- 01. Phẩm Tự
- 02. Phẩm Thuần Đà
- 03. Phẩm Ai Thán
- 04. Phẩm Trường Thọ
- 05. Phẩm Kim Cang Thân
- 06. Phẩm Danh Tự Công Đức
- 07. Phẩm Tứ Tướng
- 08. Phẩm Tứ Y
- 09. Phẩm Tà Chánh
- 10. Phẩm Tứ Đế
- 11. Phẩm Tứ Đảo
- 12. Phẩm Như Lai Tánh
- 13. Phẩm Văn Tự
- 14. Phẩm Điểu Dụ
- 15. Phẩm Nguyệt Dụ
- 16. Phẩm Bồ Tát
- 17. Phẩm Đại Chúng Vấn
- 18. Phẩm Hiện Bịnh
- 19. Phẩm Thánh Hạnh
- 20. Phẩm Phạm Hạnh
- 21. Phẩm Anh Nhi Hạnh
- 22. Phẩm Quang Minh Biến Chiếu Cao Quý Đức Vương Bồ Tát
- 23. Phẩm Sư Tử Hống Bồ Tát
- 24. Phẩm Ca Diếp Bồ Tát
- 25. Phẩm Kiều Trần Như
- 26. Phẩm Di Giáo
- 27. Phẩm Ứng Tận Hườn Nguyên
- 28. Phẩm Trà Tỳ
- 29. Phẩm Cúng Dường Xá Lợi
DịchTừ Hán Sang Việt: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
TịnhXá Minh Ðăng Quang, Hoa Kỳ Xuất Bản 1990
PHẨMPHẠM HẠNH THỨ HAI MƯƠI
(Hánbộ trọn quyển 14, 15, 16, 17 và phần đầu quyển thứ 18)
NầyThiện nam tử ! Có người đào đất, cắt cỏ, đốn cây,chặt tử thi, mắng chửi, đánh đập tử thi, do nghiệp duyênnầy có bị đọa địa ngục chăng ?
CaDiếp Bồ Tát bạch Phật : “ Thế Tôn ! Như tôi hiểu nghĩacủa Phật nói kẻ đó phải đọa địa ngục. Vì cớ sao ?Như ngày trước Phật nói pháp cho hàng Thanh Văn : Nầy cácTỳ Kheo ở nơi cây cháy rụi chớ sanh lòng ác. Vì tất cảchúng sanh do lòng ác mà phải đọa nơi địa ngục.”
ĐứcPhật khen Ca Diếp Bồ Tát : “ Lành thay ! Lành thay ! Đúngnhư lời ông nói, phải khéo thọ trì.
NầyThiện nam tử ! Nếu chơn ác tâm phải đọa địa ngục, lúcđó Bồ Tát thiệt không ác tâm. Vì Đại Bồ Tát đối vớitất cả chúng sanh nhẫn đến con trùn , con kiến đều sanhlòng thương xót, muốn cho họ được lợi ích vì Bồ tátkhéo biết các phương tiện, các nhơn duyên, do sức phươngtiện muốn làm cho chúng sanh vun trồng cội lành. Do nghĩa đó,lúc ấy ta dùng phương tiện, dầu giết hại mạng họ màchẳng phải là tâm ác.
NầyThiện nam tử ! Cứ theo giáo pháp Bà La Môn, cho rằng nếugiết chết kiến đầy cả mười xe không có tội báo, muỗi,ruồi, rận, rệp, mèo, chồn, sư tử, cọp, sói, gấu, nhữngđộc trùng, ác thú, và những loài có thể làm hại người: Quỉ Thần, La Sát , Cưu Bàn Trà. Ca La, Phú Đơn Na, Điêncuồng, Càn khô, có ai giết hại mạng họ đầy cả mườixe cũng không có tội báo, nếu giết người ác thời có tộibáo. Giết rồi chẳng ăn năn thời đọa ngạ quỉ. Nếu cóthể sám hối tuyệt thực ba ngày, thời tội đó tiêu diệtkhông còn thừa. Nếu giết Hòa Thượng, giết cha , hại mẹ,giết phụ nữ, giết bò, trâu, thời phải đọa địa ngụctrong vô số ngàn năm.
NầyThiện nam tử ! Chư Phật và Bồ Tát biết giết hại có bahạng : hạ, trung và thượng.
Hạnghạ là trùn kiến nhẫn đến tất cả các súc sanh chỉ trừBồ Tát thị hiện thọ sanh. Đại Bồ Tát do nguyện lực nênthị hiện làm thân súc sanh, trừ đây ra gọi là sát sanh hạnghạ. Nghiệp duyên nầy sẽ phải đọa nơi địa ngục, súcsanh, ngã quỉ chịu lấy sự khổ hạng hạ. Vì những súcsanh có căn lành rất kém ít nên kẻ giết phải thọ tộibáo hạng hạ.
Sáthại hạng trung là từ người phàm phu đến vị chứng quảA Na Hàm, đây gọi là hạng trung. Nghiệp duyên giết hại hạngnầy phải đọa nơi địa ngục, súc sanh, ngạ quỉ thọ sựkhổ hạng trung.
Sátsanh hạng thượng là giết cha mẹ, nhẫn đến A La Hán, BíchChi Phật, quyết định Bồ Tát, đây gọi là hạng thượng.Nghiệp duyên giết hại hạng nầy phải đọa vào trong địangục A Tỳ chịu lấy sự khổ hạng thượng.
NầyThiện nam tử ! Nếu có người giết kẻ nhứt xiển đề,thời chẳng đọa vào trong ba hạng sát hại nầy.
NầyThiện nam tử ! Những người dòng Bà La Môn bị nhà vua giếttrước kia tất cả đều là hạng nhứt xiển đề. Thí nhưđào đất cắt cỏ đốn cây chặt tử thi mắng nhiếc đánhđập, đều không có tội báo. Giết hạng nhứt xiển đềcũng không có tội báo như vậy. Vì những người Bà La Mônkhông có căn lành nhẫn đến không có năm pháp tín v.v… Vìthế nên dầu giết hại họ mà chẳng đọa địa ngục.
NầyThiện nam tử ! Ông trước nói rằng : Đức Như Lai cớ chimắng Đề Bà Đạt Đa là người ngu si ăn nước miếng. Ôngkhông nên hỏi như vậy. Vì chư Phật Thế Tôn phàm nói ralời gì đều chẳng thể nghĩ bàn.
NầyThiện nam tử ! Hoặc có thiệt ngữ được người đời mếnưa nhưng phi thời, phi pháp chẳng lợi ích, những lời nhưvậy đức Phật trọn chẳng nói. Hoặc lại nói lời thô vụnghư vọng, phi thời, phi pháp, chẳng lợi ích người nghe chẳngưa thích, đức Phật cũng chẳng nói.
NầyThiện nam tử ! Nếu có những lời dầu là thô rắn nhưngchơn thật chẳng hư vọng, phải thời đúng pháp có thể lợiích cho tất cả chúng sanh, người nghe dầu chẳng vui đẹpnhưng ta cần phải nói. Vì chư Phật Thế Tôn chánh đẳngchánh giác khéo biết phương tiện.
