Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

20. Phẩm Phạm Hạnh

07/06/201114:12(Xem: 3792)
20. Phẩm Phạm Hạnh

KINH ÐẠI BÁTNIẾT BÀN
DịchTừ Hán Sang Việt: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
TịnhXá Minh Ðăng Quang, Hoa Kỳ Xuất Bản 1990

XX
PHẨMPHẠM HẠNH THỨ HAI MƯƠI

(Hánbộ trọn quyển 14, 15, 16, 17 và phần đầu quyển thứ 18)

Trang01

NầyThiện nam tử ! Bồ-Tát-Ma-Ha-Tát tu phạm hạnh như thế nào? Bồ-Tát-Ma- Ha-Tát trụ nơi Đại-thừa Đại Niết Bàn,trụ bảy pháp lành thời phạm hạnh đầy đủ.

Bảypháp lành là: Một là biết pháp, hai là biết nghĩa, ba làbiết giờ, bốnlàbiết tri túc, năm là biết mình, sáu là biết chúng, bảy làbiết tôn ty.

Bồ-Tát-Ma-Ha-Tátnhư thế nào gọi là biết pháp. Nầy Thiện nam tử ! Bồ Tátnầy biết mười hai bộ kinh tức là Tu Đa La, Kỳ Dạ, ThọKý, Dà Đà, Ưu Đà Na, Ni Đà Na, A Ba Đà Na, Y Đế Mục ĐàNa, Xà Đà Dà, Tỳ Phật Lược, A Phù Đà Đạt Ma, ƯuBà Đề Xá.

Đâylà khế kinh Tu Đa La : Từ “như thị ngã văn nhẫn đếncâu hoan hỷ phụng hành” tất cả như vậy gọi là Tu ĐaLa kinh (trường hàng). Đây là Kỳ-dạ: Phật bảo các Tỳkheo ngày xưa ta cùng các ông ngu si không trí huệ, chẳng thểthấy bốn chơn đế đúng như thật, nên lưu chuyển mãi trongbiển khổ sanh tử. Bốn chơn đế là : Khổ Đế, Tập Đế,Diệt Đế, và Đạo Đế.

Ngàyxưa đức Phật vì các Tỳ Kheo nói khế kinh xong lại có hàngchúng sanh căn trí sáng tỏ, vì muốn nghe pháp nên đến chỗPhật hỏi mọi người rằng, đức Như Lai vừa rồi nói nhữngviệc gì ? Lúc đó Phật vì hàng chúng sanh ấy đem kinh vừagiảng nói thành kệ tụng:

Taxưa cùng các ông, Chẳng thấy bốn chơn đế, Nên phải lưuchuyển mãi, Trong biển khổ sanh tử, Nếu thấy được bốnđế, Thời dứt đặng sanh tử. Sanh tử đã hết rồi, Chẳngcòn thọ thân nữa.

Kệtụng trên đây gọi là Kỳ-Dạ kinh (trùng tụng).

Nhữnggì gọi là thọ ký ? Như có lúc đức Như Lai nói kinh hay luật,vì các hàng trời hay người mà thọ ký sẽ làm Phật. Nhưnói : “Đời sau có vua hiệu là Nhương Khư, ông A Dật Đasẽ ở cõi nầy thành bực chánh giác hiệu là Di Lặc Phật.Đây gọi là thọ ký kinh.

Nhữnggì gọi là Dà Đà? Trừ trường hàng và các giới luật,ngòai ra những bài kệ bốn câu như:

Cácđiều ác chớ làm, Phụng hành những điều lành, Lóng sạchtâm ý mình, Là lời dạy của Phật.

Trênđây gọi là Dà Đà kinh (kệ cô khởi).

Nhữnggì gọi là Ưu Đà Na? Như đức Phật lúc xế chiều nhậpthiền định, vì chư thiên giảng rộng các pháp yếu. Lúcđó các Tỳ- kheo đều nghĩ rằng : Giờ đây đức Như Laiđang làm việc gì ?

Sángngày sau, đức Như Lai xuất định, không ai hỏi, dùngtha tâm trí mà tự nói rằng : Nầy các Tỳ-kheo : Tất cảchư thiên thọ mạng rất dài. Lành thay ! Các Tỳ- kheo biếtvì người, chẳng cầu tư lợi, biết thiểu dục, biết tritúc, được tịch tịnh.

Nhữngkinh như trên đây không ai hỏi đức Phật tự giảng nói đógọi là Ưu Đà Na kinh (tự thuyết).

Nhữnggì là Ni Đà Na? Như trong các kinh do nhơn duyên Phật vì ngườikhác diễn nói. Lệ như : Trong nước Xá Vệ có một chàngtrai giăng lưới bắt chim, bắt đặng chim nhốt trong lồng,cho ăn lúa uống nước rồi lại thả đi. Đức Thế Tôn biếtnhơn duyên đó mà nói kệ rằng:

Chớkhinh tội nhỏ, Cho là không họa, Giọt nước dầu nhỏ, Lầnđầy lu lớn.

Nhưtrên đây gọi là Ni Đà Na kinh ( nhơn duyên).

Nhữnggì là A Ba Đà Na ? Như những thí dụ trong luật nói.

Nhữnggì là Y Đế Mục Đa Dà ! Lệ như đức Phật nói : Nầy cácTỳ-kheo ! Lúc ta xuất thế những điều ta dạy bảo gọi làgiới kinh. Lúc đức Câu Lưu Tôn Phật xuất thế lời Phậtdạy gọi là trống Cam-lồ . Lúc đức Phật Câu Na HàmMâu Ni xuất thế lời Phật dạy gọi là Pháp cảnh.

Lúcđức Phật Ca Diếp xuất thế lời Phật dạy gọi là Phânbiệt không.

Nhưtrên đây gọi là Y Đế Mục Đa Dà kinh ( bổn sự).

Nhữnggì là Xà Đà Dà ? Lệ như đức Phật xưa kia làm vị BồTát tu khổ hạnh. Như Phật nói : Nầy các Tỳ kheo ! Thuởquá khứ ta từng làm nai, làm gấu, làm cheo, làm thỏ, làmquốc vương, làm Chuyển Luân Thánh Vương, làm rồng, làm kimsúy điểu v.v… Như trên đây gọi là Xa Đà Dà kinh (bổnsanh).

Nhữnggì là Tỳ Phật Lược? Tức là những kinh điển thuộc vềĐại thừa Phương đẳng nghĩa lý rộng lớn dường như hưkhông (phương quảng).

Nhữnggì là vị tằng hữu? Lệ như lúc đức Bồ Tát mới sanhkhông ai đỡ dắt mà tự đi bảy bước, phóng quang minh lớnngó khắp mười phương. Lệ như con vượn tay bưng bát mậtdâng cúng đức Như Lai,. Lệ như chó cổ trắng đến bên Phậtnghe pháp. Lệ như ma vương Ba Tuần biến làm trâu xanhđi trong bát sành, làm cho các bát sành đụng chạm lẫn nhaumà không nứt bể. Lệ như Phật lúc mới sanh lúc vào thiênmiếulàm cho thiên tượng đứng dậy bước xuống đảnh lễ.

Nhữngđoạn kinh như trên đây gọi là Vị Tằng Hữu kinh.

Nhữnggì là Ưu Ba Đề Xá? Lệ như đức Phật lúc nói kinh hoặcluận nghĩa cùng phân biệt giảng rộng biện luận cáctướng mạo, đây gọi là Ưu Ba Đề Xá kinh (luận nghị).

BồTát nếu có thể rõ biết mười hai bộ kinh như vậy thờigọi là biết pháp.

BồTát Ma Ha Tát như thế nào gọi là biết nghĩa ? Nếu Bồ Tátở nơi tất cả văn tự ngữ ngôn biết rộng những ý nghĩathời gọi là biết nghĩa.

BốTát Ma Ha Tát thế nào là biết giờ ? Bồ Tát khéo biếttrong những giờ như vậy có thể tu tịch tịnh, trong nhữnggiờ như vậy có thể tu tinh tấn, trong những giờ như vậycó thể tu xả định, trong những giờ như vậy có thểcúng dường Phật, trong những giờ như vậy có thể cúng dườngSư trưởng, trong những giờ như vậy có thể tu hạnh bốthí, trì giới nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, đầy đủBát Nhã Ba La Mật. Như trên đây gọi là biết giờ.

BồTát Ma Ha Tát như thế nào gọi là tri túc?

BồTát biết đủ đối với những việc dưới đây: Uống ăn,y phục, thuốc men, đi, đứng, ngồi, nằm, ngủ, thức, nói,nín. Như trên đây gọi là tri túc.

BồTát Ma Ha Tát như thế nào gọi là biết mình ? Vị Bồ Tátnầy tự biết rằng ta có đức tin như vậy, có giới nhưvậy, có đa văn như vậy, có xả như vậy, có huệ như vậy,có đi đến như vậy, có chánh niệm như vậy, có hạnh lànhnhư vậy, hỏi như vậy, đáp như vậy, như trên đây gọilà biết mình.

BồTát Ma Ha Tát như thế nào gọi là biết người ? Bồ Tát nầybiết những người đây là hàng Sát Đế Lợi, là hàng BàLa Môn, là hàng Cư Sĩ, là hàng Sa Môn. Nên ở trong chúng nầyđi đến như vậy, ngồi đứng như vậy, thuyết pháp như vậy,hỏi đáp như vậy. Như trên đây gọi là biết người.

BồTát Ma Ha Tát thế nào gọi là biết người bực tôn bực ty? Người có hai hạng : Một là có tín tâm, hai là chẳng cótín tâm. Bồ Tát phải biết người có tín tâm thời là ngườilành, người chẳng có tín tâm thời chẳng gọi là ngườilành.

Ngườicó tín tâm lại có hai hạng: Một là người thường đếnchùa chiền, hai là người chẳng đến chùa, Bồ Tát phảibiết người đến chùa là lành, người chẳng đến chùa thờichẳng gọi là lành.

