí là nhơn của Niết Bàn, chẳngphải là nhơn của Đại Niết Bàn. Đàn Ba La Mật mới đượcgọi là nhơn của Đại Niết Bàn. Ba mươi bảy phẩm trợđạo là nhơn của Niết Bàn, chẳng phải nhơn của Đại NiếtBàn. Vô lượng vô số pháp trợ Bồ Đề mới được gọilà nhơn của Đại Niết Bàn.
QuangMinh Biến Chiếu Cao Quý Đức Vương Bồ Tát bạch Phật : “Thế Tôn ! Tại sao bố thí chẳng được gọi là Đàn Ba LaMật ? Bố thí thế nào mới được gọi là Đàn Ba LaMật, nhẫn đến Bát Nhã Ba La Mật ? Thế nào gọi là NiếtBàn và Đại Niết Bàn ?
Phậtnói : “ Nầy Thiện nam tử ! Đại Bồ Tát tu hành Đại ThừaPhương Đẳng Đại Niết Bàn, chẳng nghe bố thí cũng chẳngthấy bố thí. Chẳng nghe Đàn Ba La Mật cũng như chẳng thấynhẫn đến chẳng nghe Bát Nhã, chẳng thấy Bát Nhã, cũng chẳngnghe chẳng thấy Bát Nhã Ba La Mật. Chẳng nghe chẳng thấyNiết Bàn và Đại Niết Bàn.
ĐạiBồ Tát tu Đại Niết Bàn, biết và thấy pháp giới, hiểurõ thật tướng không có tất cả tướng : Không có tướnghòa hiệp giác tri. Đặng tướng vô lậu, tướng vô tác, tướngnhư huyễn hóa, tướng ánh nắng, tướng thành Càn Thát Bà,tướng trống không. Bồ Tát thấy được những tướng nhưvậy thời không tham, sân, si, chẳng nghe chẳng thấy. Đâygọi là Đại Bồ Tát an trụ thật tướng.
ĐạiBồ Tát tự biết đây là bố thí, đây là Đàn Ba La Mậtnhẫn đến đây là Bát Nhã, đây là Bát Nhã Ba La Mật, đâylà Niết Bàn, đây là Đại Niết Bàn.
NầyThiện nam tử ! Thế nào là bố thí mà chẳng phải Ba La mật? Thấy có người xin rồi sau mới cho, đây là bố thí chẳngphải Ba La Mật. Nếu không người xin tâm tự thí xả, thờigọi là Đàn Ba La Mật. Nếu bố thí có thời gian thời gọilà bố thí chẳng phải Ba La Mật. Nếu thường thật hànhbố thí thời gọi là Đàn Ba La Mật, nếu bố thí rồi trởlại sanh lòng hối hận đây gọi là bố thí chẳng phải BaLa Mật. Thí rồi chẳng ăn năn thời gọi là Đàn Ba La Mật.
ĐạiBồ Tát đối với của cải có bốn quan niệm lo sợ : Một là vua quan tịch thâu, hai là trộm cướp, ba là nướclụt, bốn là lửa cháy, do đó nên vui vẻ đem bố thí, đâygọi là Đàn Ba La Mật nếu mong được báo đền mà bố thíthời chẳng phải Ba La Mật. Bố thí chẳng mong báo đềnthời gọi là Đàn Ba La Mật.
Nếuvì kinh sợ, vì tiếng tăm lợi lộc, vì gia pháp tương truyền,vì cầu vui cõi trời, vì kiêu mạn, vì hơn người, vì quenthân, vì cầu báo đền thời như là buôn bán đổi chác. Nhưngười trồng cây để được bóng mát, được bông trái,hoặc để được cây gỗ. Nếu người tu hành mà bố thínhư vậy thời gọi là bố thí chẳng phải Ba La Mật.
