- 01. Phẩm Tự
- 02. Phẩm Thuần Đà
- 03. Phẩm Ai Thán
- 04. Phẩm Trường Thọ
- 05. Phẩm Kim Cang Thân
- 06. Phẩm Danh Tự Công Đức
- 07. Phẩm Tứ Tướng
- 08. Phẩm Tứ Y
- 09. Phẩm Tà Chánh
- 10. Phẩm Tứ Đế
- 11. Phẩm Tứ Đảo
- 12. Phẩm Như Lai Tánh
- 13. Phẩm Văn Tự
- 14. Phẩm Điểu Dụ
- 15. Phẩm Nguyệt Dụ
- 16. Phẩm Bồ Tát
- 17. Phẩm Đại Chúng Vấn
- 18. Phẩm Hiện Bịnh
- 19. Phẩm Thánh Hạnh
- 20. Phẩm Phạm Hạnh
- 21. Phẩm Anh Nhi Hạnh
- 22. Phẩm Quang Minh Biến Chiếu Cao Quý Đức Vương Bồ Tát
- 23. Phẩm Sư Tử Hống Bồ Tát
- 24. Phẩm Ca Diếp Bồ Tát
- 25. Phẩm Kiều Trần Như
- 26. Phẩm Di Giáo
- 27. Phẩm Ứng Tận Hườn Nguyên
- 28. Phẩm Trà Tỳ
- 29. Phẩm Cúng Dường Xá Lợi
DịchTừ Hán Sang Việt: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
TịnhXá Minh Ðăng Quang, Hoa Kỳ Xuất Bản 1990
PHẨMPHẠM HẠNH THỨ HAI MƯƠI
(Hánbộ trọn quyển 14, 15, 16, 17 và phần đầu quyển thứ 18)
NầyThiện nam tử ! Bồ-Tát-Ma-Ha-Tát tu phạm hạnh như thế nào? Bồ-Tát-Ma- Ha-Tát trụ nơi Đại-thừa Đại Niết Bàn,trụ bảy pháp lành thời phạm hạnh đầy đủ.
Bảypháp lành là: Một là biết pháp, hai là biết nghĩa, ba làbiết giờ, bốnlàbiết tri túc, năm là biết mình, sáu là biết chúng, bảy làbiết tôn ty.
Bồ-Tát-Ma-Ha-Tátnhư thế nào gọi là biết pháp. Nầy Thiện nam tử ! Bồ Tátnầy biết mười hai bộ kinh tức là Tu Đa La, Kỳ Dạ, ThọKý, Dà Đà, Ưu Đà Na, Ni Đà Na, A Ba Đà Na, Y Đế Mục ĐàNa, Xà Đà Dà, Tỳ Phật Lược, A Phù Đà Đạt Ma, ƯuBà Đề Xá.
Đâylà khế kinh Tu Đa La : Từ “như thị ngã văn nhẫn đếncâu hoan hỷ phụng hành” tất cả như vậy gọi là Tu ĐaLa kinh (trường hàng). Đây là Kỳ-dạ: Phật bảo các Tỳkheo ngày xưa ta cùng các ông ngu si không trí huệ, chẳng thểthấy bốn chơn đế đúng như thật, nên lưu chuyển mãi trongbiển khổ sanh tử. Bốn chơn đế là : Khổ Đế, Tập Đế,Diệt Đế, và Đạo Đế.
Ngàyxưa đức Phật vì các Tỳ Kheo nói khế kinh xong lại có hàngchúng sanh căn trí sáng tỏ, vì muốn nghe pháp nên đến chỗPhật hỏi mọi người rằng, đức Như Lai vừa rồi nói nhữngviệc gì ? Lúc đó Phật vì hàng chúng sanh ấy đem kinh vừagiảng nói thành kệ tụng:
Taxưa cùng các ông, Chẳng thấy bốn chơn đế, Nên phải lưuchuyển mãi, Trong biển khổ sanh tử, Nếu thấy được bốnđế, Thời dứt đặng sanh tử. Sanh tử đã hết rồi, Chẳngcòn thọ thân nữa.
Kệtụng trên đây gọi là Kỳ-Dạ kinh (trùng tụng).
Nhữnggì gọi là thọ ký ? Như có lúc đức Như Lai nói kinh hay luật,vì các hàng trời hay người mà thọ ký sẽ làm Phật. Nhưnói : “Đời sau có vua hiệu là Nhương Khư, ông A Dật Đasẽ ở cõi nầy thành bực chánh giác hiệu là Di Lặc Phật.Đây gọi là thọ ký kinh.
Nhữnggì gọi là Dà Đà? Trừ trường hàng và các giới luật,ngòai ra những bài kệ bốn câu như:
Cácđiều ác chớ làm, Phụng hành những điều lành, Lóng sạchtâm ý mình, Là lời dạy của Phật.
Trênđây gọi là Dà Đà kinh (kệ cô khởi).
Nhữnggì gọi là Ưu Đà Na? Như đức Phật lúc xế chiều nhậpthiền định, vì chư thiên giảng rộng các pháp yếu. Lúcđó các Tỳ- kheo đều nghĩ rằng : Giờ đây đức Như Laiđang làm việc gì ?