NầyThiện nam tử ! Trước kia có một hôm ta đi ngang thôn KhoángDã, ở dưới rừng có một quỉ thần tên là Khoáng Dã. Quỉnầy thuần ăn máu thịt giết hại nhiều chúng sanh. Quỉ ấylại mỗi ngày ăn một người trong thôn xóm gần đó. Lúcđó ta rộng nói pháp yếu cho quỉ Khoáng Dã, nhưng quỉ ấyhung bạo ngu si chẳng lãnh thọ giáo pháp. Ta liền hóa thân ra làm đại lực quỉ, làm rúng động cung điện của nó.Quỉ Khoáng Dã dắt quyến thuộc và bộ hạ kéo ra muốn chốngcự với ta. Chúng nó vừa thấy ta liền run sợ té xuống đấtngất xỉu như người chết. Ta dùng lòng từ bi lấy tay xoalên mình nó. Nó tỉnh dậy nói rằng : “ Hôm nay may mắn đượcsống lại. Vị Đại Thần Vương nầy có oai đức lớn cótâm từ bi tha tội lỗi của tôi”. Qủi Khoáng Dã liền sanhtâm lành kính tin nơi ta.
Tahiện hoàn lại thân Như Lai vì họ nói pháp yếu làm cho cácquỉ thần kia thọ giới bất sát.
Chínhngày đó trong thôn Khoáng Dã có một ông Trưởng giả đếnphiên phải chết, người trong thôn đã đưa ông ấy giao choquỉ Khoáng Dã. Quỉ Khoáng Dã liền đem đến cúng thí chota. Ta lãnh ông Trưởng giả và đặt hiệu cho ông là ThủTrưởng giả.
QuỉKhoáng Dã bạch ta rằng : “ Thế Tôn ! Con và quyến thuộccủa con chỉ nhờ máu thịt mà đặng sống, nay thọ giớibất sát biết lấy gì để sống được ?”
Tabảo rằng : “ Từ nay trở đi đức Phật sẽ bảo hàng ThanhVăn đệ tử tùy chỗ nào có Phật pháp lưu hành đều sẽcúng thí đồ uống ăn cho nhà ngươi.”
NầyThiện nam tử ! Do nhơn duyên đó ta chế điều giới : CácTỳ Kheo từ nay trở đi thường phải thí thực cho quỉ KhoángDã. Nếu người xuất gia nào chẳng cúng thí, nên biếtngười đó chẳng phải đệ tử Phật, chính là đồ đảngquyến thuộc của Thiên Ma.
NầyThiện nam tử ! Đức Như Lai vì muốn điều phục chúng sanhnên thị hiện những phương tiện như vậy. Chẳng phải cốý làm cho họ sanh lòng sợ hãi.
Cũngcó một lúc ta dùng cây đánh quỉ hộ pháp.
Lạicó một hôm ta đang đi trên một ngọn núi xô quỉ Dương Đầulàm nó té xuống dưới núi.
Lạimột hôm nơi ngọn cây ta xô ngã quỉ Hộ Di Hầu.
Mộtngày nọ làm cho voi Hộ Tài thấy năm sư tử.
Cólúc ta sai thần Kim Cương khủng bố ngoại đạo Tát Giá NiKiền Tử.
Ngàykia ta cũng lấy kim đâm thân của quỉ Tiển Mao.
Dầuta làm những việc như vậy nhưng cũng chẳng làm cho các quỉthần kia đến phải chết. Chỉ vì muốn khiến họ an trụnơi chánh pháp nên thị hiện những phương tiện như vậy.
NầyThiện nam tử ! Trước kia thiệt ra đức Phật chẳng mắngnhục Đề Bà Đạt Đa. Còn Đề Bà Đạt Đa cũng chẳng ngusi ăn nước miếng của người, cùng chẳng đọa A Tỳ địangục thọ tội một kiếp, cũng chẳng phá hoại chúng Tăng,chẳng làm thân Phật ra máu, Đề Bà Đạt Đa cũng chẳng tráiphạm bốn tội nặng, chẳng hủy báng kinh điển Đại Thừa,ông ấy chẳng phải nhứt xiển đề, chẳng phải Thanh Văncũng chẳng phải Bích Chi Phật.
NầyThiện nam tử ! Đề Bà Đạt Đa thiệt chẳng phải cảnh giớiThanh Văn, Duyên Giác. Duy chư Phật thấy biết được thôi.
NầyThiện nam tử ! Vì thế nên nay ông chẳng nên gạn rằng :“ Cớ gì đức Như Lai quở trách mắng nhiếc làm nhục ĐềBà Đạt Đa. Đối với cảnh giới của chư Phật, ông chẳngnên có lòng nghi như vậy.”
CaDiếp Bồ Tát bạch Phật : “ Thế Tôn ! Như mía nấu nhiềulần thời đặng nhiều thứ vị. Tôi cũng như vậy, nghe Phậtnói pháp nhiều lần đặng nhiều pháp vị. Chính là nhữngvị : Xuất gia vị, ly dục vị, tịch diệt vị, đạo vị.Thế-Tôn ! Như vàng ròng đốt đập nhiều lần càng thêm sángsạch, giá trị vô lượng, được trời người quí trọng.Đức Như-Lai cũng vậy, trân trọng thưa hỏi liền đặng nghethấy nghĩa rất sâu vi diệu, khiến người tu hành phụng tuthọ trì vô lượng chúng sanh phát tâm vô thượng bồ đề.Do đó đức Phật được trời người tôn trọng cung kínhcúng dường.
ĐứcPhật tán thán Ca Diếp Bồ Tát : “ Lành thay ! Lành thay! Đại Bồ tát vì muốn lợi ích chúng sanh nên thưa hỏi đứcNhư Lai những nghĩa sâu như vậy. Do nghĩa nầy ta tùy theo ýcủa ông mà nói pháp Đại Thừa Phương Đẳng rất sâu, bímật, tức là bậc rất yêu thương như con một.”
CaDiếp Bồ Tát bạch Phật : “ Thế Tôn ! Nếu Bồ Tát tu tâmtừ, bi , hỷ, đặng bậc con một, lúc tu tâm xả thời dặngbực gì ?
Phậtnói : “ Lành thay ! Lành thay ! Ông khéo biết thời, biết tamuốn nói nên ông thưa hỏi.
NầyThiện nam tử ! Đại Bồ Tát lúc tu tâm xả thời đặng bậcbình đẳng không như ông Tu Bồ Đề. Đại Bồ Tát trụ bậcbình đẳng không, thời chẳng thấy có cha mẹ, anh em, chịem, họ hàng quyến thuộc, oán thù kẻ không thân không oánnhẫn đến chẳng thấy : Ấm, giới, nhập, chúng sanh thọmạng. Ví như hư không, không có cha me, anh em, vợ con, nhẫnđến không có chúng sanh thọ mạng, tất cả các pháp cũngkhông có cha mẹ nhẫn đến thọ mạng.