Ngườiđến chùa lại có hai hạng : Một là lễ bái, hai là chẳnglễ bái, Bồ Tát phải biết người lễ bái là lành, ngườichẳng lễ bái thời chẳng gọi là lành.

Ngườilễ bái lại có hai hạng : Một là nghe pháp, hai là chẳngnghe pháp. Bồ Tát phải biết người nghe pháp là lành, ngườichẳng nghe pháp thời chẳng gọi là lành.

Ngườinghe pháp lại có hai hạng : Một là hết lòng lóng nghe, hailà chẳng hết lòng. Bồ Tát phải biết người hết lòng nghethời gọi là lành, người chẳng hết lòng nghe thời chẳnggọi là lành.

Hếtlòng nghe pháp lại có hai hạng : Một là suy gẫm ý nghĩa,hai là chẳng suy gẫm ý nghĩa. Bồ Tát phải biết người gẫmnghĩa là lành, người chẳng gẫm nghĩa thời chẳng gọi làlành.

Ngườigẫm nghĩa lại có hai hạng : Một là đúng như lời nóithật hành, hai là chẳng thật hành đúng như lời nói. Ngườithật hành gọi là lành, người chẳng thật hành thời chẳnggọi là lành.

Thậthành đúng như lời nói lại có hai hạng : Một là cầu quảThanh Văn chẳng có thể lợi ích an lạc tất cả chúng sanhkhổ não, hai là hồi hướng Đại thừa vô thượng, lợi íchmọi người làm cho đặng an lạc. Bồ Tát phải biết lợiích mọi người làm cho đặng an lạc là điều lành vô thượng.

NầyThiện nam tử ! Như trong các châu báu, như ý bảo châu tốtđẹp hơn tất cả. Như trong các mùi vị, chất cam lồ làhơn hết. Bồ Tát nầy ở nơi trong hàng trời người là bựchơn tất cả không gì ví dụ được.

Nhưtrên đây gọi là bực Đại Bồ Tát trụ nơi kinh Đại ThừaĐại Niết Bàn an trụ nơi bảy pháp lành. Bồ Tát trụ nơibảy pháp lành nầy thời đặng đầy đủ phạm hạnh.

NầyThiện nam tử ! Lại có phạm hạnh gọi là từ, bi, hỷ, xả.

CaDiếp Bồ Tát bạch Phật : “Thế Tôn ! Nếu người tu hạnhtừ có thể dứt sân khuể. Người tu lòng bi cũng dứt đượcsân khuể. Sao lại nói là bốn tâm vô lượng. Xét theo nghĩađó thời lẽ ra chỉ có ba.

ThếTôn ! Lòng từ có ba duyên : Một là duyên chúng sanh, hai làduyên nơi pháp, ba thời duyên không. Lòng bi, hỷ, xả, cũngba duyên như vậy, nếu theo nghĩa nầy thời lẽ ra chỉ cóba chẳng nên có bốn .

Duyênchúng sanh là duyên nơi thân ngũ ấm nguyện cho họ đượcvui. Duyên nơi pháp là những vật chúng sanh cần dùng đem bancho họ. Không duyên tức là duyên nơi Như-Lai.

Lòngtừ thời phần nhiều duyên nơi chúng sanh nghèo cùng. ĐứcNhư Lai Đại Sư lìa hẳn sự nghèo cùng hưởng sự vui đệnhứt. Nếu duyên chúng sanh thời chẳng duyên nơi Phật, Phápcũng như vậy. Vì do nghĩa nầy nên duyên Như Lai gọi là khôngduyên.

ThếTôn ! Lòng từ duyên tất cả chúng sanh, như duyên cha mẹ,vợ con, thân thuộc. Do nghĩa nầy nên gọi là chúng sanh duyên.

Phápduyên là chẳng thấy cha mẹ, vợ con, thân thuộc. Thấy tấtcả pháp đều từ nơi duyên sanh ra. Đây gọi là pháp duyên.

Vôduyên là chẳng trụ nơi pháp tướng và chúng sanh tướng.

Từ,bi, hỷ, xả, đều duyên như vậy, vì thế nên lẽ ra chỉcó ba chẳng nên có bốn.

ThếTôn ! Người có hai hạng : Một là kiến hành, hai là ái hành.Người kiến hành nhiều tu từ bi, người ái hành nhiều tuhỉ xả. Vì thế nên đáng lẽ có hai chẳng nên có bốn.

ThếTôn ! Luận về vô lượng gọi là vô biên. Vì chẳng thểđược biên bờ nên gọi là vô lượng. Nếu là vô lượngthời lẽ ra nên có một chẳng nên nói là bốn.

Nếunói là bốn đâu đặng vô lượng. Vì thế nên là một chẳngnên là bốn vậy”.

Phậtbảo Ca Diếp Bồ Tát : “ Nầy Thiện nam tử ! Chư Phật NhưLai vì mọi loài chúng sanh mà giảng nói pháp yếu. Lời củaPhật bí mật khó hiểu biết được. Hoặc vì chúng sanh nóimột nhơn duyên. Như nói những gì là một nhơn duyên tứclà tất cả pháp hữu vi.

Hoặcnói hai thứ là nhơn cùng quả.

Hoặcnói ba thứ là phiền não, nghiệp và khổ.

Hoặcnói bốn thứ là vô minh, hành, sanh, và lão tử.

Hoặcnói năm thứ là thọ, ái, thủ, hữu và vô sanh.

Hoặcnói sáu thứ là nhơn quả ba đời.

Hoặcnói bảy thứ là thức, danh sắc, lục nhập xúc, thọ, ái,và thủ. Hoặc nói tám thứ là trong mười hai nhơn duyên trừvô minh, hành, sanh và lão tử.

Hoặcnói chín thứ như trong Thánh kinh nói mười hai nhơn duyên trừvô minh, hành và thức.

Hoặcnói mười một thứ như trong kinh Tát Giá Ni Kiền Tử nóimười hai nhơn duyên trừ sanh.

Hoặccó lúc nói đủ cả mười hai nhơn duyên. Như nơi thành VươngXá vì Ca Diếp v.v… nói vô minh nhẫn đến sanh, lão, bịnh,tử.

NầyThiện nam tử ! Như một nhơn duyên vì chúng sanh nên phân biệtnhiều thứ, vô lượng tâm cũng như vậy.

NầyThiện nam tử ! Vì do nghĩa nầy đối với hạnh thâm mậtcủa Như Lai chẳng nên sanh nghi.

ĐứcNhư Lai có phương tiện lớn : Vô thường nói là thường,thường nói là vô thường, nói vui là khổ, nói khổ là vui,bất tịnh nói là tịnh, tịnh nói là bất tịnh, ngã nói làvô ngã, vô ngã nói là ngã, nơi vô tình nói là hữu tình,nơi hữu tình nói là vô tình, chẳng phải vật nói là vật,vật nói là chẳng phải vật, chẳng phải thiệt nói là thiệt, thiệt nói là chẳng phải thiệt, chẳng phải cảnh nói làcảnh, cảnh nói là chẳng phải cảnh, chẳng phải sanh nóilà sanh, sanh nói là chẳng phải sanh, nhẫn đến vô minh nóilà minh, minh nói là vô minh, sắc nói là chẳng phải sắc,chẳng phải sắc nói là sắc, chẳng phải đạo nói là đạo,đạo nói là chẳng phải đạo. Nầy thiện nam tử ! ĐứcNhư Lai vì điều phục chúng sanh dùng vô lượng phương tiệnnhư vậy há lại là hư vọng ư!

Hoặcco ùchúnh sanh tham của cải, đối với người đó ta tự hóathân mình làm vua Chuyển Luân, theo chỗ cần dùng của ngườiđó cung cấp các thứ vật dụng trong nhiều năm, rồi sau giáohoá nó, cho nó được trụ nơi vô thượng chánh đẳng chánhgiác.

Nếucó chúng sanh tham đắm ngũ dục, trong nhiều năm ta đem ngũdục cung cấp nó, rồi sau khuyến hoá, cho nó trụ nơi vô thượngchánh đẳng chánh giác.

Nếucó chúng sanh sang giàu, thời ta trong nhiều năm vì người đómà làm tôi tớ hầu hạ cho người đó vừa lòng, rồi saukhuyến hoá người đó trụ nơi vô thượng chánh đẳngchánh giác.

Nếucó chúng sanh cứng cỏi tự thị cần có người can gián, thờita trong nhiều năm can ngăn khuyên dạy, làm cho tâm ngườiđó điều thuận rồi sau khuyến hoá người đó trụ nơi vôthượng chánh đẳng chánh giác.

NầyThiện nam tử ! Đức Như Lai trong vô lượng năm dùng mọithứ phương tiện làm cho chúng sanh được trụ nơi vô thượngchánh đẳng chánh giác như vậy há lại hư vọng ư !

ChưPhật Như Lai dầu ở trong chỗ ác nhưng như hoa sen không bịnhiễm ô.

NầyThiện nam tử ! Nên biết nghĩa của bốn tâm vô lượng cũngnhư vậy, tâm vô lượng nầy thể tánh có bốn. Nếu có ngườitu hành thời sanh lên cõi trời Đại Phạm.

Tâmvô lượng nầy có bốn loại, nên nói là bốn.

Luậnvề người tu lòng từ có thể dứt tham dục. Người tu lòngbi có thể dứt sân khuể. Người tu lòng hỷ có thể dứtsự chẳng vui. Người tu lòng xả có thể dứt tham dục vàsân khuể.

NầyThiện nam tử ! Do nghĩa nầy nên được gọi là bốn, chẳngphải một, hai cũng chẳng phải ba.

NầyThiện nam tử ! Như lời ông nói lòng từ có thể dứt đượcsân, lòng bi cũng như vậy nên nói là ba đó, ông chẳng nênnạn như vậy. Sân khuể có hai thứ : Một là giết chết,hai là đánh đập. Tu lòng từ thời dứt được sự giậngiết chết. Tu lòng bi thời dứt được sự giận đánh đập.Do nghĩa đó há lại chẳng phải là bốn ư !