Sángngày sau, đức Như Lai xuất định, không ai hỏi, dùngtha tâm trí mà tự nói rằng : Nầy các Tỳ-kheo : Tất cảchư thiên thọ mạng rất dài. Lành thay ! Các Tỳ- kheo biếtvì người, chẳng cầu tư lợi, biết thiểu dục, biết tritúc, được tịch tịnh.
Nhữngkinh như trên đây không ai hỏi đức Phật tự giảng nói đógọi là Ưu Đà Na kinh (tự thuyết).
Nhữnggì là Ni Đà Na? Như trong các kinh do nhơn duyên Phật vì ngườikhác diễn nói. Lệ như : Trong nước Xá Vệ có một chàngtrai giăng lưới bắt chim, bắt đặng chim nhốt trong lồng,cho ăn lúa uống nước rồi lại thả đi. Đức Thế Tôn biếtnhơn duyên đó mà nói kệ rằng:
Chớkhinh tội nhỏ, Cho là không họa, Giọt nước dầu nhỏ, Lầnđầy lu lớn.
Nhưtrên đây gọi là Ni Đà Na kinh ( nhơn duyên).
Nhữnggì là A Ba Đà Na ? Như những thí dụ trong luật nói.
Nhữnggì là Y Đế Mục Đa Dà ! Lệ như đức Phật nói : Nầy cácTỳ-kheo ! Lúc ta xuất thế những điều ta dạy bảo gọi làgiới kinh. Lúc đức Câu Lưu Tôn Phật xuất thế lời Phậtdạy gọi là trống Cam-lồ . Lúc đức Phật Câu Na HàmMâu Ni xuất thế lời Phật dạy gọi là Pháp cảnh.
Lúcđức Phật Ca Diếp xuất thế lời Phật dạy gọi là Phânbiệt không.
Nhưtrên đây gọi là Y Đế Mục Đa Dà kinh ( bổn sự).
Nhữnggì là Xà Đà Dà ? Lệ như đức Phật xưa kia làm vị BồTát tu khổ hạnh. Như Phật nói : Nầy các Tỳ kheo ! Thuởquá khứ ta từng làm nai, làm gấu, làm cheo, làm thỏ, làmquốc vương, làm Chuyển Luân Thánh Vương, làm rồng, làm kimsúy điểu v.v… Như trên đây gọi là Xa Đà Dà kinh (bổnsanh).
Nhữnggì là Tỳ Phật Lược? Tức là những kinh điển thuộc vềĐại thừa Phương đẳng nghĩa lý rộng lớn dường như hưkhông (phương quảng).
Nhữnggì là vị tằng hữu? Lệ như lúc đức Bồ Tát mới sanhkhông ai đỡ dắt mà tự đi bảy bước, phóng quang minh lớnngó khắp mười phương. Lệ như con vượn tay bưng bát mậtdâng cúng đức Như Lai,. Lệ như chó cổ trắng đến bên Phậtnghe pháp. Lệ như ma vương Ba Tuần biến làm trâu xanhđi trong bát sành, làm cho các bát sành đụng chạm lẫn nhaumà không nứt bể. Lệ như Phật lúc mới sanh lúc vào thiênmiếulàm cho thiên tượng đứng dậy bước xuống đảnh lễ.
Nhữngđoạn kinh như trên đây gọi là Vị Tằng Hữu kinh.
Nhữnggì là Ưu Ba Đề Xá? Lệ như đức Phật lúc nói kinh hoặcluận nghĩa cùng phân biệt giảng rộng biện luận cáctướng mạo, đây gọi là Ưu Ba Đề Xá kinh (luận nghị).
BồTát nếu có thể rõ biết mười hai bộ kinh như vậy thờigọi là biết pháp.
BồTát Ma Ha Tát như thế nào gọi là biết nghĩa ? Nếu Bồ Tátở nơi tất cả văn tự ngữ ngôn biết rộng những ý nghĩathời gọi là biết nghĩa.
BốTát Ma Ha Tát thế nào là biết giờ ? Bồ Tát khéo biếttrong những giờ như vậy có thể tu tịch tịnh, trong nhữnggiờ như vậy có thể tu tinh tấn, trong những giờ như vậycó thể tu xả định, trong những giờ như vậy có thểcúng dường Phật, trong những giờ như vậy có thể cúng dườngSư trưởng, trong những giờ như vậy có thể tu hạnh bốthí, trì giới nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, đầy đủBát Nhã Ba La Mật. Như trên đây gọi là biết giờ.
BồTát Ma Ha Tát như thế nào gọi là tri túc?
BồTát biết đủ đối với những việc dưới đây: Uống ăn,y phục, thuốc men, đi, đứng, ngồi, nằm, ngủ, thức, nói,nín. Như trên đây gọi là tri túc.