ĐạiBồ Tát thấy tất cả pháp cũng như vậy, tâm của Bồ Tátbình đẳng như hư không, vì Bồ Tát khéo tu tập những phápkhông”.
CaDiếp Bồ Tát bạch Phật : Thế Tôn ! Sao gọi là không ?
_ NầyThiện nam tử ! Nói là không có nội không, ngoại không, nộingoại không, hữu vi không, vô vi không, vô thỉ không, tánhkhông, vô sở hữu không, đệ nhất nghĩa không, không không,đại không.
ĐạiBồ Tát quán n ội không như thế nào ? Đại Bồ Tát nầyquán nội pháp là không, chính là không cha mẹ, kẻ oán, ngườithân, không oán, không thân, chúng sanh, thọ mạng, thường,lạc, ngã, tịnh, Như Lai, Pháp , Tăng, tài vật. Trong nội phápnầy dầu có Phật tánh, nhưng Phật tánh nầy chẳng phảinội chẳng phải ngoại. Vì Phật tánh thường trụ không biếnđổi. Đây gọi là Đại Bồ Tát quán nơi nội không.
Ngoạikhông cũng như vậy không có ngoại pháp.
Nộingoại không cũng như vậy.
NầyThiện nam tử ! Chỉ có Như Lai, Pháp, Tăng, Phật tánh, chẳngở nơi phạm vi hai thứ không. Vì bốn pháp như vậy là thường,lạc, ngã, tịnh, nên chẳng gọi là không. Đây gọi là nộivà ngoại đều không.
NầyThiện nam tử ! Hữu vi không là các pháp hữu vi thảy đềukhông. Chính là nội không, ngoại không, nội ngoại không,thường, lạc, ngã, tịnh không, chúng sanh thọ mạng Như Laipháp, Tăng, đệ nhứt nghĩa không. Trong đây Phật tánh chẳngphải pháp hữu vi, nên Phật tánh chẳng phải là pháp hữuvi không. Trên đây gọi là hữu vi không .
NầyThiện nam tử ! Đại Bồ Tát quán vô vi không như thế nào? Pháp vô vi thảy đều là không tức là vô thường, khổ,bất tịnh, vô ngã, ấm, giới, nhập , chúng sanh, thọ mạng,hữu vi, hữu lậu, nội pháp, ngoại pháp. Trong pháp vô vi Phật,Pháp v.v… bốn pháp đều chẳng phải hữu vi chẳng phảivô vi : Vì là thiện nên chẳng phải vô vi, vì tánh thườngtrụ nên chẳng phải hữu vi. Đây gọi là Bồ Tát quán vôvi không.
Thếnào là Bồ Tát quán vô thỉ không ? Đại Bồ Tát thấy sanhtử vô thỉ thảy đều
khôngtịch gọi là không, đó tức là thường, lạc, ngã, tịnh,thảy đều không tịch chẳng có biến đổi. Chúng sanh thọmạng Tam Bảo, Phật tánh và vô vi pháp cũng như vậy. Đâygọi là quán vô thỉ không.
ĐạiBồ Tát quán nơi tánh không thế nào ? Đại Bồ tát nầy quántất cả pháp bổn tánh đều không: Ấm, giới, nhập, thường,vô thường, khổ, lạc, tịnh, bất tịnh, ngã, vô ngã. Tấtcả pháp đều chẳng thấy bổn tánh, đây gọi là quán nơitánh không.
ĐạiBồ Tát quán vô sở hữu không như thế nào ? Như người khôngcon nói nhà cửa trống không, rốt ráo quán không chẳng cóthân yêu. Người ngu si thời gọi là các phương không. Ngườinghèo cùng thời gọi là tất cả không. Những kiến chấpnhư vậy, hoặc không hoặc chẳng phải không. Lúc Bồ Tátquán sát như người nghèo cùng tất cả đều không. Đây gọilà Bồ Tát quán vô sở hữu không.
ĐạiBồ Tát quán đệ nhất nghĩa không như thế nào ? Bồ Tátlúc quán đệ nhất nghĩa, nhãn căn nầy lúc sanh ra không từđâu lại, lúc nó diệt mất cũng không đi đến đâu, trướckhông, nay có, có rồi trở lại không suy thật tánh của nókhông nhãn căn không chủ tể. Như nhãn căn vô tánh, tất cảpháp cũng như vậy. Những gì gọi là đệ nhứt nghĩa không? Có nghiệp có báo, chẳng thấy tác giả, pháp không như vậygọi là đệ nhứt nghĩa không. Đây gọi là quán đệ nhứtnghĩa không.
ĐạiBồ Tát quán không không như thế nào ? Trong không không nầylà chỗ mê mờ của Thanh Văn và Bích chi Phật.
NầyThiện nam tử ! Là có, là không, đây gọi là không không.Là phải là chẳng phải đây gọi là không không.
NầyThiện nam tử ! Bực Thập trụ Bồ Tát còn ở trong đây thôngđạt phần ít như vi trần, huống là những người khác, khôngkhông như vậy cũng chẳng đồng không không Tam Muội củaThanh Văn chứng đặng. Đây gọi là Bồ Tát quán nơi khôngkhông.
ĐạiBồ Tát quán Đại Không thế nào? Đại Không tức là BátNhã Ba La Mật.
NầyThiện nam tử ! Đại Bồ Tát đặng pháp môn Không như vậythời đặng trụ nơi bậc hư không đặng.
NầyThiện nam tử ! Nay đức Phật ở trong đại chúng nầy lúcnói những nghĩa không như vậy, có mười hằng hà sa Bồ Tátliền đặng trụ nơi bậc hư không đẳng.
NầyThiện nam tử ! Đại Bồ Tát trụ nơi bậc nầy ở trong tấtcả pháp không bị trở ngại, không bị ràng buộc câu chấp,tâm không mê muội. Do nghĩa nầy nên gọi là bậc hư khôngđẳng.
NầyThiện nam tử ! Ví như hư không đối sắc đáng ưa chẳngsanh tham đắm, đối với sắc chẳng ưa chẳng sanh giận hờn.Đại Bồ Tát trụ trong bực nầy cũng như vậy, đối vớisắc tốt xấu, tâm không tham không giận, ví như hư khôngrộng lớn tuyệt đối, có thể dung chứa tất cả vật. ĐạiBồ tát trụ trong bực nầy cũng như vậy, rộng lớn tuyệtđối đều có thể dung thọ tất cả pháp. Do nghĩa nên đặnggọi là bậc hư không đẳng.
NầyThiện nam tử ! Đại Bồ Tát trụ trong bậc nầy đối vớitất cả pháp cũng thấy cũng biết, là hành, là duyên, làtánh, là tướng, là nhơn, là duyên, là chúng sanh tâm, là căn,là thiền định, là thừa, là thiện tri thức, là trìcấm giới, là vật bố thí, những pháp như vậy tất cảđều biết đều thấy.