Sânlại có hai thứ : Một là sân với chúng sanh, hai là sân vớichẳng phải chúng sanh. Người tu lòng từ dứt được sựsân với chúng sanh. Người tu lòng bi dứt được sự sân vớichẳng phải chúng sanh.

Sânlại có hai thứ : Một là có nhơn duyên, hai là không nhơnduyên.

Tulòng từ dứt được sự sân có nhơn duyên. Tu lòng bi dứtđược sự sân không nhơn duyên.

Sânlại có hai thứ : Một là tập quán quá khứ, hai là tậpquán hiện tại, tu lòng từ dứt được sân quá khứ. Tu lòngbi dứt được sân hiện tại.

Sânlại có hai thứ : Một là sân thánh nhơn hai là sân phàm phu.Tu lòng từ dứt được sân thánh nhơn. Tu lòng bi dứt đượcsân phàm phu.

Sânlại có hai thứ : Một là thượng hai là trung. Tu lòng từdứt được sân hạng thượng. Tu lòng bi dứt được sân hạngtrung.

NầyThện nam tử !Do nghĩa nầy nên gọi là bốn, đâu đặng nạnrằng : Nên ba chẳng nên bốn. Thế nên tâm vô lượng nầyloại của nó đối nhau phân biệt làm bốn.

Lạido vì căn khí nên thành bốn : Căn khí nếu có tâm từ thờichẳng đặng có tâm bi, hỷ, xả. Vì do nghĩa nầy nên phảilà bốn không bớt được.

NầyThiện nam tử ! Do thật hành sai khác nên phải có bốn. Nếulúc thật hành hạnh từ không có hạnh bi, hỷ, xả, vì thếnên cóø bốn.

NầyThiện nam tử ! Do vì vô lượng cũng đặng gọi là bốn. Luậnvề vô lượng thì có bốn thứ : Có tâm vô lượng, có duyênchẳng tự tại, có tâm vô lượng tự tại, chẳng phải duyên,có tâm vô lượng cũng duyên cũng tự tại, có tâm vô lượngchẳng phải duyên chẳng phải tự tại.

Thếnào là tâm vô lượng có duyên chẳng tự tại? Duyên nơivô lượng vô biên chúng sanh mà chẳng đặng chánh định tựtại, dầu đặng chánh định nhưng hoặc đặng hoặc mất.

Thếnào là tâm vô lượng tự tại chẳng phải duyên? Như duyêncha mẹ, anh em, chị em, muốn làm cho được an vui, chẳng phảilà duyên vô lượng.

Thếnào là tâm vô lượng cũng duyên cũng tự tại ? Tức là nóichư Phật Bồ Tát.

Thếnào tâm vô lượng chẳng phải duyên chẳng tự tại ? HàngThanh Văn Duyên Giác chẳng có thể duyên rộng vô lượng chúngsanh cũng chẳng phải tự tại.

NầyThiện nam tử ! Do nghĩa đây nên gọi là bốn thứ vô lượng,chẳng phải hàng Thanh Văn Duyên Giác biết được, đây làcảnh giới của chư Phật.

Bốnthứ vô lượng như vậy, hàng Thanh Văn Duyên Giác dầu gọilà vô lượng, nhưng chỉ chút ít không đáng kể. Chư Phậtvà Bồ Tát thời đặng gọi là vô lượng vô biên.

CaDiếp Bồ Tát bạch Phật : “ Thế Tôn ! Phải lắm !Phải lắm ! Thiệt đúng như lời dạy của Phật. Bao nhiêucảnh giới của Như Lai, chẳng phải hàng Thanh Văn Duyên Giácbiết đến được. Thế Tôn ! Có Bồ Tát nào trụ nơi Đạithừa Đại Niết Bàn đặng tâm từ bi mà chẳng phải là tâmđại từ đại bi chăng ?”

Phậtnói : “Có. Nầy Thiện nam tử ! Bồ Tát nếu đối trong hàngchúng sanh phân biệt ba hạng : Một là người thân yêu, hailà kẻ oán ghét, ba là người không thương không ghét. Đốitrong những người thương yêu lại chia ba hạng : Thượng,trung, hạ. Đối với kẻ oán ghét cũng vậy. Vị Bồ Tát nầyở trong hạng thương yêu bực thượng ban cho sự vui tăng thượng.Nơi trong hạng thân yêu bực trung, bực hạ cũng bình đẳngban cho sự vui tăng thượng,. Ở nơi trong hạng oán ghét bựcthượng cho ít phần vui. Nơi trong kẻ oán ghét bực trungcho sự vui vừa vừa. Nơi trong hạng oán ghét bực hạ cho sựvui tăng thượng. Bồ Tát lần lượt tu tập thêm lên như vậy,ở trong hạng oán ghét bực thượng ban cho sự vui vừa vừa,trong hạng oán ghét bực trung, bực hạ bình đẳng cho sựvui tăng thượng. Lại tu tập thêm nơi những kẻ oán ghétthượng, trung, hạ bình đẳng ban cho sự vui tăng thượng.

Nếutrong hạng oán ghét bực thượng ban cho sự vui tăng thượng,bấy giờ đặng gọi là thành tựu tâm từ.

Lúcbấy giờ Bồ Tát đối với cha mẹ là kẻ oán ghét bực thượngtâm được bình đẳng không sai khác.

NầyThiện nam tử ! Như trên đây gọi là đặng tâm từ chẳngphải tâm đại từ.

_ BạchThế Tôn ! Do duyên gì Bồ Tát đặng tâm từ như vậy mà vẫnchẳng đặng gọi là đại từ ?

_ NầyThiện nam tử ! Bởi vì khó thành nên chẳng gọi đại từ.Do trong vô lượng kiếp thuở quá khứ chứa nhiều phiền nãochưa tu pháp lành, thế nên chẳng có thể ở nơi trong mộtngày điều phục được tâm mình.

NầyThiện nam tử ! Ví như hột đậu đá lúc đã khô lấy dùighim trọn không dính được. Phiền não cứng rắn cũng nhưvậy. Dầu một ngày đêm nhiếp tâm chẳng tán, nhưng khó điềuphục được.

Lạinhư chó nhà chẳng sợ người, còn con nai rừng thấy ngườisợ chạy. Sân khuể khó trừ như giữ chó nhà, lòng từ dễmất như nai rừng kia. Thế nên tâm nầy khó điều phục được.Do nghĩa nầy nên chẳng gọi là đại từ.

NầyThiện nam tử ! Ví nhu khắc trên đá lằn chữ còn mãi. Vẽtrên nước thời chóng mất. Sân như khắc trên đá. Các cănlành như vẽ trên nước. Vi thế nên tâm nầy khó điều phụcđược.

Nhưđống lửa lớn chói sáng được lâu. Ánh sáng của điệnchớp thoạt có, liền mất. Sân như đống lửa. Lòng từ nhưánh sáng chớp. Vì thế nên tâm nầy khó điều phục được.Do vì nghĩa nầy nên chẳng gọi là đại từ.

NầyThiện nam tử ! Bồ Tát trụ bực sơ địa gọi là đại từ.Tại sao vậy ? Vì người tột hung ác gọi là nhứt xiển đề.

BựcSơ địa Bồ Tát lúc tu Đại thừa nơi hạng nhứt xiển đềtâm không phân biệt chẳng thấy lỗi của họ nên chẳng sanhlòng sân. Do nghĩa nầy mà đặng gọi là đại từ.

NầyThiện nam tử ! Vì trừ những sự không lợi ích cho các chúngsanh, đây gọi là đại từ.

Muốncho chúng sanh được vô lượng lợi ích an vui, đây gọi làđại bi.

Đốivới các chúng sanh sanh lòng vui mừng đây gọi là đại hỷ.Không thấy có chúng sanh được ủng hộ, đây gọi làđại xả.

Nếuchẳng thấy có ngã, pháp tướng, thân mình, thấy tất cảpháp đều bình đẳng không sai khác, đây gọi là đại xả.Tự rời bỏ sự vui của mình mà đem ban cho người khác, đâygọi là đại xả,

NầyThiện nam tử ! Chỉ có bốn tâm vô lượng có thể làm choBồ Tát được đầy đủ sáu pháp Ba La Mật, những công hạnhkhác chẳng quyết định được như vậy.

NầyThiện nam tử ! Bồ Tát trước đặng bốn tâm vô lượng thếgian, vậy sau mới phát tâm vô thượng Bồ Đề, kế đó mớiđặng tâm vô lượng xuất thế. Nhơn tâm vô lượng thế gianmà được tâm vô lượng xuất thế do vì nghĩa nầy nên gọilà đại vô lượng”.

CaDiếp Bồ Tát bạch Phật : “ Thế Tôn ! Trừ sự không lợiích cùng sự lợi ích an vui thiệt không còn có việc gì đểlàm. Suy nghĩ như vậy thời là hư vọng quán sát không cólợi ích thiết thiệt.

ThếTôn ! Ví như Tỳ kheo lúc quán bất tịnh thấy y của mìnhđắp đều trở thành tướng da mà thiệt chẳng phải là da.Những thức uống ăn đều thấy thành tướng dòi trùng màthiệt chẳng phải dòi trùng. Quán bát canh đậu thành tướngphân dãi mà thiệt chẳng phải phân.

Quándầu bơ đương ăn thấy như tủy óc mà thiệt chẳng phảióc.

Quánxương nát bể dường như bột bún, mà thiệt chẳng phảibột.

Cũngvậy, bốn tâm vô lượng chẳng có thể thiết thực đem sựlợi ích an vui cho chúng sanh. Dầu miệng nói rằng ban vui chochúng sanh mà thiệt chúng sanh chẳng được vui. Tu quán nhưvậy chẳng phải là hư vọng ư !

ThếTôn ! Nếu chẳng phải hư vọng mà thiệt ban cho sự vui, cớsao chúng sanh chẳng nhờ oai lực của chư Phật Bồ Tátđặng hoàn toàn an vui tất cả.