ĐạiBồ Tát tu hành Phương Đẳng Đại Niết Bàn, chẳng thấyngười bố thí cũng như chẳng thấy kẻ lãnh thọ và củacải, chẳng thấy thời tiết, chẳng thấy phước điền haychẳng phải phước điền, chẳng thấy nhơn duyên, quả báo,chẳng thấy người làm kẻ thọ, chẳng thấy nhiều hayít, tịnh hay bất tịnh, chẳng khinh người lãnh thọ cũngnhư chẳng khinh thân mình hay của cải, chẳng để ý ngườingó thấy hay không ngó thấy, chẳng chấp mình cùng ngườichỉ vì pháp thường trụ Phương Đẳng Đại Niết Bàn màthật hành bố thí chỉ vì lợi ích tất cả chúng sanh màthật hành bố thí, vì dứt tất cả phiền não cho chúng sanhmà thật hành bố thí, chỉ vì chúng sanh nên chẳng thấy ngườithí kẻ thọ cùng của cải, mà thật hành bố thí.
Vínhư người té xuống biển lớn, ôm lấy tử thi mà đượcthoát nạn., Đại Bồ Tát tu Đại Niết Bàn lúc thật hànhbố thí cũng như ôm lấy tử thi để được vào bờ.
Vínhư có người bị nhốt trong ngục kín, cửa nẻo đều đóngchặt, chỉ có lỗ cầu xí, bèn do nơi đó chui ra mà đượcthong thả, Đại Bồ Tát tu hành Đại Niết Bàn lúc thật hànhbố thí cũng như vậy.
Vínhư người sanh qúy phải nạn gấp kinh sợ không có chỗ dựanương, bèn nương nhờ chiên đà la. Đại Bồ Tát tu ĐạiNiết Bàn thật hành bố thí cũng như vậy
Vínhư người bịnh nặng, vì muốn được lành mạnh nên uốngchất thuốc dơ. Đại Bồ Tát tu Đại Niết Bàn thật hànhbố thí cũng như vậy.
NhưBà La Môn gặp lúc mất mùa đói khát vì mạng sống nên ănthịt chó, Đại Bồ Tát tu Đại Niết Bàn thật hành bố thícũng như vậy.
NầyThiện nam tử ! Trong Đại Niết Bàn những việc như vậy,từ vô lượng kiếp đến nay chẳng nghe mà được nghe giớiluật cùng Thi La Ba La Mật nhẫn đến Bát Nhã cùng Bát NhãBa La Mật, như trong kinh Tạp Hoa đức Phật đã giảng rộng.
NầyThiện nam tử ! Thế nào là Bồ Tát tu Đại Niết Bàn chẳngnghe mà được nghe ? Mười hai bộ kinh nghĩa lý thâm thúy từtrước chẳng nghe, nay nhơn kinh nầy mà được nghe đầy đủ.Trước dầu được nghe nhưng chỉ nghe danh tự, nay ở kinhnầy mới đặng nghe nghĩa lý. Thanh Văn Duyên Giác chỉ nghedanh tự của mười hai bộ kinh mà chẳng nghe nghĩa lý, nayở kinh nầy được nghe đầy đủ. Đây gọi là chẳng nghemà được nghe.
Trongtất cả kinh của Thanh Văn Duyên Giác chẳng nghe đức Phậtcó thường, lạc, ngã, tịnh, chẳng rốt ráo nhập diệt, TamBảo và Phật tánh không có tướng sai khác, người phạm bốntrọng tội, hủy báng kinh điển Đại Thừa, tạo tội ngũngịch và nhứt xiển đề, tất cả đều có Phật tánh. Nayở kinh nầy mà đặng nghe đó. Đây gọi là chẳng nghe màđược nghe.
CaoQuý Đức Vương Bồ Tát bạch Phật : “ Thế Tôn ! Nếu nhứtxiển đề v.v… mà có Phật tánh, tại sao bọn họ lạiđọa địa ngục ?
BạchThế Tôn ! Giả sử bọn họ có Phật tánh, sao lại nói làkhông có thường, lạc, ngã, tịnh ?
Nếudứt căn lành gọi là nhứt xiển đề, lúc dứt căn lành tạisao Phật tánh lại chẳng dứt ? Phật tánh nếu dứt sao lạinói rằng thường, lạc, ngã, tịnh ? Như Phật tánh chẳngdứt sao lại gọi là nhứt xiển đế?