NầyThiện nam tử ! Đại Bồ Tát trụ trong bực nầy biết màchẳng thấy. Thế nào là biết ? Biết tự nhịn đói, gieoxuống vực, nhảy vào lửa tự té từ ngọn núi cao, thườngco một chân, năm thứ nóng đốt thân, thường nằm trên tro,trên đất, trên gai góc, trên lá cây, cỏ cứng, trên phânbò, mặc y phục bằng gai thô của người vất bỏ trong gòmã, áo lông phấn tảo, áo khâm bà la, da nai, da huơu, áo quầnbằng cỏ, ăn rau, ăn trái, ăn ngó, ăn cũ, xác dầu, phân bò.Nếu đi khất thực hạn định từ nhà, gia chủ nếu nói rằngkhông liền bỏ đi, dầu kêu trở lại cũng chẳng ngó ngoáilại. Chẳng ăn muối ăn thịt, cùng năm thứ sữa lạt, tô,v.v… Thường uống nước cám trấu, nước sôi. Thọ trì ngưugiới, kê giới, cẩu giới, trỉ giới. Lấy tro trét trên mình,để tóc dài làm tướng. Lúc dùng dê để cúng tế trướcchú nguyện rồi sau giết thịt. Bốn tháng thờ lửa, ngàybảy hớp gió. Trăm ngàn ức thứ hoa cúng dường chưThiên. Muốn nhơn những việc trên đây để được thành tựuchỗ mong cầu. Những phương pháp trên đây không bao giờ cóthể làm nhơn giải thoát được. Đây gọi là biết.
Thếnào là chẳng thấy ? Đại Bồ Tát chẳng thấy môt ngườinào thật hành phương pháp như vậy mà đặng chánh giải thoát.Đây gọi là chẳng thấy.
NầyThiện nam tử ! Đại Bồ Tát cũng thấy cũng biết. Nhữnggì là thấy ? Thấy các chúng sanh thật hành tà pháp ấy quyếtđọa địa ngục đây gọi là thấy.
Thếnào là biết ? Biết các chúng sanh từ địa ngục ra, sanh trongloài người nếu có thể tu hành Đàn Ba La Mật nhẫn đếnđầy đủ các môn Ba La Mật người nầy quyết đặng támmôn chánh giải thoát. Đây gọi là biết.
NầyThiện nam tử ! Đại Bồ Tát lại có cũng thấy cũng biết.Thế nào là thấy? Thấy thường, vô thường, khổ, lạc,tịnh, bất tịnh, ngã, vô ngã, đây gọi là thấy. Thế nàolà biết ? Biết các đức Như Lai quyết định chẳng rốtráo nhập Niết Bàn, biết thân Như Lai là kim cang khônghư hoại, chẳng phải là thân do phiền não mà thành, lạichẳng phải hôi nhơ hư rã. Cũng lại có thể biết tất cảchúng sanh đều có Phật tánh. Đây gọi là biết.
NầyThiện nam tử ! Đại Bồ Tát lại có cũng biết cũng thấy.Thế nào là biết ? Biết chúng sanh nầy tín tâm thành tựu,biết chúng sanh nầy cầu pháp Đại thừa, người nầy thuầnlưu, người nầy nghịch lưu, người nầy chánh trụ, biếtchúng sanh nầy đã đến bờ kia.
Ngườithuận lưu là nói hạng phàm phu. Người nghịch lưu là từbậc Tu Đà Hoàn nhẫn đến Duyên Giác. Người chánh trụ lànói các bậc Bồ Tát. Người đến bờ kialà nói các đứcNhư Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri. Đây gọi là biết.
Thếnào là thấy ? Đại Bồ Tát trụ nơi kinh điển Đại ThừaĐại Niết Bàn tu phạm hạnh dùng thiên nhãn thanh tịnh thấycác chúng sanh ba nghiệp thân, khẩu, ý tạo điều ác đọanơi địa ngục,súc sanh, ngạ quỉ. Thấy các chúng sanh tu nghiệplành sau khi chết sẽ sanh trên trời hay trong loài người. Nhữngchúng sanh nầy từ tối tăm vào tối tăm. Có những chúng sanhtừ tối tăm vào sáng suốt. Có những cbúng sanh từ sáng suốtvào tối tăm. Có những chúng sanh từ sáng suốt vào sáng suốt.Đây gọi là thấy.
NầyThiện nam tử ! Đại Bồ Tát lại có cũng biết cũng thấy.Đại Bồ Tát biết các chúng sanh tu thân, tu giới, tu tâm,tu huệ. Người nầy đời nay thành tựu nghiệp ác, hoặc nhơntham dục, sân khuể, ngu si nghiệp nầy ắt phải thọ báo nơiđịa ngục, người nầy do tu thân, tu giới, tu tâm, tu huệ,nên hiện đời thọ quả báo nhẹ chẳng đọa địa ngục.Nghiệp nầy thế nào có thể đặng báo hiện tại? Phát lồsám hối những tội ác đã làm đã ăn năn chừa cải vềsau chẳng dám tái phạm. Vì hổ thẹn, vì cúng dường tam bảo,vì thường trụ quở trách, người nầy do nhơn duyên nghiệplành đây nên chẳng đọa địa ngục. Hiện đời thọ quảbáo là nhức đầu, đau mắt, đau bụng, đau lưng, chết vìhọan nạn, bị mắng nhiếc làm nhục, bị đánh đập tróinhốt, bị đói khát khốn khổ, những việc như vậy là hiệnđời thọ quả báo nhẹ. Đây gọi là biết.
Thếnào là thấy ? Đại Bồ Tát thấy người như vậy chẳng cóthể tu tập thân, giới tâm, huệ, tạo chút ít nghiệpác. Nhơn duyên của nghiệp nầy đáng lẽ hiện đời thọquả báo. Người nầy tạo chút ít nghiệp ác chẳng có thểsám hối, chẳng tự quở trách, chẳng sanh lòng hổ thẹn,chẳng sợ sệt, nghiệp ác nầy tăng trưởng nên thọ quảbáo nơi địa ngục. Đây gọi là thấy.
Lạicó biết mà chẳng thấy. Thế nào là biết ? Biết tất cảchúng sanh đều có Phật tánh, vì phiền não che đậy nênchẳng thể thấy. Đây gọi là biết mà chẳng thấy.
Lạicó biết mà thấy chút ít. Bậc thập trụ Bồ Tát biết tấtcả chúng sanh đều có Phật tánh, thấy chẳng được rõ ràngdường như đêm tối thấy vật chẳng rõ.
Lạicó cũng thấy cũng biết, chính là chư Phật Như Lai cũng thấycũng biết.
Lạicó cũng thấy cũng biết, chẳng thấy chẳng biết. Cũng thấycũng biết là : Trong thế gian những văn tự, ngôn ngữ, nam,nữ, xe cộ, bình chậu, nhà cửa, thành ấp, áo xiêm, uốngăn, núi sông, vườn rừng, chúng sanh, thọ mạng. Đây gọilà cũng biết cũng thấy.
Thếnào là chẳng thấy chẳng biết ? Thánh nhơn chỗ có nói ralời vi mật, không có nam nữ nhẫn đến vườn rừng. Đâygọi là chẳng thấy chẳng biết.