Cònnếu quả là thiệt chẳng được an vui đó, như lời Phậtnói : Ta nhớ thuở trước riêng tu tâm từ, trãi qua bảy phenthành hoại của cõi nầy chẳng đến sanh trong nhơn gian, lúcthế giới thành sanh lên trời Phạm Thiên. Lúc thế giới hoạisanh lên trời Quang Aâm. Khi sanh lên trời Phạm Thiên ta cóoai thế tự tại tôn quí hơn hết trong ngàn cõi Phạm Thiêngọi là Đại Phạm Vương. Nếu các chúng sanh đối với tađều tưởng là bực tôn thượng thời được làm vua cõitrời Đao Lợi ba mươi sáu lần. Làm vua Chuyển Luân vô lượngtrăm ngàn lần.

Riêngtu lòng từ bèn đặng phước báu cõi trời cõi người nhưvậy. Nếu chẳng thiệt được lợi ích làm sao hiệp vớinghĩa nầy ?”

Phậtnói : “ Lành thay ! Lành thay ! Nầy Thiện nam tử ! Ông thiệtlà dũng mãnh không e sợ.

Phậtliền vì Ca Diếp Bồ Tát mà nói kệ rằng :

Đốivới một chúng sanh, Chẳng sanh lòng giận hờn, Mà muốn bancho vui, Đây gọi là từ thiện. Trong tất cả chúng sanh, Nếusanh được lòng bi, Gọi là thành chủng tánh, Đặng phướcbáo vô lượng. Giả sử Tiên Ngũ thông, Đông khắp mặt đấtnầy, Có vua chúa tự tại, Dâng cấp đủ đồ dùng : Voi, ngựa,các vật dụng, Thí cho Tiên được phước, Chẳng bằng tulòng từ, Trong một phần mười sáu.

NầyThiện nam tử ! Luận về người tu lòng từ thiệt chẳng phảivọng tưởng, mà chắc chắn là chơn thật. Nếu là lòng từcủa Thanh Văn Duyên Giác thời gọi là hư vọng. Chư PhậtBồ Tát lòng từ chơn thật chẳng hư vọng. Do đâu mà biếtnhư vậy ? Nầy Thiện nam tử ! Bồ Tát tu hành Đại NiếtBàn. Quán đất làm vàng, quán vàng làm đất, quán mặt đấtthành tướng nước, quán mặt nước thành tướng đất, nướcquán thành lửa, lửa quán thành nước, đất quán thành gió,gió quán thành đất, tùy ý thành tựu không có hư vọng. Quánchúng sanh thiệt thành chẳng phải chúng sanh, quán chẳng phảichúng sanh thành chúng sanh thiệt, đều tùy ý mà thành khôngcó hư vọng.

NầyThiện nam tử ! Nên biết bốn tâm vô lượng của Bồ Tátlà sự tư duy chân thật chẳng phải không chân thật.

NầyThiện nam tử ! Thế nào gọi là tư duy chơn thật ? Do vì cóthể dứt trừ các phiền não vậy. Luận về tu lòng từ cóthể dứt được tham dục, tu lòng bi có thể dứt được sânkhuể. Tu lòng hỷ có thể dứt được sự chẳng vui vẻ. Tulòng xả có thể dứt được tham dục, sân khuể và tướngchúng sanh.

Vìthế nên gọi là tư duy chơn thật.

NầyThiện nam tử ! Bốn tâm vô lượng của Bồ Tát có thể làmcội gốc cho tất cả hạnh lành.

BồTát nếu chẳng thấy được chúng sanh nghèo cùng thời khôngduyên để sanh lòng từ. Nếu lòng từ chẳng sanh thời khôngthể khởi tâm huệ thí. Do nhơn duyên huệ thí làm cho chúngsanh đặng an vui. Ban cho những đồ uống ăn , xe cộ, y phục,hoa hương, giường ghế, nhà cửa, đèn đuốc. Lúc ban cho nhưvậy, lòng cởi mở chẳng sanh niệm tham đắm, quyếtđịnh hồi hướng vô thượng chánh đẳng, chánh giác. Lúcđó tâm của Bồ Tát không dừng ở chỗ nào, dứt hẳn vọngtưởng, chẳng kẹt nơi sợ sệt, danh dự, tài lợi, chẳngcầu quả báo vui sướng cõi trời cõi người, chẳng kiêumạn, chẳng trông người trả ơn, chẳng vì phỉnh ngườimà làm việc bố thí, chẳng cầu giàu sang.

Phàmlúc làm việc bố thí, chẳng thấy người thọ là trì giớihay phá giới, là phước điền hay chẳng phải phước điền,là hàng tri thức hay chẳng phải tri thức, lúc bố thí cũngchẳng thấy là căn khí hay chẳng phải căn khí, chẳnglựa ngày giờ, chẳng chọn chỗ nơi, cũng chẳng tính là lúcđược mùa hay đói kém, chẳng thấy nhơn quả chẳng phânbiệt là chúng sanh hay chẳng phải chúng sanh, là phước haychẳng phải phước.

Dầulại chẳng thấy người thí kẻ thọ cùng của cải nhẫnđến chẳng thấy nhân tu cùng quả báo, mà luôn luôn làm việcbố thí không ngừng.

NầyThiện nam tử ! Bồ Tát nếu thấy người lãnh thọ là trìgiới hay phá giới v.v… nhẫn đến thấy có quả báo thờichẳng thể bố thí trọn vẹn. Nếu chẳng bố thí trọn vẹnthời không thể đầy đủ đàn ba la mật. Nếu chẳng đầyđủ đàn ba la mật thời không thể thành vô thượng chánhđẳng chánh giác.

NầyThiện nam tử ! Ví như có người thân bị trúng tên độc.Quyến thuộc của người đó vì muốn cho người đó đượcan ổn liền mời lương y đến để nhổ tên độc.

Ngườiđó nói đừng động đến chờ tôi quan sát coi mũi tên độcnầy từ phương nào bay đến, của ai bắn, người bắn làdòng nào : Là Sát Đế Lợi hay Bà La Môn, là Tỳ Xá hay ThủĐà. Nghiệm coi mũi tên làm bằng cây, bằng tre hay bằng gỗliễu. Mũi sắt từ lò nào rèn, cứng hay mềm, đuôi lông vàlông cánh chim gì, chim quạ hay kên kên. Chất độc tẩmtrong mũi tên tự nhiên mà có hay chế ra, là độc của loàingười hay độc của loài rắn.

Ngườingu si đó chưa biết được mà đã chết.

NầyThiện nam tử ! Cũng vậy, Bồ Tát nếu lúc làm việc bố thíphân biệt người thọ là trì giới hay phá giới, nhẫn đếnphân biệt quả báo, thời chẳng bố thí trọn vẹn

Nếuchẳng bố thí trọn vẹn thời chẳng đầy đủ đàn ba lamật. Nếu chẳng đầy đủ đàn ba la mật thời chẳng đặngthành vô thượng chánh đẳng chánh giác.

NầyThiện nam tử ! Lúc làm việc bố thí Bồ Tát đối với chúngsanh lòngtừ bình đẳng tưởng như con mình. Lại lúc làm việcbố thí, đối với các chúng sanh Bồ Tát sanh lòng thươngxót như cha mẹ săn sóc đứa con đang đau ốm. Lúc làm việcbố thí, lòng Bồ Tát vui mừng như cha mẹ thấy con lành mạnh.

Saukhi đã bố thí lòng Bồ Tát buông bỏ như cha mẹ thấy conkhôn lớn đã có thể tự sanh sống.

VịBồ Tát nầy ở trong tâm từ, lúc bố thí thức ăn thườngnguyện như vầy : Nay những đồ ăn của ta bố thí đều chochung tất cả chúng sanh, do nhơn duyên nầy làm cho chúng sanhđặng có trí huệ lớn, siêng tu hồi hướng đại thừa vôthượng. Nguyện các chúng sanh đặng có trí lành chẳng cầubáo Thanh Văn và Duyên Giác. Nguyện các chúng sanh đặng mónăn pháp hỷ chẳng cầu món ăn ái nhiễm. Nguyện các chúngsanh đều đặng món ăn Bát Nhã Ba La Mật, đều được đầyđủ phương tiện vô ngại, thêm lớn căn lành. Nguyện cácchúng sanh hiểu thấu tướng vô đắc, thân vô ngại dườngnhư hư không. Nguyện các chúng sanh thường làm người lãnhthọ, thương xót tất cả mọi loài mà làm phước điền chochúng.

NầyThiện nam tử ! Lúc tu lòng từ khi đem thức ăn bố thí nênphải phát những điều nguyện như trên.

NầyThiện-nam-tử ! Như nơi ngã tư đường có người đựng đầyđồ ăn thơm ngon trong chậu, trong bát, bày ra để bán. Cóngười khách từ xa đến quá đói, thấy đồ ăn ấy thơmngon, liền hỏi đây là vật gì ? Người bán nói : Đây làđồ ăn thơm ngon, nếu ai ăn thứ nầy, thời đặng sắc tốt,sức mạnh, có thể hết đói, hết khát và đặng thấy chưThiên. Nhưng chỉ có một tai hại là sẽ chết. Ngườikhách nghe xong nghĩ rằng : Nay tôi chẳng dùng sắc đẹp, sứcmạnh, thấy chư Thiên, vì tôi chẳng muốn chết. Nghĩ xonghỏi rằng : Ăn vật thực nầy nếu phải chết sao ông lạiđem bán.

Ngườibán đáp : Những người có trí không ai bằng lòng mua. Chỉcó kẻ ngu, chẳng biết việc nầy, họ tham ăn nên họ trảgiá đắt cho tôi.

NầyThiện-nam-tử ! Đại-Bồ-Tát cũng như vậy, chẳng nguyệnsanh cõi trời, đặng sắc đẹp, đặng sức mạnh, thấy chưThiên, vì sanh cõi trời chẳng khỏi những khổ não. Kẻ phàmphu ngu si sanh chỗ nào cũng đều tham luyến vì họ chẳng thấygìa, bệnh, chết.