BồTát Ma Ha Tát như thế nào gọi là biết mình ? Vị Bồ Tátnầy tự biết rằng ta có đức tin như vậy, có giới nhưvậy, có đa văn như vậy, có xả như vậy, có huệ như vậy,có đi đến như vậy, có chánh niệm như vậy, có hạnh lànhnhư vậy, hỏi như vậy, đáp như vậy, như trên đây gọilà biết mình.
BồTát Ma Ha Tát như thế nào gọi là biết người ? Bồ Tát nầybiết những người đây là hàng Sát Đế Lợi, là hàng BàLa Môn, là hàng Cư Sĩ, là hàng Sa Môn. Nên ở trong chúng nầyđi đến như vậy, ngồi đứng như vậy, thuyết pháp như vậy,hỏi đáp như vậy. Như trên đây gọi là biết người.
BồTát Ma Ha Tát thế nào gọi là biết người bực tôn bực ty? Người có hai hạng : Một là có tín tâm, hai là chẳng cótín tâm. Bồ Tát phải biết người có tín tâm thời là ngườilành, người chẳng có tín tâm thời chẳng gọi là ngườilành.
Ngườicó tín tâm lại có hai hạng: Một là người thường đếnchùa chiền, hai là người chẳng đến chùa, Bồ Tát phảibiết người đến chùa là lành, người chẳng đến chùa thờichẳng gọi là lành.
Ngườiđến chùa lại có hai hạng : Một là lễ bái, hai là chẳnglễ bái, Bồ Tát phải biết người lễ bái là lành, ngườichẳng lễ bái thời chẳng gọi là lành.
Ngườilễ bái lại có hai hạng : Một là nghe pháp, hai là chẳngnghe pháp. Bồ Tát phải biết người nghe pháp là lành, ngườichẳng nghe pháp thời chẳng gọi là lành.
Ngườinghe pháp lại có hai hạng : Một là hết lòng lóng nghe, hailà chẳng hết lòng. Bồ Tát phải biết người hết lòng nghethời gọi là lành, người chẳng hết lòng nghe thời chẳnggọi là lành.
Hếtlòng nghe pháp lại có hai hạng : Một là suy gẫm ý nghĩa,hai là chẳng suy gẫm ý nghĩa. Bồ Tát phải biết người gẫmnghĩa là lành, người chẳng gẫm nghĩa thời chẳng gọi làlành.
Ngườigẫm nghĩa lại có hai hạng : Một là đúng như lời nóithật hành, hai là chẳng thật hành đúng như lời nói. Ngườithật hành gọi là lành, người chẳng thật hành thời chẳnggọi là lành.
Thậthành đúng như lời nói lại có hai hạng : Một là cầu quảThanh Văn chẳng có thể lợi ích an lạc tất cả chúng sanhkhổ não, hai là hồi hướng Đại thừa vô thượng, lợi íchmọi người làm cho đặng an lạc. Bồ Tát phải biết lợiích mọi người làm cho đặng an lạc là điều lành vô thượng.
NầyThiện nam tử ! Như trong các châu báu, như ý bảo châu tốtđẹp hơn tất cả. Như trong các mùi vị, chất cam lồ làhơn hết. Bồ Tát nầy ở nơi trong hàng trời người là bựchơn tất cả không gì ví dụ được.
Nhưtrên đây gọi là bực Đại Bồ Tát trụ nơi kinh Đại ThừaĐại Niết Bàn an trụ nơi bảy pháp lành. Bồ Tát trụ nơibảy pháp lành nầy thời đặng đầy đủ phạm hạnh.
NầyThiện nam tử ! Lại có phạm hạnh gọi là từ, bi, hỷ, xả.
CaDiếp Bồ Tát bạch Phật : “Thế Tôn ! Nếu người tu hạnhtừ có thể dứt sân khuể. Người tu lòng bi cũng dứt đượcsân khuể. Sao lại nói là bốn tâm vô lượng. Xét theo nghĩađó thời lẽ ra chỉ có ba.
ThếTôn ! Lòng từ có ba duyên : Một là duyên chúng sanh, hai làduyên nơi pháp, ba thời duyên không. Lòng bi, hỷ, xả, cũngba duyên như vậy, nếu theo nghĩa nầy thời lẽ ra chỉ cóba chẳng nên có bốn .
Duyênchúng sanh là duyên nơi thân ngũ ấm nguyện cho họ đượcvui. Duyên nơi pháp là những vật chúng sanh cần dùng đem bancho họ. Không duyên tức là duyên nơi Như-Lai.
Lòngtừ thời phần nhiều duyên nơi chúng sanh nghèo cùng. ĐứcNhư Lai Đại Sư lìa hẳn sự nghèo cùng hưởng sự vui đệnhứt. Nếu duyên chúng sanh thời chẳng duyên nơi Phật, Phápcũng như vậy. Vì do nghĩa nầy nên duyên Như Lai gọi là khôngduyên.
ThếTôn ! Lòng từ duyên tất cả chúng sanh, như duyên cha mẹ,vợ con, thân thuộc. Do nghĩa nầy nên gọi là chúng sanh duyên.