Lạicó biết mà chẳng thấy : Biết vật bố thí, biết chỗ cúngdường, biết người lãnh thọ, biết nhơn quả. Đây gọilà biết. Chẳng thấy đồ bố thí, chỗ cúng dường, ngườithọ nhẫn đến quả báo. Đây gọi là chẳng thấy.
ĐạiBồ Tát biết có tám thứ, chính là ngũ nhãn của đức NhưLai chỗ biết.
CaDiếp Bồ Tát bạch Phật : “ Thế Tôn ! Đại Bồ Tát cóthể biết như vậy thời đặng những lợi ích gì ?
NầyThiện nam tử ! Đại Bồ Tát có thể biết như vậy thờiđặng bốn vô ngại. Pháp vô ngại, nghĩa vô ngại, từ vôngại, nhạo thuyết vô ngại. Pháp vô ngại là biết tất cảpháp và danh tự của pháp. Nghĩa vô ngại là : Biết nhữngnghĩa của tất cả pháp, có thể tùy theo danh tự đã đặtcho các pháp mà giải nghĩa. Từ vô ngại là giảng luận tùytheo danh tự, giảng luận theo chánh âm, giảng luận về phápcú, giảng luận về thế biện. Nhạo thuyết vô ngạilà : Đại Bồ Tát khi diễn thuyết không có chướng ngại,không ai động chuyển được, không có sợ sệt, khó có aitồi phục được.
NầyThiện nam tử ! Đây gọi là Bồ Tát có thể thấyvà biết như vậy, bèn đặng bốn trí vô ngại như thế.
Lạinầy Thiện nam tử ! Pháp vô ngại là : Đại Bồ Tát biếtkhắp những pháp Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, chư Phật.Nghĩa vô ngại là thừa, dầu có ba, nhưng biết quy về một,trọn chẳng cho rằng có tướng sai biệt hẳn. Từ vô ngạilà : Đại Bồ Tát ở trong một pháp đặt thành nhiều thứtên, trãi vô lượng kiếp nói chẳng hết, hàng Thanh Văn, DuyênGiác, không thể nói như vậy được. Nhạo thuyết vô ngạilà : Đại Bồ Tát trong vô lượng kiếp vì các chúng sanh diễnthuyết các pháp : Hoặc danh hoặc nghĩa, nhiều loại giảngthuyết khác nhau chẳng thể cùng tận.
Lạinầy Thiện nam tử ! Pháp vô ngại : Là Đại Bồ Tát dầubiết các pháp nhưng chẳng chấp lấy. Nghĩa vô ngạilà : Đại Bồ Tát dầu biết những nghĩa nhưng cũng chẳngchấp. Từ vô ngại là Đại Bồ Tát dầu biết danh tự cũngchẳng chấp lấy. Nhạo thuyết vô ngại là Đại Bồ tát dầubiết nhạo thuyết tối thượng như vậy nhưng cũng chẳngchấp. Vì cớ sao chẳng chấp ? Vì nếu chấp lấy thời chẳnggọi là Bồ Tát.
CaDiếp Bồ Tát bạch Phật : “ Thế Tôn ! Nếu chẳng chấplấy thời chẳng biết pháp, nếu biết pháp thời là chấplấy, nếu biết mà chẳng chấp lấy thời là không chỗ biết,thế sao đức Như Lai nói rằng : Biết pháp mà chẳng chấplấy ? Phật nói : Nầy Thiện nam tử ! Luận về người chấplấy thời chẳng gọi là vô ngại. Người không chấp lấymới gọi là vô ngại. Thế nên tất cả Bồ Tát nếu có chấplấy thời không vô ngại, nếu không vô ngại thời chẳnggọi là Bồ Tát. Nên biết người ấy gọi là phàm phu. Tạisao chấp lấy gọi là phàm phu ? Vì tất cả phàm phu chấplấy nơi sắc, thinh, nhẫn đến chấp lấy thức. Vì chấplấy sắc thời sanh tâm tham, vì sanh tâm tham nên bị sắc ràngbuộc, nhẫn đến bị thức ràng buộc. Do bị ràng buộc nênchẳng đặng thoát khỏi sanh, già, bịnh, chết, ưu, bi, khổnão. Thế nên chấp lấy gọi là phàm phu. Do nghĩa nầy nêntất cả phàm phu không có bốn vô ngại.
NầyThiện nam tử ! Đại Bồ Tát đã ở nơi vô lượng atăng kỳ kiếp biết và thấy pháp tướng. Do biết thấy nênbiết nghĩa. Do thấy pháp tướng và biết nghĩa nên ở trongsắc v.v… chẳng sanh lòng chấp lấy, nhẫn đến trong thứccũng lại như vậy. Do chẳng chấp lấy, Bồ Tát đối vớisắc chẳng sanh lòng tham, nhẫn đến nơi thức cũng chẳngsanh lòng tham. Do không tham nên chẳng bị sắc ràng buộc, nhẫnđến chẳng bị thác ràng buộc. Bởi chẳng ràng buộc thờiđặng thoát khỏi sanh, già, bịnh, chết, ưu , bi, khổ não.Do nghĩa nầy nên tất cả Bồ Tát đặng bốn vô ngại.
NầyThiện nam tử ! Do nhân duyên nầy trong mười hai bộ kinh, đứcPhật vì hàng đệ tử nói chấp lấy gọi là bị ma trói buộc.Nếu chẳng chấp lấy thời thoát khỏi sự trói buộc củama. Ví như trong đời, người có tội bị vua bắt trói, ngườikhông tội nhà vua không bắt. Đại Bồ Tát cũng như vậy :Người chấp lấy thời bị ma ràng buộc, người không chấplấy thời ma không ràng buộc được. Do nghĩa nầy nên ĐạiBồ Tát không có chấp lấy.
NầyThiện nam tử ! Pháp vô ngại là : Đại Bồ Tát khéo biếtdanh tự giữ lấy chẳng quên, nói giữ lấy là như đất,núi, như con mắt, như đám mây, như người, như mẹ, tấtcả các pháp cũng lại như vậy, nghĩa vô ngại là : Bồ Tátchẳng biết danh tự của các pháp cũng biết nơi nghĩa. Biếtnghĩa thế nào ? Như đất khắp giữ lấy tất cả chúng sanh,và phi chúng sanh, do nghĩa nầy nên gọi là đất giữ lấy.Bồ Tát lại suy nghĩ núi có thể giữ lấy đất làm cho vữngvàng không nghiêng động nên gọi là núi giữ lấy. Con mắtcó thể giữ lấy ánh sáng. Mây gọi là hơi của rồng, hơicủa rồng giữ lấy nước cho nên gọi là mây giữ lấy. Ngườicó thể giữ lấy pháp và phi pháp. Mẹ có thể giữ lấy con.Đại Bồ Tát biết danh tự cú nghĩa của tất cả pháp cũngnhư vậy.