BạchThế Tôn ! Phạm bốn tội nặng gọi là bất định, hủy bángkinh Đại Thừa, tạo tội ngũ nghịch cùng nhứt xiển đềđều gọi là bất định. Những hạng nầy nếu quyết địnhlàm sao đặng thành Vô Thượng Bồ Đề, Tu Đà Hoàn nhẫnđến Bích Chi Phật cũng gọi là bất định, vì nếu quyếtđịnh lẽ ra Tu Đà Hoàn nhẫn đến Bích Chi Phật đều chẳngđược thành Vô Thượng Bồ Đề.
BạchThế Tôn ! Nếu phạm bốn tội nặng là chẳng quyết định,thời Tu Đà Hoàn nhẫn đến Bích Chi Phật cũng là chẳng quyếtđịnyh, chư Phật Như Lai cũng lại chẳng quyết định nhưthế thể tánh Niết Bàn cũng lại chẳng quyết định, tấtcả pháp cũng chẳng quyết định. Tại sao chẳng quyết địnhgọi là nhứt xiển đề. Trừ nhứt xiển đề thời thànhPhật đạo. Chư Phật Như Lai lẽ ra cũng như vậy, nhập NiếtBàn rồi đáng lẽ cũng lại trở ra chẳng nhập Niết Bàn.Nếu như vầy thời tánh Niết Bàn cũng là chẳng nhứt định.Vì chẳng nhứt định nên biết chẳng có thường, lạc, ngã,tịnh. Sao lại nói rằng : Nhứt xiển đề v.v… sẽ đặngNiết Bàn ?”
ĐứcPhật nói : “ Lành thay ! Lành thay ! Ông vì muốn lợi íchan lạc chúng sanh, vì lòng từ bi xót thương thế gian, vì muốnsách tấn các Bồ Tát phát Bồ Đề tâm, nên hỏi Phật nhữngđiều như vậy
Ôngđã gần gũi vô lượng chư Phật quá khứ trồng những cănlành, từ lâu đã thành tựu công đức Bồ Đề hàng phụccác loài ma, đã giáo hóa vô lượng vô biên chúng sanh đưahọ đến vô thượng chánh giác, từ lâu đã thông đạt tạngthâm mật của Như Lai, đã từng đem những nghĩa thâm mậtnhư trên thưa hỏi hằng hà sa chư Phật thuở quá khứ. Tấtcả thế gian hoặc người hoặc trời hoặc Sa Môn hoặc BàLa Môn hoặc Ma Vương, Phạm Vương, ta đều không thấy ai cóthể hỏi được như vậy. Ông nên thành tâm lóng nghe.
NầyThiện nam tử ! Nhứt xiển đề cũng chẳng nhứt định. Vìnếu nhứt định thời nhứt xiển đề trọn không thể đặngthành vô thượng chánh giác. Vì chẳng nhứt định nên cóthể đặng thành.
Như ông hỏi : Phật tánh chẳng dứt, sao nhứt xiển đềlại dứt căn lành ?
NầyThiện nam tử ! Căn lành có hai thứ : Trong và ngoài. Phậttánh chẳng phải trong chẳng phải ngoài, nên chẳng dứt.
Cănlành lại có hai thứ : Hữu lậu và vô lậu. Phật tánh chẳngphải hữu lậu vô lậu nên chẳng dứt.
Lạicó hai thứ căn lành : Thường và vô thường. Phật tánh chẳngphải thường , chẳng phải vô thường nên chẳng dứt.
Nếulà những thứ bị dứt, thời trở lại đặng. Nếu chẳngtrở lại đặng thời gọi là chẳng dứt. Nếu dứt rồi trởlại đặng thời gọi là nhứt xiển đề. Phạm bốn tộinặng, hủy báng đại thừa, tạo tội ngũ nghịch cũng chẳngnhứt định như vậy. Vì nếu nhứt định thời những hạngnầy trọn chẳng thể đặng vô thượng Bồ Đề.
Sắccùng tướng của sắc, hương, vị, xúc, sanh đến vô minh,ấm, nhập, giới, hai mươi lăm cõi, bốn loài sanh, tất cảpháp cũng đều không có tướng nhứt định.
Vínhư nhà ảo thuật ở trong đại chúng biến hóa làm quân lính,chuỗi ngọc đồ trang sức, xóm làng, thành ấp, rừng cây,suối, ao, sông, giếng. Trong đại chúng có bọn trẻ thơ vìkhông đủ trí, nên lúc xem coi cho đó là thiệt. Người tríbiết đó là hư dối , do sức ảo thuật làm lầm mắt người.