Phápduyên là chẳng thấy cha mẹ, vợ con, thân thuộc. Thấy tấtcả pháp đều từ nơi duyên sanh ra. Đây gọi là pháp duyên.
Vôduyên là chẳng trụ nơi pháp tướng và chúng sanh tướng.
Từ,bi, hỷ, xả, đều duyên như vậy, vì thế nên lẽ ra chỉcó ba chẳng nên có bốn.
ThếTôn ! Người có hai hạng : Một là kiến hành, hai là ái hành.Người kiến hành nhiều tu từ bi, người ái hành nhiều tuhỉ xả. Vì thế nên đáng lẽ có hai chẳng nên có bốn.
ThếTôn ! Luận về vô lượng gọi là vô biên. Vì chẳng thểđược biên bờ nên gọi là vô lượng. Nếu là vô lượngthời lẽ ra nên có một chẳng nên nói là bốn.
Nếunói là bốn đâu đặng vô lượng. Vì thế nên là một chẳngnên là bốn vậy”.
Phậtbảo Ca Diếp Bồ Tát : “ Nầy Thiện nam tử ! Chư Phật NhưLai vì mọi loài chúng sanh mà giảng nói pháp yếu. Lời củaPhật bí mật khó hiểu biết được. Hoặc vì chúng sanh nóimột nhơn duyên. Như nói những gì là một nhơn duyên tứclà tất cả pháp hữu vi.
Hoặcnói hai thứ là nhơn cùng quả.
Hoặcnói ba thứ là phiền não, nghiệp và khổ.
Hoặcnói bốn thứ là vô minh, hành, sanh, và lão tử.
Hoặcnói năm thứ là thọ, ái, thủ, hữu và vô sanh.
Hoặcnói sáu thứ là nhơn quả ba đời.
Hoặcnói bảy thứ là thức, danh sắc, lục nhập xúc, thọ, ái,và thủ. Hoặc nói tám thứ là trong mười hai nhơn duyên trừvô minh, hành, sanh và lão tử.
Hoặcnói chín thứ như trong Thánh kinh nói mười hai nhơn duyên trừvô minh, hành và thức.
Hoặcnói mười một thứ như trong kinh Tát Giá Ni Kiền Tử nóimười hai nhơn duyên trừ sanh.
Hoặccó lúc nói đủ cả mười hai nhơn duyên. Như nơi thành VươngXá vì Ca Diếp v.v… nói vô minh nhẫn đến sanh, lão, bịnh,tử.
NầyThiện nam tử ! Như một nhơn duyên vì chúng sanh nên phân biệtnhiều thứ, vô lượng tâm cũng như vậy.
NầyThiện nam tử ! Vì do nghĩa nầy đối với hạnh thâm mậtcủa Như Lai chẳng nên sanh nghi.
ĐứcNhư Lai có phương tiện lớn : Vô thường nói là thường,thường nói là vô thường, nói vui là khổ, nói khổ là vui,bất tịnh nói là tịnh, tịnh nói là bất tịnh, ngã nói làvô ngã, vô ngã nói là ngã, nơi vô tình nói là hữu tình,nơi hữu tình nói là vô tình, chẳng phải vật nói là vật,vật nói là chẳng phải vật, chẳng phải thiệt nói là thiệt, thiệt nói là chẳng phải thiệt, chẳng phải cảnh nói làcảnh, cảnh nói là chẳng phải cảnh, chẳng phải sanh nóilà sanh, sanh nói là chẳng phải sanh, nhẫn đến vô minh nóilà minh, minh nói là vô minh, sắc nói là chẳng phải sắc,chẳng phải sắc nói là sắc, chẳng phải đạo nói là đạo,đạo nói là chẳng phải đạo. Nầy thiện nam tử ! ĐứcNhư Lai vì điều phục chúng sanh dùng vô lượng phương tiệnnhư vậy há lại là hư vọng ư!
Hoặcco ùchúnh sanh tham của cải, đối với người đó ta tự hóathân mình làm vua Chuyển Luân, theo chỗ cần dùng của ngườiđó cung cấp các thứ vật dụng trong nhiều năm, rồi sau giáohoá nó, cho nó được trụ nơi vô thượng chánh đẳng chánhgiác.
Nếucó chúng sanh tham đắm ngũ dục, trong nhiều năm ta đem ngũdục cung cấp nó, rồi sau khuyến hoá, cho nó trụ nơi vô thượngchánh đẳng chánh giác.
Nếucó chúng sanh sang giàu, thời ta trong nhiều năm vì người đómà làm tôi tớ hầu hạ cho người đó vừa lòng, rồi saukhuyến hoá người đó trụ nơi vô thượng chánh đẳngchánh giác.
Nếucó chúng sanh cứng cỏi tự thị cần có người can gián, thờita trong nhiều năm can ngăn khuyên dạy, làm cho tâm ngườiđó điều thuận rồi sau khuyến hoá người đó trụ nơi vôthượng chánh đẳng chánh giác.
NầyThiện nam tử ! Đức Như Lai trong vô lượng năm dùng mọithứ phương tiện làm cho chúng sanh được trụ nơi vô thượngchánh đẳng chánh giác như vậy há lại hư vọng ư !