Từvô ngại là : Đại Bồ Tát dùng các thứ ngôn từ diễn nóimột nghĩa, cũng không có nghĩa. Như những danh từ nam nữ,nhà cửa, xe cộ, chúng sanh v.v… Cớ sao là vô nghĩa ? Luậnvề nghĩa là cảnh giới của Phật của Bồ Tát, ngôn từlà cảnh giới của phàm phu. Do biết nghĩa nên đặng từ vôngại.
Nhạothuyết vô ngại là Đại Bồ Tát biết từ, biết nghĩa, nêntrong vô lượng a tăng kỳ kiếp thuyết từ, thuyết nghĩa,chẳng cùng tận. Đây gọi là nhạo thuyết vô ngại.
NầyThiện nam tử ! Đại Bồ Tát trong vô lượng vô biên a tăngkỳ kiếp tu hành thế đế, do sự tu hành nầy biết pháp vôngại. Lại trong vô lượng a tăng kỳ kiếp tu đệ nhất nghĩađế nên đặng nghĩa vô ngại. Lại vô lượng a tăng kỳ kiếptập học luận Tỳ Dà La Na nên đặng từ vô ngại. Cũng ởtrong vô lượng a tăng kỳ kiếp tu tập luận thuyết về thếđế, nên đặng nhạo thuyết vô ngại. Hàng Thinh Văn DuyênGiác không đặng bốn vô ngại như vậy.
NầyThiện nam tử ! Trong chín bộ kinh, đức Phật nói Thanh Vănvà Duyên Giác có bốn vô ngại, nhưng Thanh Văn Duyên Giác thậtkhông có. Tại vì sao ? Vì Đại Bồ Tát nhơn độ chúng sanhnên tu tập bốn trí vô ngại như vậy. Hàng Duyên Giác tu pháptịch diệt chỉ ưa ở một mình, nếu hoá độ chúng sanh chỉhiện thần thông, trọn ngày nín lặng không thuyết pháp làmsao có được bốn trí vô ngại. Cớ sao nín lặng mà khôngthuyết pháp ? Hàng Duyên Giác chẳng thể thuyết pháp độngười khiến đặng pháp noãn, pháp đảnh, pháp nhẫn, phápthế đệ nhất, Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm, A Lahán, Bích Chi Phật, Bồ Tát, chẳng thể khiến người pháttâm vô thượng Bồ Đề.
NầyThiện nam tử ! Hàng Duyên Giác ra đời trong thế gian khôngcó chín bộ kinh, vì thế nên Duyên Giác không có từ vô ngạivà nhạo thuyết vô ngại. Hàng Duyên Giác dầu biết các phápnhưng không được pháp vô ngại. Vì pháp vô ngại gọi làbiết văn tự. Hàng Duyên Giác dầu biết văn tự nhưng khôngđược văn tự vô ngại. Vì chẳng biết hai chữ : “ ThườngTrụ”. Thế nên hàng Duyên Giác chẳng đặng pháp vô ngại.Hàng Duyên Gác dầu biết nơi nghĩa nhưng không được nghĩavô ngại.
Ngườithật biết nghĩa thời biết chúng sanh đều có Phật tánh.Nghĩa Phật tánh gọi là vô thượng chánh đẳng chánh giác.Do nghĩa nầy nên hàng Duyên Giác chẳng đặng nghĩa vô ngại,thế nên tất cả hàng Duyên Giác không có bốn trí vô ngại.
Thếnào là hàng Thanh Văn không có bốn trí vô ngại ? Hàng ThanhVăn không có ba thứ thiện xảo phương tiện; một là quyếtcần phải lời nói dịu dàng rồi sao mới lãnh thọ giáopháp, hai là quyết phải lời nói thô rồi sao mới lãnh thọsự giáo hóa, ba là lời nói chẳng dịu dàng chẳng thô rồisau mới lãnh thọ sự giáo hóa. Vì hàng Thanh Văn không cóba phương tiện nầy nên không có bốn trí vô ngại. Lại hàngThanh Văn Duyên Giác chẳng có thể biết lời, biết nghĩa rốtráo, không có trí tự tại, hiểu rõ nơi cảnh giới, khôngcó mười trí lực, bốn vô sở úy chẳng có thể rốt ráora khỏi sông lớn mười hai nhân duyên, chẳng có thể khéobiết những căn tánh lợi độn sai khác của chúng sanh, chưacó thể dứt hẳn lòng nghi đối với hai đế lý, chẳng biếtcác thứ cảnh giới sở duyên nơi tâm của chúng sanh, chẳngcó thể khéo nói đệ nhất nghĩa không, thế nên hàng nhịthừa không có bốn trí vô ngại.
CaDiếp Bồ Tát bạch Phật : “Thế Tôn ! Nếu tất cả hàngThanh Văn Duyên Giác đều không có bốn trí vô ngại, tạisao đức Thế Tôn lại nói Xá Lợi Phất là trí huệ đệnhất. Đại Mục Kiền Liên là thần thông đệ nhất, Ma HaCâu Si La là tứ vô ngại đệ nhất. Nếu các ngài đó làkhông có bốn trí vô ngại, sao đức Như Lai tuyên bố nhữnglời như vậy.
ĐứcPhật khen ngợi Ca Diếp Bồ Tát : “ Lành thay ! Lành thay !Nầy Thiện nam tử ! Ví như sông Hằng có nước nhiều vôlượng, sông lớn Tân Đầu cũng có nước vô lượng, sônglớn Bác Xoa cũng có nước vô lượng, sông lớn Tất Đà cũngcó nước vô lượng, ao A Nậu Đạt cũng có nước vô lượng,trong đại hải nước cũng vô lượng. Các con sông lớn aoA Nậu cùng đại hải dầu đồng có nước nhiều vô lượng,nhưng thatä ra nhiếu ít chẳng đồng nhau. Bốùn trí vô ngạicủa hàng Thanh Văn, Duyên Giác cùng các bậc Đại Bồ Tátvốn cũng như vậy, nếu gọi là đồng nhau thời không đúng.
NầyThiện nam tử ! Ta vì phàm phu mà nói Ma Ha Câu Si La bốn trívô ngại đệ nhất. Ý nghĩa lời hỏi của ông là như vậy.
NầyThiện nam tử ! Hàng Thanh Văn hoặc có vị đặng một trívô ngại , hoặc có vị đặng hai, không có vị nào có đủđược bốn.
CaDiếp Bồ Tát bạch Phật : “ Thế Tôn ! Như trong phẩm PhạmHạnh, đức Phật đã nói sự tri kiến của Bồ tát đặngbốn trí vô ngại. Tri kiến của Bồ Tát thời là vô sở đắccũng không có tâm niệm cho rằng Vô Sở Đắc. Thế Tôn ! ĐạiBồ Tát nầy thật vô sở đắc. Nếu giả sử tâm niệm BồTát có sở đắc thời chẳng phải là Bồ Tát, nên gọi làphàm phu. Đức Như Lai sao lại nói Bồ Tát mà có sở đắc?
_ NầyThiện nam tử ! Lành thay ! Lành thay ! Ta sắp sửa nói mà ônglại hỏi. Đại Bồ Tát thật vô sở đắc, vô sở đắc gọilà bốn trí vô ngại.