Tấtcả phàm phu nhẫn đến Thanh Văn Bích Chi Phật, đốivới tất cả pháp thấy có tướng nhứt định. Chư PhậtBồ Tát đối với tất cả pháp chẳng thấy tướng nhứtđịnh.
Vínhư mùa hạ thấy ánh sáng dợn, trẻ thơ cho là nước. Ngườitrí trọn chẳng nhận là nước thiệt, chỉ là ánh nắng gợnlàm lầm mắt người.
Tấtcả phàm phu Thanh Văn Duyên Giác thấy tất cả pháp đều cholà thật. Chư Phật Bồ Tát chẳng thấy có tướng nhứt định.
Vínhư khe núi, do tiếng mà có vang. Trẻ thơ cho là thiệt tiếng.Người trí hiểu là không thật, chỉ có tướng tiếng phỉnh dối nơi nhĩ thức.
Tấtcả phàm phu Thanh Văn Duyên Giác đối với tất cả pháp thấycó tướng nhứt định. Chư Phật Bồ Tát hiểu rõ đều khôngtướng nhứt định, thấy là tướng vô thường, tướng khôngtịch, tướng không sanh diệt. Do nghĩa nầy, Đại Bồ Tátthấy tất cả pháp là tướng vô thường.
NầyThiện nam tử ! Cũng có định tướng, chính là thường, lạc,ngã, tịnh nơi quả Đại Niết Bàn.
NầyThiện nam tử ! Quả Tu Đà Hoàn cũng chẳng quyết định, vìchẳng quyết định nên trãi qua tám muôn kiếp đặng vô thượngchánh giác. Quả Tu Đà Hàm cũng chẳng quyết định, vì trảiqua sáu muôn kiếp đặng vô thượng chánh giác Quả A Na Hàmcũng chẳng quyết định, vì trải qua bốn muôn kiếp đặngvô thượng chánh giác. Quả A La Hán cũng chẳng quyết định,vì trải qua hai muôn kiếp đặng vô thượng chánh giác.
BíchChi Phật cũng chẳng quyết định, vì trải qua mười ngànkiếp đặng vô thượng chánh đẳng chánh giác.
NầyThiện nam tử ! Hôm nay Như lai ở trong rừng Ta La Song Thọnơi thành Câu Thi Na, thị hiện nằm dựa trên giường sư tửsắp nhập Niết Bàn, làm cho chúng đệ tử chưa chứng quảA La Hán cùng các lực sĩ rất lo rầu, cũng làm cho trời, người,A Tu la, Càn Thát Bà, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già v.v…trần thiết đồ cúng dường. Muốn khiến mọi người dùngngàn bức vải lông vấn thân Như Lai, bảy báu làm quan tài,đựng đầy dầu thơm, chất những gỗ thơm để thiêu đó.Chỉ trừ hai thứ chẳng thể cháy được : Một là y lót mình,hai là lớp vải vấn phía ngoài hết. Vì chúng sanh nên phânchia xá lợi làm tám phần.
Tấtcả hàng Thanh Văn đệ tử đều cho rằng Đức Như Lai nhậpNiết Bàn. Phải biết Đức Như Lai cũng chẳng quyết địnhrốt ráo nhập Niết Bàn, vì đức Như Lai thường trụ chẳngbiến đổi. Do nghĩa nầy nên Đức Như Lai nhập Niết Bàncũng chẳng nhứt định.
NầyThiện nam tử ! Nên biết Như Lai cũng chẳng quyết định.Như Lai chẳng phải Thiên. Có bốn hạng thiên : Một là thếgian thiên, hai là sanh thiên, ba là tịnh thiên, bốn là nghĩathiên.
Thếgian thiên, lệ như các vị Quốc vương. Từ Tứ Thiên Vươngnhẫn đến trời Phi Tưởng Phi Phi Tưởng gọi là Sanh Thiên.Từ Tu Đà Hoàn đến Bích Chi Phật gọi là Tịnh Thiên. Thậptrụ Bồ Tát v.v… gọi là Nghĩa Thiên, vì có thể hiểurõ nghĩa của các pháp, chính là thấy nghĩa không của tấtcả pháp.