ChưPhật Như Lai dầu ở trong chỗ ác nhưng như hoa sen không bịnhiễm ô.
NầyThiện nam tử ! Nên biết nghĩa của bốn tâm vô lượng cũngnhư vậy, tâm vô lượng nầy thể tánh có bốn. Nếu có ngườitu hành thời sanh lên cõi trời Đại Phạm.
Tâmvô lượng nầy có bốn loại, nên nói là bốn.
Luậnvề người tu lòng từ có thể dứt tham dục. Người tu lòngbi có thể dứt sân khuể. Người tu lòng hỷ có thể dứtsự chẳng vui. Người tu lòng xả có thể dứt tham dục vàsân khuể.
NầyThiện nam tử ! Do nghĩa nầy nên được gọi là bốn, chẳngphải một, hai cũng chẳng phải ba.
NầyThiện nam tử ! Như lời ông nói lòng từ có thể dứt đượcsân, lòng bi cũng như vậy nên nói là ba đó, ông chẳng nênnạn như vậy. Sân khuể có hai thứ : Một là giết chết,hai là đánh đập. Tu lòng từ thời dứt được sự giậngiết chết. Tu lòng bi thời dứt được sự giận đánh đập.Do nghĩa đó há lại chẳng phải là bốn ư !
Sânlại có hai thứ : Một là sân với chúng sanh, hai là sân vớichẳng phải chúng sanh. Người tu lòng từ dứt được sựsân với chúng sanh. Người tu lòng bi dứt được sự sân vớichẳng phải chúng sanh.
Sânlại có hai thứ : Một là có nhơn duyên, hai là không nhơnduyên.
Tulòng từ dứt được sự sân có nhơn duyên. Tu lòng bi dứtđược sự sân không nhơn duyên.
Sânlại có hai thứ : Một là tập quán quá khứ, hai là tậpquán hiện tại, tu lòng từ dứt được sân quá khứ. Tu lòngbi dứt được sân hiện tại.
Sânlại có hai thứ : Một là sân thánh nhơn hai là sân phàm phu.Tu lòng từ dứt được sân thánh nhơn. Tu lòng bi dứt đượcsân phàm phu.
Sânlại có hai thứ : Một là thượng hai là trung. Tu lòng từdứt được sân hạng thượng. Tu lòng bi dứt được sân hạngtrung.
NầyThện nam tử !Do nghĩa nầy nên gọi là bốn, đâu đặng nạnrằng : Nên ba chẳng nên bốn. Thế nên tâm vô lượng nầyloại của nó đối nhau phân biệt làm bốn.
Lạido vì căn khí nên thành bốn : Căn khí nếu có tâm từ thờichẳng đặng có tâm bi, hỷ, xả. Vì do nghĩa nầy nên phảilà bốn không bớt được.
NầyThiện nam tử ! Do thật hành sai khác nên phải có bốn. Nếulúc thật hành hạnh từ không có hạnh bi, hỷ, xả, vì thếnên cóø bốn.
NầyThiện nam tử ! Do vì vô lượng cũng đặng gọi là bốn. Luậnvề vô lượng thì có bốn thứ : Có tâm vô lượng, có duyênchẳng tự tại, có tâm vô lượng tự tại, chẳng phải duyên,có tâm vô lượng cũng duyên cũng tự tại, có tâm vô lượngchẳng phải duyên chẳng phải tự tại.
Thếnào là tâm vô lượng có duyên chẳng tự tại? Duyên nơivô lượng vô biên chúng sanh mà chẳng đặng chánh định tựtại, dầu đặng chánh định nhưng hoặc đặng hoặc mất.
Thếnào là tâm vô lượng tự tại chẳng phải duyên? Như duyêncha mẹ, anh em, chị em, muốn làm cho được an vui, chẳng phảilà duyên vô lượng.
Thếnào là tâm vô lượng cũng duyên cũng tự tại ? Tức là nóichư Phật Bồ Tát.
Thếnào tâm vô lượng chẳng phải duyên chẳng tự tại ? HàngThanh Văn Duyên Giác chẳng có thể duyên rộng vô lượng chúngsanh cũng chẳng phải tự tại.
NầyThiện nam tử ! Do nghĩa đây nên gọi là bốn thứ vô lượng,chẳng phải hàng Thanh Văn Duyên Giác biết được, đây làcảnh giới của chư Phật.
Bốnthứ vô lượng như vậy, hàng Thanh Văn Duyên Giác dầu gọilà vô lượng, nhưng chỉ chút ít không đáng kể. Chư Phậtvà Bồ Tát thời đặng gọi là vô lượng vô biên.
CaDiếp Bồ Tát bạch Phật : “ Thế Tôn ! Phải lắm !Phải lắm ! Thiệt đúng như lời dạy của Phật. Bao nhiêucảnh giới của Như Lai, chẳng phải hàng Thanh Văn Duyên Giácbiết đến được. Thế Tôn ! Có Bồ Tát nào trụ nơi Đạithừa Đại Niết Bàn đặng tâm từ bi mà chẳng phải là tâmđại từ đại bi chăng ?”