NầyThiện nam tử ! Do nghĩa gì vô sở đắc gọi là bốn trí vôngại. Nếu có sở đắc thời gọi là ngại. Có chướng ngạigọi là bốn thứ điên đảo.
NầyThiện nam tử ! Đại Bồ tát vì không bốn thứ điên đảonên đặng vô ngại. Thế nên Bồ Tát gọi là vô sở đắc.
Lạinầy Thiện nam tử ! Vô sở đắc thời gọi là huệ. ĐạiBồ Tát đặng huệ nầy nên gọi là vô sở đắc. Có sởđắc gọi là vô minh. Bồ Tát dứt hẳn vô minh tối tăm nênvô sở đắc. Vì thế nên Bồ Tát gọi là vô sở đắc.
Lạinầy Thiện nam tử ! Vô Sở Đắc gọi là Đại Niết bàn.Bồ Tát an trụ trong Đại Niết Bàn như vậy, chẳng thấytánh tướng của tất cả pháp vì thế nên Bồ Tát gọi làvô sở đắc. Có sở đắc gọi là hai mươi lăm cõi, Bồ Tátdứt hẳn hai mươi lăm cõi đặng Đại Niết Bàn. Vì thếnên Bồ Tát gọi là vô sở đắc.
Lạinầy Thiện nam tử !Vô sở đắc gọi là Đại Thừa, ĐạiBồ Tát chẳng trụ nơi các pháp nên đặng Đại Thừa. Vìthế nên Bồ Tát gọi là vô sở đắc.
Cósở đắc gọi là đạo Thanh Văn, Bích Chi Phật. Bồ Tát dứthẳn đạo Nhị Thừa nên đặng Phật đạo. Vì thế nên BồTát gọi là vô sở đắc.
Lạinầy Thiện nam tử ! Vô sở đắc gọi là kinh Phương Đẳng.Bồ Tát đọc tụng kinh như vậy nên đặng Niết Bàn. Vì thếnên Bồ Tát gọi là vô sở đắc.
Cósở đắc gọi là mười một bộ kinh. Bồ Tát tu tập kinhđiển thuần giảng thuyết Phương đẳng Đại Thừa. Vì thếnên gọi là Bồ Tát Vô Sở Đắc.
Lạinầy Thiện nam tử ! Vô Sở Đắc gọi là hư không. Trong thếgian không có vật gọi là hư không. Bồ Tát đặng hư khôngtam muội nầy thời không chổ thấy. Vì thế nên Bồ Tát gọilà Vô Sở Đắc.
CóSở Đắc gọi là luân hồi sanh tử. Tất cả phàm phu luânhồi sanh tử nên có chổ thấy. Bồ Tát dứt hẳn tấtcả sanh tử nên gọi Bồ Tát là Vô Sở Đắc. Lại nầy Thiệnnam tử !Vô Sở Đắc của Đại Bồ Tát gọi là thường, lạc,ngã, tịnh, vì Đại Bồ Tát thấy Phật tánh nên đặng thường,lạc, ngã, tịnh. Do đó nên gọi Bồ Tát là Vô Sở Đắc.
CóSở Đắc gọi là vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh. ĐạiBồ Tát dứt bốn thứ nầy nên gọi Bồ Tát là Vô Sở Đắc.
Lạinầy Thiện nam tử ! Vô Sở Đắc gọi là Đệ Nhất NghĩaKhông. Đại Bồ Tát quán Đệ Nhất Nghĩa Không đều khôngchỗ thấy nên gọi Bồ Tát là Vô Sở Đắc.
CóSở Đắc gọi là năm sự thấy. Bồ Tát dứt hẳn năm sựthấy nầy nên chứng đặng đệ nhất nghĩa không, vì thếnên gọi Bồ Tát là Vô Sở Đắc.
Lạinầy Thiện nam tử !Vô Sở Đắc gọi là vô thượng chánhđẳng chánh giác. Đại Bồ Tát lúc đặng vô thượng chánhgiác đều không chỗ thấy nên gọi Bồ Tát là Vô Sở Đắc.
CóSở Đắc gọi là Thanh Văn Bồ Đề, Duyên Giác Bồ Đề, BồTát dứt hẳn Bồ Đề của Nhị thừa nên gọi Bồ Tát làVô Sở Đắc.
NầyThiện nam tử ! Lời hỏi của ông cũng Vô Sở Đắc. Lờinói của ta cũng Vô Sở Đắc. Nếu có Sở Đắc là quyếnthuộc của ma, chẳng phải đệ tử của Phật.
CaDiếp Bồ Tát bạch Phật : “ Thế Tôn ! Vì tôi lúc nói BồTát Vô Sở Đắc nầy, có vô lượng chúng sanh dứt tâm chấpcó tướng. Do việc nầy tôi dám thưa hỏi Vô Sở Đắc, làmcho vô lượng chúng sanh như vậy rời quyến thuộc ma làm đệtử Phật.”
CaDiếp Bồ Tát lại bạch Phật : “ Thế Tôn ! Đức Như Laivừa rồi ở rừng Ta La Song Thọ nầy vì Thuần Đà nóibài kệ :
Trướccó nay không.
Trướckhông nay có.
Bađời có pháp,
Khôngcó lẽ ấy.
_ NầyThiện nam tử ! Đức Phật vì hoá độ chúng sanh mà nói lờiấy, cũng vì hàng Thanh Văn Duyên Giác mà nói lời ấy, cũngvì Văn Thù Sư Lợi mà nói lời ấy, chẳng phải chỉ vì mộtmình Thuần Đà mà nói kệ ấy. Lúc đó Văn Thù Sư Lợi toanmuốn hỏi Phật. Phật biết tâm niệm của Văn Thù mà nóikệ ấy. Phật nói bài kệ ấy rồi thời Văn Thù Sư Lợiliền hiểu rõ.
CaDiếp Bồ Tát bạch Phật : “ Thế Tôn ! Như Văn Thù Sư Lợi,có được mấy người hiểu nghĩa ấy. Xin đức Như Laivì đại chúng lại phân biệt giảng rộng.
_ NầyThiện nam tử ! Lóng nghe ! Lóng nghe 1 Nay sẽ vì ông diễn giảilại.
Nóirằng trước có đó : Ngày trước ta vốn có vô lượng phiềnnão, do phiền não nên hiện tại không có Đại Niết Bàn.
Nóirằng trước không đó : Trước không bát nhã ba la mật, vìkhông bát nhã ba la mật nên hiện tại có đủ phiền não.Hoặc Sa Môn hay Bà La Môn, hoặc trời, hoặc ma, hoặc PhạmVương, hoặc người, không ai có thể nói đức Như Lai thuởquá khứ, vị lai, hay hiện tại có phiền não.
Lạinầy Thiện nam tử ! Nói rằng trước có đó : Ta trướccó thân hòa hiệp của cha mẹ sanh vì thế nên hiện tại khôngcó pháp thân kim cang vi diệu.