NầyThiện nam tử ! Như Lai chẳng phải Quốc Vương, chẳng phảiTứ Thiên Vương, nhẫn đến trời Phi Phi Tưởng, cũng chẳngphải Tu Đà Hoàn, Bích Chi Phật, Thập Trụ Bồ Tát. Do đâynên Như Lai chẳng phải Thiên. Mặc dù như vậy, nhưng chúngsanh cũng gọi Phật là Thiên Trung Thiên. Vì thế nên Như Laichẳng phải là Thiên cũng chẳng phải là chẳng phải Thiên,chẳng phải là người cũng chẳng phải là chẳng phải người,chẳng phải là quỷ, cũng chẳng phải là chẳng phải quỷ,chẳng phải là địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ, chẳng phảilà chúng sanh cũng chẳng phải là chẳng phải chúng sanh, chẳngphải là pháp cũng chẳng phải là chẳng phải pháp, chẳngphải là sắc cũng chẳng phải là chẳng phải sắc, chẳngphải là dài, vắn cũng chẳng phải là chẳng phải dài, vắn.Chẳng phải là tướng cũng chẳng phải là chẳng phảitướng, chẳng phải là tâm cũng chẳng phải là chẳng phảitâm, chẳng phải là hữu lậu, chẳng phải là vô lậu, chẳngphải là hữu vi, chẳng phải là vô vi, chẳng phải là thường,chẳng phải là vô thường, chẳng phải là huyễn hóa cũngchẳng phải là chẳng phải huyễn hóa, chẳng phải là danhcũng chẳng phải là chẳng phải danh, chẳng phải là địnhcũng chẳng phải là chẳng phải định, chẳng phải có khôngcũng chẳng phải là chẳng phải có không, chẳng phải ngônthuyết cũng chẳng phải là chẳng phải ngôn thuyết, chẳngphải Như Lai cũng chẳng phải là chẳng phải Như Lai. Do nghĩanầy nên Như Lai chẳng quyết định.
NầyThiện nam tử ! Cớ sao Như Lai chẳng gọi là thế gian Thiên? Thế gian Thiên chính là của vị Quốc Vương. Đức Như Laitừ vô lượng kiếp đã bỏ ngôi Quốc Vương, cho nên NhưLai chẳng phải là Quốc Vương. Như Lai giáng sanh nơi nhà vuaTịnh Phạn tại thành Ca Tỳ La Vệ, nên Như Lai chẳng phảilà chẳng phải Quốc Vương.
NhưLai từ lâu đã lìa khỏi các cõi, nên chẳng phải là sanhthiên. Như Lai lên trời Đâu Suất xuống Diêm Phù Đề, nênchẳng phải là chẳng phải sanh Thiên.
NhưLai chẳng phải Tu Đà Hoàn nhẫn đến Bích Chi Phật, nên NhưLai chẳng phải là Tịnh Thiên.
Támpháp trong đời chẳng ô nhiễm được, dường như Liên Hoachẳng dính bụi, nước, nên Như Lai chẳng phải là chẳngphải Tịnh Thiên.
NhưLai chẳng phải là Thập Trụ Bồ Tát, nên Như Lai chẳng phảilà Nghĩa Thiên. Như Lai thường tu mười tám nghĩa không, nênNhư Lai chẳng phải là chẳng phải Nghĩa Thiên.
NhưLai chẳng phải là người vì Như Lai từ vô lượng kiếp đãlìa quả báo người. Như Lai giáng sinh thành Ca Tỳ La nên chẳngphải là chẳng phải người.
NhưLai chẳng phải là quỷ vì chẳng hại tất cả chúng sanh.Như Lai cũng dùng thân quỷ để hóa độ chúng sanh nên chẳngphải là chẳng phải quỷ.
NhưLai chẳng phải là địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ vì từ lâuđã lìa ác nghiệp, cũng hiện thọ thân trong ác đạo đểgiáo hóa chúng sanh, nên Như Lai cũng chẳng phải là chẳngphải địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ,
NhưLai chẳng phải là chúng sanh vì từ lâu đã lìa tánh chúngsanh.