Phậtnói : “Có. Nầy Thiện nam tử ! Bồ Tát nếu đối trong hàngchúng sanh phân biệt ba hạng : Một là người thân yêu, hailà kẻ oán ghét, ba là người không thương không ghét. Đốitrong những người thương yêu lại chia ba hạng : Thượng,trung, hạ. Đối với kẻ oán ghét cũng vậy. Vị Bồ Tát nầyở trong hạng thương yêu bực thượng ban cho sự vui tăng thượng.Nơi trong hạng thân yêu bực trung, bực hạ cũng bình đẳngban cho sự vui tăng thượng,. Ở nơi trong hạng oán ghét bựcthượng cho ít phần vui. Nơi trong kẻ oán ghét bực trungcho sự vui vừa vừa. Nơi trong hạng oán ghét bực hạ cho sựvui tăng thượng. Bồ Tát lần lượt tu tập thêm lên như vậy,ở trong hạng oán ghét bực thượng ban cho sự vui vừa vừa,trong hạng oán ghét bực trung, bực hạ bình đẳng cho sựvui tăng thượng. Lại tu tập thêm nơi những kẻ oán ghétthượng, trung, hạ bình đẳng ban cho sự vui tăng thượng.
Nếutrong hạng oán ghét bực thượng ban cho sự vui tăng thượng,bấy giờ đặng gọi là thành tựu tâm từ.
Lúcbấy giờ Bồ Tát đối với cha mẹ là kẻ oán ghét bực thượngtâm được bình đẳng không sai khác.
NầyThiện nam tử ! Như trên đây gọi là đặng tâm từ chẳngphải tâm đại từ.
_ BạchThế Tôn ! Do duyên gì Bồ Tát đặng tâm từ như vậy mà vẫnchẳng đặng gọi là đại từ ?
_ NầyThiện nam tử ! Bởi vì khó thành nên chẳng gọi đại từ.Do trong vô lượng kiếp thuở quá khứ chứa nhiều phiền nãochưa tu pháp lành, thế nên chẳng có thể ở nơi trong mộtngày điều phục được tâm mình.
NầyThiện nam tử ! Ví như hột đậu đá lúc đã khô lấy dùighim trọn không dính được. Phiền não cứng rắn cũng nhưvậy. Dầu một ngày đêm nhiếp tâm chẳng tán, nhưng khó điềuphục được.
Lạinhư chó nhà chẳng sợ người, còn con nai rừng thấy ngườisợ chạy. Sân khuể khó trừ như giữ chó nhà, lòng từ dễmất như nai rừng kia. Thế nên tâm nầy khó điều phục được.Do nghĩa nầy nên chẳng gọi là đại từ.
NầyThiện nam tử ! Ví nhu khắc trên đá lằn chữ còn mãi. Vẽtrên nước thời chóng mất. Sân như khắc trên đá. Các cănlành như vẽ trên nước. Vi thế nên tâm nầy khó điều phụcđược.
Nhưđống lửa lớn chói sáng được lâu. Ánh sáng của điệnchớp thoạt có, liền mất. Sân như đống lửa. Lòng từ nhưánh sáng chớp. Vì thế nên tâm nầy khó điều phục được.Do vì nghĩa nầy nên chẳng gọi là đại từ.
NầyThiện nam tử ! Bồ Tát trụ bực sơ địa gọi là đại từ.Tại sao vậy ? Vì người tột hung ác gọi là nhứt xiển đề.
BựcSơ địa Bồ Tát lúc tu Đại thừa nơi hạng nhứt xiển đềtâm không phân biệt chẳng thấy lỗi của họ nên chẳng sanhlòng sân. Do nghĩa nầy mà đặng gọi là đại từ.
NầyThiện nam tử ! Vì trừ những sự không lợi ích cho các chúngsanh, đây gọi là đại từ.
Muốncho chúng sanh được vô lượng lợi ích an vui, đây gọi làđại bi.
Đốivới các chúng sanh sanh lòng vui mừng đây gọi là đại hỷ.Không thấy có chúng sanh được ủng hộ, đây gọi làđại xả.
Nếuchẳng thấy có ngã, pháp tướng, thân mình, thấy tất cảpháp đều bình đẳng không sai khác, đây gọi là đại xả.Tự rời bỏ sự vui của mình mà đem ban cho người khác, đâygọi là đại xả,
NầyThiện nam tử ! Chỉ có bốn tâm vô lượng có thể làm choBồ Tát được đầy đủ sáu pháp Ba La Mật, những công hạnhkhác chẳng quyết định được như vậy.
NầyThiện nam tử ! Bồ Tát trước đặng bốn tâm vô lượng thếgian, vậy sau mới phát tâm vô thượng Bồ Đề, kế đó mớiđặng tâm vô lượng xuất thế. Nhơn tâm vô lượng thế gianmà được tâm vô lượng xuất thế do vì nghĩa nầy nên gọilà đại vô lượng”.