NầyThiện-nam-tử ! Ví như cây độc, gốc rễ cũng có thể giếtngười, thân cây, vỏ, bông, trái, hột đều cũng có thểgiết người. Tất cả thân ngũ ấmtrong hai mươi lăm cõi đềucó thể hại chúng sanh cũng như vậy.

NầyThiện-nam-tử ! Ví như phân nhơ, nhiều hay ít đều hôi cả.Cũng vậy, thọ sanh dầu sống lâu tám muôn tuổi hay mườituổi cũng đều khổ não cả.

NầyThiện-nam-tử ! Ví như hầm sâu nguy hiểm, lấy cỏ che trênmiệng hầm, bờ bên kia của hầm có mạch cam-lồ, ngườinào được ăn chất cam lồ, sẽ sống lâu ngàn năm không bệnhtật, an ổn , khoan khoái. Kẻ ngu si tham chất cam lồ, chẳngbiết dưới đó có hầm sâu, bèn chạy đến lấy, chẳng ngờtrật chơn té xuống hầm mà chết. Người trí biết sự nguyhiểm, nên không đến lấy chất cam-lồ.

Đại-Bồ-Tátcũng như vậy còn chẳng muốn nhận lấy vật thực thượngdiệu cõi trời huống là tong loài người. Kẻ phàm phu bènở nơi địa ngục nuốt hoàn sắt, huống là thức ăn thượngdiệu cõi trời cõi người mà có thể chẳng ăn.

NầyThiện-nam-tử ! Do những điều thí dụ như vậy, ngoài ra cònvô lượng thí dụ khác, nên biết thọ sanh thiệt là rấtkhổ.

Đâygọi là Đại-Bồ-Tát trụ nơi kinh Đại-thừa Đại-Niết-Bànquán sát sanh là khổ.

NầyThiện-nam-tử ! Đại-Bồ-tát trụ nơi kinh Đại-thừa Đại-Niết-Bànquán sát lão là khổ như thế nào ?

Sựgià yếu hay làm ho hen, ngăn nghẹn hơi, đưa lên, có thể làmmất sức mạnh, trí nhớ kém, sự tráng kiện không còn, mấtsự an vui thơ thới, khoan khoái. Tuổi già hay làm lưng còm,mỏi nhọc, lười biếng, bị người khi dể.

NầyThiện-nam-tử ! Ví như hoa sen nở tốt đầy trong ao nướcrất đáng ưa thích, gặp trận mưa đá, tất cả đều hưnát. Cũng vậy, tuổi già có thể phá hoại tráng kiện, sắcđẹp.

NầyThiện-nam-tử ! Ví như quốc vương có một trí thần dùngbinh giỏi. Có vua nước địch chống cự chẳng thuận hảo.Quốc vương sai trí thần đem binh qua đánh, bắt vua nướcnghịch mang về dưng cho quốc vương. Cũng vậy, tuổi già bắtđược tráng kiện, sắc đẹp đem giao cho tử vương.

NầyThiện-nam-tử ! Ví như trục xe đã gãy, xe đó không còn dùngđược. Cũng vậy, già suy thời không còn dùng được vàoviệc gì.

NầyThiện-nam-tử ! Như nhà giàu to có nhiều của báu : Vàng ,bạc, lưu ly, san hô, hổ phách, xa cừ, mã não. Có bọn cướpnếu vào đặng nhà đó thời có thể cướp giựt hết cả.Cũng vậy, tuổi tráng kiện và sắc đẹp thường bị giặcgià suy cướp giựt.

Nầythiện-nam-tử ! Ví như người nghèo tham thức ăn ngon, y phụcmịn màng, dầu có hy vọng nhưng không thể được. Cũng vậy,tuổi già suy dầu có tâm than, muốn hưởng thọ ngũ dụcsung sướng mà chẳng thể đặng.

NầyThiện-nam-tử ! Như con rùa ở trên đất cao lòng nó thườngnghĩ đến nước. Cũng vậy, người đời đã già suy khô héomà lòng họ thường nhớ tưởng những khoái lạc ngũ dụcthuở tráng kiện.

Nầythiện-nam-tử ! Như mùa thu ai cũng ưa ngắm hoa sen nở, đếnkhi hoa tàn héo, mọi người đều không thích. Cũng vậy, sựtráng kiện, sắc đẹp mọi người đều ưa thích, đến khigià suy ai cũng nhàm ghét.

Nầythiện-nam-tử ! Ví như cây mía, sau khi bị ép, bã xác khôngcòn vị ngọt. Cũng vậy, tráng kiện sắc đẹp đã bị giàép, thời không có ba thứ vị : Một là vị xuất gia, hai làvị đọc tụng, ba là vị tọa thiền.

NầyThiện-nam-tử ! Ví như mặt trăng tròn ban đêm thời tỏ sáng,ban ngày thời không như vậy. Cũng vậy, tráng kiện thời hìnhmạo nở nang xinh đẹp, già thời suy yếu, thân thể và tinhthần kém suy.

NầyThiện-nam-tử ! ví như có nhà vua thường dùng chánh pháp caitrị nhơn dân, chơn thật, không lừa dối, từ bi ưa bố thí.Thuở đó nhà vua bị nước địch xâm lăng đánh bại, bènlưu vong đến nước khác. Nhơn dân trong nước kia thấy nhàvua đều cảm thương nói rằng : Đại-vương ngày trước dùngchánh pháp trị nước chẳng uổng lạm bá tánh, thế sao naylại lưu vong đến đây. Cũng vậy, loài người đã bị giàsuy làm bại hoại, thời thường tán thán sự nghiệp đã làmthuở tráng kiện.

NầyThiện-nam-tử ! Ví như tim đèn dầu nhờ mỡ dầu nhưng mỡdầu sẽ hết, thế chẳng lâu dài. Cũng vậy, thân ngườidầu nhờ cậy sự tráng kiện, nhưng tráng kiện phải trảiqua già suy, đâu còn được dùng lâu.

NầyThiện-nam-tử ! Ví như con sông cạn khô không có thể lợiích cho ngưới, cho phi nhơn, chim thú. Cũng vậy, thân ngườibị già suy khô héo, không còn làm được việc gì, chẳngthể có lợi ích.

NầyThiện-nam-tử ! Ví như cây cheo leo bờ sông, nếu gặp gióto, ắt sẽ đổ ngã. Như vậy đến tuổi già ắt phải chết,thế chẳng thể còn được.

NầyThiện-nam-tử ! Như trục xe đã gãy, không thể chở chuyên.Cũng vậy, già suy không thể học hỏi tất cả pháp lành.

NầyThiện-nam-tử ! Như trẻ thơ bị người khinh khi. Cũng vậy,già suy thường bị người khinh hủy.

NầyThiện-nam-tử ! Do những điều dụ như vậy cùng vô lượngthí dụ khác nên biết sự già thiệt là rất khổ.

Đâygọi là Đại-Bồ-Tát tu hành kinh Đại-thừa Đại-Niết-Bànquán sát già là khổ.

NầyThiện-nam-tử ! Đại-Bồ-Tát trụ nơi kinh Đại-thừa Đại-Niết-Bànquán sát bịnh khổ như thế nào ?

Vínhư mưa đá làm hại mạ lúa. Cũng vậy, tật bệnh có thểphá hoại tất cả những sự an ổn vui vẻ.

Nhưngười có oán thù , tâm thường lo rầu sợ sệt. Cũng vậy,tất cả chúng sanh thường bị bịnh khổ, lo rầu không yên.

Vínhư có người hình dung xinh đẹp, Vương-phi tâm dục yêu thương,sai sứ đòi đến để cùng giao thông. Vua bắt đặng, liềntruyền lịnh khoét một mắt,cắt một vành tai, chặt mộttay, một chân, bấy giờ người đó hình dung đổi khác bịngười nhờm gớm khinh rẻ. Cũng vậy, thân người trướcthời dung mạo tươi tốt, tai mắt đầy đủ, đã bị bịnhkhổ hành hạ, thời xấu xa bị người nhờm gớm.

Nhưcây chuối, cây tre, cây lau, cây la, hễ có con, có trái thìchết. Cũng vậy, người có bịnh thời chết.

Nhưvua Chuyển-Luân, đại thần, chủ binh thường làm tiền đạođi trước, nhà vua theo sau cũng như chúa cá, chúa kiến, chúaốc, chúa trâu, thương chủ, lúc ở trước chúng mà đi, thờitoàn chúng thảy đều đi theo không rời. Cũng vậy, sựchết thường theo sát bịnh khổ không rời.

NầyThiện-nam-tử ! Nhơn duyên của bịnh làm cho khổ não, rầulo, buồn than, thân tâm không an ổn. Hoặc bị kẻ giặc cướpbức hại, trái nổi bể hư, phá hoại cầu cống, đều cũngcó thể cướp giựt mạng sống. Bịnh lại có thể phá hoạisự tráng kiện, sắc đẹp, thế lực, an vui, mất lòng tàmquý, có thể làm cho thân tâm xót xa bức rức.

Donhững điều dụ đó và vô lượng thí dụ khác, nên biếtbịnh rất là khổ não.

Đâygọi là Đại-Bồ-Tát tu hành kinh Đại-thừa Đại-Niết-Bànquán sát bịnh khổ.

Nầythiện-nam-tử ! Thế nào là Đại-Bồ-Tát tu hành kinh Đại-thừaĐại- Niết-Bàn quán sát tử khổ ? Sự chết có thể đốtcháy tiêu diệt. Như hỏa tai khởi lên có thể đốt cháy tấtcả, chỉ trừ cõi trời nhị thiền trở lên, vì thế lựccủa hỏa tai chẳng đến được. Cũng vậy, sự chết có thểtiêu diệt tất cả, chỉ trừ Bồ-Tát trụ nơi Đại-thừaĐại-Niết-bàn vì thế lực của sự chết không đến được.