Nóirằng trước không đó : Thân ta vốn không ba mươi hai tướng,tám mươi thứ tốt, bởi trước không có tướng tốt nênhiện tại có đủ bốn trăm lẻ bốn thứ bịnh.
HoặcSa Môn hay Bà La Môn, hoặc trời hoặc ma, hoặc Phạm vươnghoặc người, không thể nói rằng đức Như Lai thuở quá khứ,vị lai, hiện tại có bệnh khổ đó.
Lạinầy Thiện nam tử ! Nói rằng trước có đó ta trước vốncó vô thường, vô ngã, vô lạc, vô tịnh. Bởi có vô thường,vô ngã, vô lạc, vô tịnh, nên hiện tại không có vô thườngbồ đề. Nói rằng trước không đó : Trước không thấy Phậttánh, vì chẳng thấy nên không có thường, lạc, ngã, tịnh,hoặc Sa Môn hay Bà La Môn hoặc trời hoặc ma, hoặc Phạm Vương,hoặc người, không thể nói rằng đức Như Lai thuở quá khứvị lai hiện tại không có thường, lạc, ngã, tịnh.
Lạinầy Thiện nam tử ! Nói rằng trước có đó, là trước cótâm niệm tu khổ hạnh của phàm phu cho rằng đặng vô thượngchánh giác, vì vậy nên hiện tại không thể phá hoại bốnthứ ma. Nói rằng trước không đó, ta trước không có sáumôn Ba La Mật, do trước không sáu môn Ba La Mật nên có tâmniệm tu, tu hành khổ hạnh của phàm phu cho rằng đặng vôthượng bồ đề. Hoặc Sa Môn hay Bà La Môn, hoặc trời, hoặcma, hoặc Phạm vương, không thể nói đức Như Lai thuở quákhứ vị lai, hiện tại có khổ hạnh.
Lạinầy Thiện nam tử ! Nói rằng trước có đó, ta xưa trướccó thân tạp thực nên hiện tại không thân vô biên. Nói rằngtrước không đó, trước không ba mươi bảy pháp trợ đạo,do không pháp trợ đạo nên hiện tại có thân tạp thực.Hoặc Sa Môn hay Bà La Môn, hoặc trời, hoặc ma, hoặc PhạmVương, hoặc người, nói rằng đức Như Lai thuở quákhứ vị lai hiện tại có thân tạp thực, thời khôngđúng.
Lạinầy Thiện nam tử ! Nói rằng trước có đó : Ta xưa trướccó tâm niệm chấp lấy tất cả pháp, vì thế nên hiện tạikhông có chánh định rốt ráo không. Nói rằng trước khôngđó : Ta trước không có thật nghĩa trung đạo, do không cóthật nghĩa trung đạo nên có tâm niệm chấp lấy tất cảpháp. Hoặc Sa Môn hay Bà La Môn, hoặc trời, hoặc ma, hoặcPhạm vương, hoặc người nói rằng đức Như Lai thuở quákhứ, vị lai, hiện tại nói tất cả pháp là có tướng, thờikhông đúng.
Lạinầy Thiện nam tử ! Nói rằng trước có đó, lúc ta mới đặngvô thượng bồ đề, có các đệ tử Thanh Văn căn độn, docó đệ tử Thanh văn căn độn nên không thể diễn nói đạonhứt thừa chơn thật. Nói rằng trước không đó : Trướckhông bậc lợi căn Tượng Vương trong loài người như Ca DiếpBồ Tát v.v… Bởi không hạng lợi căn nên đức Phật tùynghi phương tiện khai thị ba thừa. Nếu có Sa Môn hay Bà LaMôn, hoặc trời, hoặc ma, hoặc Phạm vương, hoặc người,nói rằng đức Như Lai thuở quá khứ vị lai, hiện tại rốtráo diễn thuyết pháp ba thừa, thời không đúng.
Lạinầy Thiện nam tử ! Nói rằng trước có đó : Ta trướcnói rằntg sau đây ba tháng nơi rừng Ta La Song Thọ, ta sẽnhập Niết Bàn. Vì thế nên hiện tại đây chẳng diễn thuyếtđược kinh Đại Thừa Đại Niết Bàn. Nói rằng trước khôngđó : Ngày trước không có Văn Thù Sư Lợi Đại Bồ Tát v.v…Vì không có nên hiện tại nói đức Như Lai vô thường. HoặcSa Môn hay Bà La Môn, hoặc Phạm Vương, hoặc người, hoặctrời, hoặc ma, nói rằng đức Như Lai thuở quá khứ, hiệntại là vô thường thời không đúng.
NầyThiện nam tử ! Đức Như Lai khắp vì chúng sanh nên dầu biếtrõ tất cả pháp mà nói là chẳng biết, dầu thấy mà nóichẳng thấy, Pháp có tướng nói rằng không tướng, pháp khôngtướng nói rằng có tướng. Thiệt có thường nói rằng vôthường, lạc, ngã, và tịnh cũng như vậy. Pháp tam thừa nóilà nhứt thừa, pháp nhứt thừa tùy nghi nói thành ba : Tướngdón gọn nói thành tướng rộng, tướng rộng nói thành tướngdón gọn. Bốn tội trọng nói là tội thâu lan giá, tội thâulan giá nói là bốn tội trọng. Phạm nói chẳng phải phạm,chẳng phải phạm nói là phạm. Tội khinh nói là trọng, tộitrọng nói là khinh. Tại sao vậy ? Vì đức Như Lai thấy rõcăn tánh của chúng sanh. Đức Như Lai dầu nói như vậy màtrọn không hư vọng. Vì lời hư vọng chính là tội lỗi.Đức Như Lai đã dứt hết tất cả tội lỗi, thời đâu còncó nói lời hư vọng.
NầyThiện nam tử ! Đức Như Lai dầu không lời hư vọng, nếubiết chúng sanh do nơi lời hư vọng mà đặng lợi ích đốivới chánh pháp, thời tùy nghi phương tiện vì họ mànói.
NầyThiện nam tử ! Tất cả thế đế đối với Như Lai tức làđệ nhất nghĩa đế. Chư Phật Thế Tôn vì đệ nhất nghĩađế mà nói thế đế, làm cho chúng sanh chứng đặng đệnhất nghĩa đế. Giả sử chúng sanh chẳng đặng đệ nhấtnghĩa đế như vậy, thời chư Phật trọn chẳng tuyên nóithế đế.
NầyThiện nam tử ! Đức Như Lai có lúc diễn nói thế đế, chúngsanh cho rằng Phật nói đệ nhất nghĩa đế. Đức Như Laicó lúc diễn nói đệ nhất nghĩa đế, chúng sanh cho rằngPhật nói thế đế. Nên cảnh giới rất sâu của chư Phậtchẳng phải hàng Thanh Văn Duyên Giác có thể biết được.
NầyThiện nam tử ! Vì thế nên ông chẳng nên gạn rằng : ĐạiBồ Tát là vô sở đắc. Bồ Tát thường chứng đặng đệnhất nghĩa đế, sao lại gạn rằng là vô sở đắc.