CaDiếp Bồ Tát bạch Phật : “ Thế Tôn ! Trừ sự không lợiích cùng sự lợi ích an vui thiệt không còn có việc gì đểlàm. Suy nghĩ như vậy thời là hư vọng quán sát không cólợi ích thiết thiệt.
ThếTôn ! Ví như Tỳ kheo lúc quán bất tịnh thấy y của mìnhđắp đều trở thành tướng da mà thiệt chẳng phải là da.Những thức uống ăn đều thấy thành tướng dòi trùng màthiệt chẳng phải dòi trùng. Quán bát canh đậu thành tướngphân dãi mà thiệt chẳng phải phân.
Quándầu bơ đương ăn thấy như tủy óc mà thiệt chẳng phảióc.
Quánxương nát bể dường như bột bún, mà thiệt chẳng phảibột.
Cũngvậy, bốn tâm vô lượng chẳng có thể thiết thực đem sựlợi ích an vui cho chúng sanh. Dầu miệng nói rằng ban vui chochúng sanh mà thiệt chúng sanh chẳng được vui. Tu quán nhưvậy chẳng phải là hư vọng ư !
ThếTôn ! Nếu chẳng phải hư vọng mà thiệt ban cho sự vui, cớsao chúng sanh chẳng nhờ oai lực của chư Phật Bồ Tátđặng hoàn toàn an vui tất cả.
Cònnếu quả là thiệt chẳng được an vui đó, như lời Phậtnói : Ta nhớ thuở trước riêng tu tâm từ, trãi qua bảy phenthành hoại của cõi nầy chẳng đến sanh trong nhơn gian, lúcthế giới thành sanh lên trời Phạm Thiên. Lúc thế giới hoạisanh lên trời Quang Aâm. Khi sanh lên trời Phạm Thiên ta cóoai thế tự tại tôn quí hơn hết trong ngàn cõi Phạm Thiêngọi là Đại Phạm Vương. Nếu các chúng sanh đối với tađều tưởng là bực tôn thượng thời được làm vua cõitrời Đao Lợi ba mươi sáu lần. Làm vua Chuyển Luân vô lượngtrăm ngàn lần.
Riêngtu lòng từ bèn đặng phước báu cõi trời cõi người nhưvậy. Nếu chẳng thiệt được lợi ích làm sao hiệp vớinghĩa nầy ?”
Phậtnói : “ Lành thay ! Lành thay ! Nầy Thiện nam tử ! Ông thiệtlà dũng mãnh không e sợ.
Phậtliền vì Ca Diếp Bồ Tát mà nói kệ rằng :
Đốivới một chúng sanh, Chẳng sanh lòng giận hờn, Mà muốn bancho vui, Đây gọi là từ thiện. Trong tất cả chúng sanh, Nếusanh được lòng bi, Gọi là thành chủng tánh, Đặng phướcbáo vô lượng. Giả sử Tiên Ngũ thông, Đông khắp mặt đấtnầy, Có vua chúa tự tại, Dâng cấp đủ đồ dùng : Voi, ngựa,các vật dụng, Thí cho Tiên được phước, Chẳng bằng tulòng từ, Trong một phần mười sáu.
NầyThiện nam tử ! Luận về người tu lòng từ thiệt chẳng phảivọng tưởng, mà chắc chắn là chơn thật. Nếu là lòng từcủa Thanh Văn Duyên Giác thời gọi là hư vọng. Chư PhậtBồ Tát lòng từ chơn thật chẳng hư vọng. Do đâu mà biếtnhư vậy ? Nầy Thiện nam tử ! Bồ Tát tu hành Đại NiếtBàn. Quán đất làm vàng, quán vàng làm đất, quán mặt đấtthành tướng nước, quán mặt nước thành tướng đất, nướcquán thành lửa, lửa quán thành nước, đất quán thành gió,gió quán thành đất, tùy ý thành tựu không có hư vọng. Quánchúng sanh thiệt thành chẳng phải chúng sanh, quán chẳng phảichúng sanh thành chúng sanh thiệt, đều tùy ý mà thành khôngcó hư vọng.
NầyThiện nam tử ! Nên biết bốn tâm vô lượng của Bồ Tátlà sự tư duy chân thật chẳng phải không chân thật.
NầyThiện nam tử ! Thế nào gọi là tư duy chơn thật ? Do vì cóthể dứt trừ các phiền não vậy. Luận về tu lòng từ cóthể dứt được tham dục, tu lòng bi có thể dứt được sânkhuể. Tu lòng hỷ có thể dứt được sự chẳng vui vẻ. Tulòng xả có thể dứt được tham dục, sân khuể và tướngchúng sanh.
Vìthế nên gọi là tư duy chơn thật.
NầyThiện nam tử ! Bốn tâm vô lượng của Bồ Tát có thể làmcội gốc cho tất cả hạnh lành.