Nhưlúc thủy tai khởi lên, tất cả đều trôi, đều ngập,chỉ trừ cõi tam-thiền trở lên, vì thế lực của thủy taichẳng đến được. Cũng vậy, sự chết làm chìm mất tấtcả, chỉ trừ Bồ-Tát trụ nơi Đại-thừa Đại-Niết-Bàn.

Nhưlúc phong tai khởi lên, có thể thổi tan tất cả, chỉ trừcõi tứ thiền, vì thế lực của phong tai chẳng đến được.Cũng vậy, sự chết có thể tiêu diệt tất cả, chỉ trừBồ-Tát trụ nơi Đại-thừa Đại-Niết-Bàn.

Ca-Diếp-Bồ-Tátbạch Phật : “ Thế-Tôn ! Cõi Tứ-thiền kia do cớ gì màgió không thổi đến, nước chẳng ngập đến, lửa chẳngcháy đến ?”

_ NầyThiện-nam-tử ! Cõi Tứ-Thiền kia không có tất cả quá hoạntrong thân và ngoại cảnh.

CõiSơ- Thiền có quá hoạn : Trong có giác quán, ngoài có hỏatai.

CõiNhị-Thiền có quá hoạn : Trong có vui mừng, ngoài có thủytai.

CõiTam-Thiên có quá hoạn : Trong có hơi thở, ngoài có phong tai.

CõiTứ-Thiền trong ngoài đều không quá hoạn, nên ba thứ taihọa lớn chẳng thể đến được.

Đại-Bồ-Tátcũng như vậy, an trụ nơi Đại-thừa Đại-Niết-Bàn, trongngoài đều không tất cả quá hoạn, nên sự chết chẳng đếnđược.

Lạinầy Thiện-nam-tử : Như Kim-Súy-Điểu có thể nuốt, có thểtiêu tất cả loài rồng, cá và châu báu, vàng, bạc vân vân,chỉ trừ chất kim cương không tiêu được. Cũng vậy, sựchết có thể nuốt, có thể tiêu tất cả chúng sanh, chỉkhông tiêu được Đại-Bồ-tát trụ nơi Đại-Thừa Đại-Niết-Bàn.

Lạinầy Thiện-nam-tử ! Ví như những cỏ cây ở bờ sông, nướclụt dưng lên đều trôi theo dòng vào biển lớn, chỉ trừcây dương liễu, vì thứ cây nầy mềm dẽo. Cũng vậy, tấtcả chúng sanh đều trôi lăn vào biển chết, chỉ trừ Bồ-Táttrụ nơi Đại-thừa Đại-Niết-Bàn.

Lạinầy Thiện-nam-tử ! Như thần Na-La-Diên có thể hàng phụctất cả lực sĩ, chỉ trừ gió to, vì gió to vô ngại. Cũngvậy, sự chết có thể hàng phục tất cả chúng sanh, chỉtrừ Bồ-Tát trụ nơi Đại-thừa Đại-Niết-Bàn, vì bậcnầy vô ngại.

Lạinầy Thiện-nam-tử ! Ví như có người đối với kẻ thù giảlàm thân thiện, theo sát bên như bóng theo hình, chờ khi thuậntiện mà giết đó, nếu phòng bị chặt chẽ, thời ngườikia không hại được. Cũng vậy, sự chết luôn theo rình chúngsanh chờ dịp làm hại, chỉ không thể hại được bậc Đại-Bồ-Táttrụ nơi Đại-thừa Đại- niết-bàn, vì bậc Bồ-Tát nầychẳng phóng dật.

Lạinầy Thiện-nam-tử ! Ví như trời bỗng mưa kim cương xốixuống tất cả cỏ cây, núi rừng, đất cát, ngói, đá, vàng,bạc, lưu ly, cùng tất cả vật đều bị hư nát, chỉ kimcương chơn bảo không bị hư. Cũng vậy, sự chết đều cóthể phá hoại tất cả chúng sanh, chỉ trừ kim cương Bồ-Táttrụ nơi Đại-thừa Đại-Niết-Bàn.

Lạinầy Thiện-nam-tử ! Như Kim-súy-điểu có thể nuốt các loàirồng, chỉ không nuốt được rồng thọ Tam-quy-y. Cũng vậy,sự chết có thể nuốt tất cả chúng sanh, chỉ trừ Bồ-Táttrụ ba môn chánh định : Không, vô tướng vô nguyện.

Lạinầy Thiện-nam-tử ! Như độc rắn ma-la, khi rắn nầy cắnnhằm người, những chú hay, thuốc tốt đều không cứu được,chỉ có chú A-Kiệt Đa-Tinh là có thể chữa lành. Cũng vậy,sự chết tất cả phương thuốc đều không cứu được, chỉtrừ Bồ- Tát trụ nơi Đại-thừa Đại-Niết-Bàn.

Lạinầy Thiện-nam-tử ! Như có người bị nhà vua giận, có thểdùng lời dịu dàng khéo léo, dâng của cải châu báu mà đặngkhỏi tội. Sự chết không như vậy, dầu dùng lời nói dịudàng, tiền của châu báu để cống dưng cũng chẳng thoátkhỏi.

NầyThiện-nam-tử ! Luận về sự chết là chỗ hiểm nạn, khônggì giúp đỡ, đi đường xa xôi mà không bạn bè, ngày đêmđi luôn chẳng biết bờ mé, sâu thẳm tối tăm, không có đènđuốc, nó vào không có cửa nẻo mà có chỗ nơi, dầu khôngchỗ đau đớn nhưng chẳng thể chữa lành, nó qua không aingăn được, nó đến không thể thoát được, không phá pháchgì mà người thấy sầu khổ, nó không phải màu sắc xấuxa mà làm cho người kinh sợ. Nó ở bên thân người mà chẳnghay biết được.

NầyCa-Diếp Bồ-Tát, do những điều dụ đó cùng vô lượng thídụ khác, nên biết sự chết thật là rất khổ.

Đâygọi là Đại-Bồ-Tát tu hành kinh Đại-thừa Đại-Niết-Bànquán sát tử khổ.

NầyThiện-nam-tử! Thế nào là Đại-Bồ-Tát trụ nơi kinh Đại-thừa Đại-Niết-Bàn quán sát ái-biệt-ly khổ ? Ái biệt-ly nầy có thể làmcội gốc cho tất cả sự khổ. Như nói bài kệ rằng :

Nhơnái sanh lo, Nhơn ái sanh sợ, Nếu lìa sự ái, Nào lo nào sợ.

Vìái nên sanh sự lo khổ, vì lo khổ nên làm cho chúng sanh cógià suy. Ái- biệt-ly khổ là nói sự chết. Vì biệt-ly haysanh những sự khổ vi-tế, nay sẽ vì ông mà phân biệt rõràng.

NầyThiện-nam-tử ! Thuở quá khứ người sống vô lượng tuổi,có quốc vương tên là Thiện-Trụ nhà vua trị nước tám muônbốn ngàn năm. Trên đỉnh đầu của vua mọc lên một bứuthịt mềm nhuyễn như bông. Bứu ấy lần lần to lớn, khônglàm đau nhức. Mãn mười tháng, bứu ấy nứt ra, sanh mộtđồng tử hình dung đẹp lạ. Nhà vua vui mừng đặt tên làĐãnh-Sanh.

Thờigian sau vua Thiện-Trụ đem việc nước giao cho Thái-tử Đảnh-Sanh,tồi rời bỏ cung điện quyến thuộc vào núi tu hành. Ngàyrằm Thái-Tử Đảnh-Sanh lên ngôi, đương ở trên lầu caotắm gội trai giới, phương Đông liền có báu kim- luân, bánhxe vàng đủ một ngàn cây căm tự nhiên bay đến. Vua Đảnh-Sanhnghĩ rằng : Từng nghe Ngũ-Thông tiên nhơn nói : Nếu dòng vuaSát-Đế-Lợi ngày rằm ở trên lầu cao tắm gội trai giới,có báu kim luân đủ ngàn cây căm tự nhiên bay đến, thời nhà vua đó sẽ đặng làm Chuyển-Luân Thánh-Vương. Nay ta nênthí nghiệm. Nghĩ xong, vua Đảnh-Sanh tay tả bưng báu kim-luân,tay hửu cầm lư hương, qùy gối bên mặt mà phát thệ rằng: Nếu đây thiệt là báu kim-luân, thời nên bay đi như vuaChuyển-Luân Thánh-Vương thuở quá khứ. Nhà vua phát thệ vừaxong, thời báu kim-luân bay lên hư không, bay khắp mười phương,rồi trở về dừng lại trên tay tả vua Đảnh-Sanh. Nhàvua vui mừng biết chắc mình sẽ là Chuyển-Luân Thánh-Vương.

Sauđó không bao lâu, có tượng bảo xuất hiện, mình trắng nhưbạch liên-hoa, xinh đẹp, mạnh mẽ đôi ngà chấm đất. Vìmuốn thí nghiệm vua Đảnh-Sanh liền bưng lư hương quì gốibên hữu mà phát thệ rằng : Nếu thật là báu bạch tượngnên bay đi như thuở vua Chuyển-Luân Thánh-Vương quá khứ.Phát thệ xong, bạch tượng liền từ sáng đến chiều bayđi khắp tám phương, tột đến mé biển, rồi trở về cungvua. Kế đó lại có Mã-bửu xuất hiện, lông màu xanh biếcmướt đẹp, lông đuôi cùng gáy màu vàng ròng. Vì muốn thínghiệm vua Đảnh-Sanh tay bưng lư hương quì gối bên hữu phátthệ rằng : Nếu thiệt là Mã-bảo thời phải như củavua Chuyển-Luân Tánh-Vương thuở quá khứ. Phát thệ xong, từsáng đến chiều, Mã-bảo ấy đi khắp tám phương, đến mébiển rồi trở về cung vua.