Cólúc Như Lai diễn thuyết chúng sanh, nên cũng chẳng phải làchẳng phải chúng sanh.
Cácpháp mỗi mỗi đều có tướng sai khác. Như Lai chỉ có mộttướng, nên chẳng phải là pháp. Như Lai là pháp giới nêncũng chẳng phải là chẳng phải pháp.
Như Lai chẳng nhiếp trong mười sắc pháp, nên chẳng phảilà sắc.
ThânNhư Lai có ba mươi hai tướng tốt tám mươi vẻ đẹp, nênchẳng phải là chẳng phải sắc.
Vìdứt tất cả sắc nên Như Lai chẳng phải là cao. Tất cảthế gian không ai thấy được đỉnh đầu của Như Lai, nênchẳng phải là chẳng phải cao.
Từlâu, đã xa lìa kiêu mạn, nên Như Lai chẳng phải là thấp.Vì độ Trưởng Giả, Cù Sư La, Như Lai hiện thân ba thước,nên chẳng phải là chẳng phải thấp.
Từlâu đã xa lìa các hình tướng, nên Như Lai chẳng phải làtướng. Như Lai biết rành tất cả tướng, nên chẳng phảilà chẳng phải tướng.
NhưLai rỗng rang như hư không, nên chẳng phải là tâm. Vì NhưLai có mười tâm trí lực, cũng có thể rõ biết tâm củachúng sanh, nên cũng chẳng phải là chẳng phải tâm.
VìNhư Lai là thường, lạc, ngã , tịnh, nên chẳng phải là hữuvi. Như Lai thị hiện có đến, đi, ngồi, nằm cùng thị hiệnNiết Bàn nên chẳng phải là vô vi.
Vìcó thân phần đoạn nên Như Lai chẳng phải là thường.ïLại vì có biết, vì có nói năng, vì có họ tên, vì có chamẹ, vì có bốn oai nghi, vì có nơi chỗ, do đây nên Như Laichẳng phải là thường. Phàm pháp có sanh gọi là vô thường.Như Lai là vô sanh nên chẳng phải là chẳng phải thường.Phàm pháp thường trụ thời khắp tất cả chỗ như hư không,không chỗ nào không có, Như Lai khắp tất cả chỗ cũng nhưvậy nên là thường. Những pháp vô thường thời chỗ nầycó, chỗ kia không, Như Lai chẳng như vậy nên là thường.Pháp vô thường thời có lúc có lúc không, Như Lai chẳng nhưvậy nên là thường. Pháp thường trụ không danh, sắc, khôngnhơn, không quả, Như Lai cũng như vậy nên là thường. Phápthường trụ chẳng nhiếp trong thời gian ba đời, Như Lai cũngnhư vậy nên là thường.
Vìdứt tất cả tâm luống dối, nên Như Lai chẳng phải là huyễnhóa. Như Lai có lúc chia một thân làm vô lượng thân, vô lượngthân hiệp làm một thân, đi thẳng qua núi qua vách không bịchướng ngại, đi trên nước như đất, vào trong đất nhưnước, đi trên hư không như đất bằng, thân tuôn ra khóilửa, hực hở như đống lửa, hiện tiếng mây sấm chấnđộng, hoặc hiện làm thành ấp xóm làng nhà cửa núi sôngcây cối, hoặc hiện thân to lớn, hoặc thân nhỏ, thân nam,thân nữ, thân đồng nam, thân đồng nữ, vì thế nên NhưLai cũng chẳng phải là chẳng phải huyễn hóa.
Trongrừng Ta La nơi thành Câu Thi Na, Như Lai thị hiện nhập NiếtBàn vì thế nên Như Lai chẳng phải quyết định. Do vì thường,lạc, ngã tịnh nên Như Lai cũng chẳng phải là chẳng quyếtđịnh.
Vìđã dứt ba thứ lậu : Một là dục lậu tức là tất cảphiền não ở dục giới trừ vô minh; hai là hữu lậu tứclà tất cả phiền não sắc giới và vô sắc giới trừ vôminh ; ba là vô minh lậu tức là vô minh trong tam giới.
Vìthế nên Như Lai chẳng phải hữu lậu.