BồTát nếu chẳng thấy được chúng sanh nghèo cùng thời khôngduyên để sanh lòng từ. Nếu lòng từ chẳng sanh thời khôngthể khởi tâm huệ thí. Do nhơn duyên huệ thí làm cho chúngsanh đặng an vui. Ban cho những đồ uống ăn , xe cộ, y phục,hoa hương, giường ghế, nhà cửa, đèn đuốc. Lúc ban cho nhưvậy, lòng cởi mở chẳng sanh niệm tham đắm, quyếtđịnh hồi hướng vô thượng chánh đẳng, chánh giác. Lúcđó tâm của Bồ Tát không dừng ở chỗ nào, dứt hẳn vọngtưởng, chẳng kẹt nơi sợ sệt, danh dự, tài lợi, chẳngcầu quả báo vui sướng cõi trời cõi người, chẳng kiêumạn, chẳng trông người trả ơn, chẳng vì phỉnh ngườimà làm việc bố thí, chẳng cầu giàu sang.
Phàmlúc làm việc bố thí, chẳng thấy người thọ là trì giớihay phá giới, là phước điền hay chẳng phải phước điền,là hàng tri thức hay chẳng phải tri thức, lúc bố thí cũngchẳng thấy là căn khí hay chẳng phải căn khí, chẳnglựa ngày giờ, chẳng chọn chỗ nơi, cũng chẳng tính là lúcđược mùa hay đói kém, chẳng thấy nhơn quả chẳng phânbiệt là chúng sanh hay chẳng phải chúng sanh, là phước haychẳng phải phước.
Dầulại chẳng thấy người thí kẻ thọ cùng của cải nhẫnđến chẳng thấy nhân tu cùng quả báo, mà luôn luôn làm việcbố thí không ngừng.
NầyThiện nam tử ! Bồ Tát nếu thấy người lãnh thọ là trìgiới hay phá giới v.v… nhẫn đến thấy có quả báo thờichẳng thể bố thí trọn vẹn. Nếu chẳng bố thí trọn vẹnthời không thể đầy đủ đàn ba la mật. Nếu chẳng đầyđủ đàn ba la mật thời không thể thành vô thượng chánhđẳng chánh giác.
NầyThiện nam tử ! Ví như có người thân bị trúng tên độc.Quyến thuộc của người đó vì muốn cho người đó đượcan ổn liền mời lương y đến để nhổ tên độc.
Ngườiđó nói đừng động đến chờ tôi quan sát coi mũi tên độcnầy từ phương nào bay đến, của ai bắn, người bắn làdòng nào : Là Sát Đế Lợi hay Bà La Môn, là Tỳ Xá hay ThủĐà. Nghiệm coi mũi tên làm bằng cây, bằng tre hay bằng gỗliễu. Mũi sắt từ lò nào rèn, cứng hay mềm, đuôi lông vàlông cánh chim gì, chim quạ hay kên kên. Chất độc tẩmtrong mũi tên tự nhiên mà có hay chế ra, là độc của loàingười hay độc của loài rắn.
Ngườingu si đó chưa biết được mà đã chết.
NầyThiện nam tử ! Cũng vậy, Bồ Tát nếu lúc làm việc bố thíphân biệt người thọ là trì giới hay phá giới, nhẫn đếnphân biệt quả báo, thời chẳng bố thí trọn vẹn
Nếuchẳng bố thí trọn vẹn thời chẳng đầy đủ đàn ba lamật. Nếu chẳng đầy đủ đàn ba la mật thời chẳng đặngthành vô thượng chánh đẳng chánh giác.
NầyThiện nam tử ! Lúc làm việc bố thí Bồ Tát đối với chúngsanh lòngtừ bình đẳng tưởng như con mình. Lại lúc làm việcbố thí, đối với các chúng sanh Bồ Tát sanh lòng thươngxót như cha mẹ săn sóc đứa con đang đau ốm. Lúc làm việcbố thí, lòng Bồ Tát vui mừng như cha mẹ thấy con lành mạnh.
Saukhi đã bố thí lòng Bồ Tát buông bỏ như cha mẹ thấy conkhôn lớn đã có thể tự sanh sống.
VịBồ Tát nầy ở trong tâm từ, lúc bố thí thức ăn thườngnguyện như vầy : Nay những đồ ăn của ta bố thí đều chochung tất cả chúng sanh, do nhơn duyên nầy làm cho chúng sanhđặng có trí huệ lớn, siêng tu hồi hướng đại thừa vôthượng. Nguyện các chúng sanh đặng có trí lành chẳng cầubáo Thanh Văn và Duyên Giác. Nguyện các chúng sanh đặng mónăn pháp hỷ chẳng cầu món ăn ái nhiễm. Nguyện các chúngsanh đều đặng món ăn Bát Nhã Ba La Mật, đều được đầyđủ phương tiện vô ngại, thêm lớn căn lành. Nguyện cácchúng sanh hiểu thấu tướng vô đắc, thân vô ngại dườngnhư hư không. Nguyện các chúng sanh thường làm người lãnhthọ, thương xót tất cả mọi loài mà làm phước điền chochúng.
NầyThiện nam tử ! Lúc tu lòng từ khi đem thức ăn bố thí nênphải phát những điều nguyện như trên.