Kếđó lại có Nữ-bảo xuất hiện xinh đẹp đệ nhứt, chơnlông thoảng mùi chiên đàn, hơi miệng thơm sạch như hoa senxanh, mắt sáng nhìn xa một do tuần, tai nghe, mũi ngữicũng xa như mắt, lưỡi rộng lớn le ra có thể trùm cả mặt,da mịn láng như lá đồng đỏ, rất thông minh có trí huệ,lời nói dịu dàng đối với tất cả mọi người. Tay ngườiấy lúc chạm đến áo của vua, liền biết thân vua khỏe mạnhhay bịnh hoạn, cũng biết những ý nghĩ của vua.

Kếđó trong cung vua tự nhiên có Ma-ni bảo châu lớn bằng bắpvế của người, màu thuần xanh, trong suốt, trong chỗ tốicó thể chiếu sáng một do tuần. Nếu trời mưa giọt lớnnhư trục xe, thế lực của bảo châu nầy có thể che mộtdo tuần, giọt mưa không rơi xuống được.

Sauđó, lại có Chủ- tạng thần hiện ra, cặp mắt có thể thấythấu những kho châu báu ở trong lòng đất, tùy ý vua muốnđều có thể dưng đủ. Vua Đảnh-Sanh muốn thí nghiệm bèncùng Chủ-tạng thần ngồi thuyền ra biển, vua bảo chủ-tạngthần : Nay ta muốn đặng châu báu. Chủ-tạng thần liền lấyhai tay quậy nước biển, đầu mười ngón tay liền hiện ramười kho châu báu lấy dưng cho vua tâu rằng : “Tùy ý nhàvua chọn dùng, còn thừa lại nên ném trả xuống biển.”

Kếđó lại có chủ-binh thần xuất hiện, thao lược đệ nhứt,điều khiển bốn binh chủng rất giỏi. Lúc vua cần binh thờihiện quân lính ra để dùng. Lúc chẳng dùng binh, thời quânlính ẩn mất. Xứ nào chưa hàng phục chủ binh thần nầycó thể làm cho hàng phục. Xứ nào đã hàng phục, thời đủsức giữ gìn.

Lúcđó vua Đảnh-Sanh tự biết là Chuyển-Luân -Vương, bèn bảocác quan :
“Cõi Diêm-Phù-Đề nầy an ổn giàu vui, nay bảy báu đã đủ,cả ngàn vương tử cũng đủ, giờ đây nên làm việc gì ?”

Cácquan tâu : “ Châu Phất-Bà-Đề phương Dông còn chưa qui thuận,đại vương nên đem binh qua chinh phục.”

VuaĐảnh-Sanh bèn cùng thất-bảo bay qua châu Phất-Bà-Đề, nhơndân trong châu đó đều vui mừng qui thuận.

Cácquan lại tâu nên chinh phục châu Cù-Đà-Ni ở phương Tây. Kế đó lại đến chinh phục châu Uất-Đơn-Việt. Sau khi chinhphục ba châu xong. Vua Đảnh-Sanh bảo các quan : “ Châu Nam-Diêm-Phù-Đềnày cùng ba châu đều an onå giàu vui, tất cả đều qui thuậnta, nay đây lại nên làm việc gì ?”

Cácquan tâu : “ Cõi trời Đao-Lợi tuổi thọ dài lâu , an ổn,khoái lạc, thân chư Thiên xinh đẹp hơn nhơn gian, cung điệnnhẫn đến giường ghế toàn bằng bảy báu, cậy phước trờichưa chịu đến qui phục, nay nên đem binh đánh dẹp.”

VuaĐảnh-Sanh lại cùng thất bảo bay lên cõi trời Đao-Lợi,trông thấy một cây màu xanh đậm bèn hỏi đại thần : Đólà cây gì ?

Đại-thầntâu : Cây ấy tên là Ba-Lợi-Chất-Đa-La, chư Thiên cõi Đao-Lợinầy đến ngày mùa hạ thường tựu hợp vui chơi dưới câyđó.

Lạitrông thấy màu trắng như bạch vân, vua Đảnh-Sanh hỏiđại thần chỗ đó là gì ? Đại-thần tâu đó là thiện-pháp-đường,chư thiên cõi Đao-Lợi thường nhóm nơi đó để bàn luậnnhững việc cõi trời cõi người.

Thiên-ChúaThích-Đề-Hoàn-Nhơn biết vua Đảnh-Sanh đã đến, liền ratiếp rước, cầm tay vào thiện-pháp-đường lên tòa mà ngồi.Hai vua hình dung tướng mạo giống nhau, chỉ có đôi mắt nhìnnháy là khác nhau.

Lúcđó vua Đảnh-Sanh nghĩ rằng : nay ta có thể đuổi thiên-chúanầy để ta ở đây làm thiên-vương.

Thiên-Đế-Thíchvốn thọ trì đọc tụng kinh điển Đại-thừa, thường vìchư Thiên giảng thuyết, chỉ chưa thông đạt hết thâm nghĩacủa kinh. Do thọ trì giảng thuyết Đại-thừa nên Thiên-Đếcó oai đức hơn.

Khivua Đảnh-Sanh khởi ác tâm đối với Thiên-Đế, tổn phướcliền tự rớt xuống Diêm-Phù-Đề, nhớ tiếc cõi trời lòngrất khổ não. Không bao lâu vua Đảnh-Sanh phải bịnhchết.

NầyThiện-nam-tử ! Thiên-Đế thuở đó chính là Phật Ca-Diếp,vua Đảnh-Sanh thời là tiền thân của ta.

NầyThiện-nam-tử ! Phải biết ái-biệt-ly như vậy rất là khổnão.

NầyThiện-nam-tử ! Đại-Bồ-Tát còn nhớ những trường hợpái-biệt-ly khổ thuở quá khứ, huống là Bồ-Tát trụ nơikinh Đại-Thừa Đại-Niết-Bàn mà nên chẳng quán sát sựái-biệt-ly khổ trong đời hiện tại !

NầyThiện-nam-tử ! Thế nào là Đại Bồ-Tát tu hành kinhĐại-thừa Đại- Niết-Bàn quán sát oán-tằng-hội khổ ?

Đại-Bồ-Tátnầy quán sát địa ngục, súc sanh, ngạ quỉ, loài người,trên trời đều có sự oán-tằng-hội-khổ như vậy.

Vínhư có người quán sát lao ngục giam nhốt, gông xiềng làrất khổ. Cũng vậy, Đại-Bồ-Tát quán sát năm loài chúngsanh đều là oán-tằng-hội-hiệp rất khổ sở.

Vínhư có người thường sợ kẻ oán thù, gông cùm, xiềng xích,nên bỏ cha mẹ, vợ con, quyến thuộc, cùng của báu sản nghiệpmà trốn lánh đi xa. Cũng vậy, Đại-Bồ-Tát sợ sanh tử,nên tu hành sáu môn Ba-La-Mật, chứng nhập Niết- Bàn. Đâygọi là Bồ-Tát tu hành Đại-thừa Đại-Niết-Bàn quán sátoán-tằng-hội khổ.

NầyThiện-nam-tử ! Thế nào là Đại-Bồ-Tát tu hành Đại-thừaĐại-Niết- Bàn quán sát cầu-bất-đắc khổ ?

Cầulà mong cầu tất cả , có hai thứ : Một là cầu pháp lành,hai là cầu pháp chẳng lành. Cầu pháp lành mà chưa đặngthời khổ, pháp ác muốn rời mà chưa rời được thời khổ.

Đâylà lược nói ngũ- ấm-thạnh khổ. Đây gọi là khổ đế.

Ca-diếpBồ-Tát bạch Phật : “ Thế-Tôn ! Như lời Phật nói, ngũấm thạnh khổ nghĩa đó chẳng phải. Vì như ngày trướcPhật bảo Thích-Ma-Nam : Nếu sắc là khổ, tất cả chúng sanhlẻ ra chẳng nên cầu sắc, nếu có người cầu thời chẳnggọi là khổ. Lại như Phật bảo các Tỳ-kheo thọ có ba thứ: Khổ thọ, lạc thọ, bất khổ bất lạc thọ. Lại như lúctrước đức Phật nói với các Tỳ-kheo : Nếu người nàocó thể tu hành pháp lành thời đặng thọ lạc. Lại như đứcPhật nói : Ở trong đường lành sáu căn lãnh thọ sáu cảnhvui : Mắt thấy sắc đẹp là vui, tai, mũi, lưỡi, thân nhẫnđến ý suy nghĩ pháp lành cũng như vậy.

NhưPhật từng nói kệ :

Trìgiới thời là vui, Thân chẳng thọ sự khổ. Ngủnghỉ đặng an ổn, Thức dậy lòng vui vẻ. Lúc nhậnlấy y thực, Đọc tụng và kinh hành, Ở riêng nơinúi rừng, Như vậy là rất vui. Nếu đối với chúngsanh, Ngày đêm tu lòng từ, Nhơn đây được thườngvui, Vì chẳng hại người khác. Ít muốn biết đủ vui, Học rộng biết nhiều vui, A-La-Hán không chấp, Cũnggọi là thọ vui, Các vị Đại Bồ-Tát, rốt ráođến bờ kia. Những việc làm đã xong, Đây gọilà rất vui.

Thế-Tôn! Trong các bộ kinh nói về tướng vui ý nghĩa như vậy. Thếnào tương ứng với nghĩa của Phật nói hôm nay ?

Phậtbảo Ca-Diếp Bồ-Tát : “ Lành thay ! Lành thay ! Ông khéocó thề thưa hỏi đức Như-Lai những nghĩa như vậy.

NầyThiện-nam-tử ! Tất cả chúng sanh đối với sự khổ hạnghạ tưởng lầm là vui. Vì thế nên nay ta nói tướng khổkhông khác với ngày trước đã nói.

Ca-DiếpBồ-Tát bạch Phật : “ Như lời Phật hỏi : Đối vớisự khổ hạng hạ tưởng cho là vui, thời sanh, lão, bệnh,tử hạng hạ cùng ái-biệt-ly, cầu-bất-đắc, oán- tằng-hội,ngũ-ấm-thạnh hạng hạ, những sự khổ như vậy lẽ ra cũngnên có vui.

Thế-Tôn! Sanh hạng hạ là ba ác thú, sanh hạng trung là loài người,sanh hạng thượng là trên trời.

Nếulại có người hỏi rằng : Nếu ở nơi sự vui hạng hạ tưởngcho là khổ, trong sự vui hạng trung tưởng cho là không khổkhông vui. Trong sự vui hạng thượng tưởng cho là vui, thờiphải trả lời thế nào ?

Thế-Tôn! Nếu trong sự khổ hạng hạ tưởng cho là vui, chưa thấycó người nào sẽ bị phạt đánh ngàn trượng, lúc mới đánhmột trượng đầu mà đã tưởng là vui. Nếu lúc đánhtrượng đầu chẳng tưởng là vui, thế sao nói rằng : Nơitrong sự khổ hạng hạ mà tưởng cho là vui ?”

Phậtbảo Ca-Diếp Bồ-Tát : “ Phải lắm ! Phải lắm ! Đúng nhưlời ông nói. Do nghĩa nầy nên không có tưởng là vui, vìnhư người tội kia sẽ bị phạt đánh ngàn trượng, khi bịđánh một trượng rồi liền đặng tha. Người nầy bèn sanhlòng vui. Vì thế nên biết rằng trong sự không vui lầm tưởnglà vui.”

Ca-DiếpBồ-Tát bạch Phật : Thế-Tôn ! Người đó chẳng vì bị đánhmột trượng mà sanh vui. Chính vì đặng tha mà sanh lòngvui.

_ NầyThiện-nam-tử ! Vì thế nên ta ngày trước nói với Thích-Ma-Namtrong ngũ ấm có vui, lời đó là đúng, thiệt chẳng phảimâu thuẩn vậy.

NầyThiện-nam-tử ! Có ba thọ và ba khổ. Ba thọ là : Lạc thọ,khổ thọ và bất khổ bất lạc thọ. Ba khổ là : Khổ-khổ,hành khổ, hoại khổ.

NầyT.hiện-nam-tử ! Khổ thọ chính là cả ba món khổ : Khổ-khổ,hành khổ và hoại khổ. Hai món thọ kia chính là hành khổvà hoại khổ. Do đây nên trong sanh tử thiệt có lạc thọ.Đại-Bồ-Tát thấy tánh khổ cùng tánh lạc chẳng rời lìanhau nên nói rằng tất cả đều khổ.

NầyThiện-nam-tử ! Trong sanh tử thiệt không có vui, vì chư Phật Bồ-Tát tùy thuận thế gian nên nói là có vui.

Ca-DiếpBồ-Tát bạch Phật : “ Thế-Tôn ! Chư Phật và Bồ-Tát nếutùy theo thế tục mà nói, thời là có hư vọng chăng ? NhưPhật thường nói, người tu hành pháp lành thời thọ quảbáo vui. Trì giới an vui thân chẳng thọ khổ, nhẫn đến việclàm đã xong đây là rất vui. Lời nói thọ vui trong các kinhnhư vậy, chừng có hư vọng chăng . Nếu là hư vọng, thờichư Phật Thế-tôn trong vô lượng trăm ngàn muôn ức a-tăng-kỳ-kiếptu hành đạo bồ-đề đã lìa vọng ngữ. Nay Phật nói nhưvậy ý nghĩa thế nào ?

_ NầyThiện-nam-tử ! Như bài kệ nói về những sự thọ lạc trướckia chính là cội gốc của đạo Bồ-Đề, cũng có thể trưởng-dưỡngvô thượng bồ-đề. Do nghĩa đó nên trong những kinh trướcnói tướng vui như vậy.

Vínhư trong thế gian những đồ cần dùng cho đời sống, cóthể làm nhơn cho sự vui, nên gọi là vui. Như nữ sắc, rượuuống, đồ ăn ngon, lúc khát được nước, lúc lạnh đượclửa, y phục, chuỗi ngọc, voi ngựa, xe cộ, tôi tớ, vàng,bạc, lưu ly, san hô, chơn châu, kho đựng lúa gạo, những vậtnhư vậy người đời cần dùng có thể làm nhơn cho sự vuinên gọi là vui.

NầyThiện-nam-tử ! Những vật như vậy cũng có thể sanh sự khổ.Nhơn nơi nữ sắc sanh sự khổ, lo, rầu, buồn, khóc nhẫnđến phải chết cho người nam. Nhơn nơi rượu, đồ ăn ngon,nhẫn đến lúa gạo cũng có thể làm cho người phải lo khổnhiều. Do nghĩa đó nên tất cả đều khổ không có tướngrốt ráo vui.

NầyThiện-nam-tử ! Đại-Bồ-Tát nơi tám điều khổ nầy, hiểurỏ là khổ nên không bị khổ.

NầyThiện-nam-tử ! Tất cả hàng Thanh-Văn, Duyên-Giác chẳng biếtnhơn của sự vui, nên Phật vì họ ở trong sự khổ hạnghạ nói có tướng vui. Chỉ có Bồ- Tát trụ nơi Đại-ThừaĐại-Niết-Bàn bèn có thể biết nhơn của sự khổ sự vuinầy.

NầyThiện-nam-tử ! Thế nào là Đại-Bồ-Tát trụ nơi Đại-ThừaĐại-Niết- Bàn quán sát tập đế ? Đại-Bồ-Tát quán sáttập đế là nhơn duyên ngũ ấm. Tập nghĩa là trở lại ái-luyếnnơi hữu. Ái có hai thứ : Một là ái thân mình, hai là áiđồ cần dùng. Lại có hai thứ : Năm thứ dục lạc, lúc chưađặng tâm luôn tìm cầu, đã tìm cầu đặng rồi luôn đắmtrước. Lại có ba thứ : dục ái, sắc ái, vô sắc ái. Lạicó ba thứ : Nghiệp nhơn duyên ái, phiền não nhơn duyên ái,khổ nhơn duyên ái. Người xuất gia có bốn thứ ái : Y phục,đồ ăn uống, đồ nằm, thuốc thang. Lại có năm thứ : Thamlam nơi ngũ ấm, tùy chỗ cần dùng tất cả đều tham ái toantính phân biệt vô-lượng vô-biên.

NầyThiện-nam-tử ! Ái có hai thứ : Một là thiện ái, hai là bấtthiện ái. Chỉ người ngu tìm cầu bất thiện ái. Cácvị Bồ-Tát cầu nơi thiện-ái. Thiện ái lại có hai thứ: Bất thiện và thiện. Cầu pháp Nhị-thừa gọi là bất thiện.Cầu pháp Đại- thừa gọi là thiện.

NầyThiện-nam-tử ! Kẻ phàm phu tham ái gọi là “ tập” chẳnggọi là “đế”. Sự ái của Bồ-Tát thời gọi là thậtđế chẳng gọi là tập, vì Bồ-Tát muốn độ chúng sanh nênthị hiện thọ sanh, chẳng phải vì tham ái mà thọ sanh.

Ca-DiếpBồ-Tát bạch Phật : Thế-Tôn ! Như trong các kinh khác đứcPhật vì chúng sanh mà nói nghiệp làm nhơn duyên, hoặc nóikiêu mạn, hoặc nói lục xúc, hoặc nói vô minh làm nhơn duyênmà có ngũ ấm xí-thạnh. Hôm nay do nghĩa gì đức Phậtnói bốn Thánh-Đế riêng lấy ái làm nhơn cho ngũ ấm.

Phậtkhen Ca-Diếp Bồ-Tát : “ Lành thay ! Lành thay ! Đúng như lờiông vừa nói, các nhơn duyên chẳng phải làm cũng chẳng phảinhơn, chỉ vì năm ấm cần phải nhơn nơi ái.

Vínhư quốc vương lúc đi tuần du các quan quyến thuộc thảyđều theo hầu. Cũng vậy, ái đi đến chỗ nào thời các kiếtsử cũng đi theo.

Vínhư y phục thấm mồ hôi, bụi bay đến liền bám dính. Cũngvậy, chỗ nào có ái những nghiệp kiết cũng ở nơi đó.

Vínhư đất ướt thời có thể mọc mầm. Cũng vậy, ái có thểsanh tất cả mầm nghiệp phiền não.

NầyThiện-nam-tử ! Đại Bồ-Tát trụ nơi Đại-thừa Đại-Niết-Bànquán sát kỹ ái nầy có chín thứ : Một là như thiếu nợ,hai là như vợ La-Sát, ba là như trong cọng hoa đẹp có rắnđộc vấn , bốn là như vật thực độc mà cố ăn đó, nămlà như dâm nữ, sáu là như hột ma-lâu-ca, bảy là như thịtthúi trong mụn nhọt, tám là như gió bão, chín là như sao chổi.

Nhưthiếu nợ là thế nào ! Ví như người nghèo cùng thiếu tiềncủa người khác, dầu đã trả nợ mà vẫn còn thiếu, nênbị giam nhốt chưa ra khỏi ngục. Hàng Thanh-Văn Duyên-Giácvì còn tập khí thừa của ái nên chẳng chứng đặng vô thượngbồ-đề.

Nhưvợ La-Sát là thế nào ? Ví như có người lấy gái La-Sátlàm vợ, gái La- Sát nầy hễ sanh con liền ăn thịt, ăn thịtcon đẻ hết lại ăn luôn thịt chồng. Ái cũng vậy, tùy ngườisanh thiện căn nó liền ăn, ăn hết thiện căn nó lại ănluôn cả người làm cho phải đọa địa ngục, súc sanh ngãquỉ. Chỉ trừ các vị Bồ-Tát.

Nhưcọng hoa đẹp có rắn độc vấn là thế nào ? Như có ngườithích hoa đẹp mà chẳng thấy cọng hoa có rắn độc, liềnđến ngắt hoa bị rắn cắn chết. Tất cả phàm phu tham đắmngũ dục mà chẳng thấy độc hại của ái, nên bị ái làmhại, sau khi chết đọa trong ba đường ác. Chỉ trừ các vịBồ-Tát.

Vậtthực độc mà cố ăn là thế nào ? Như có người cố ănvật thực độc, ăn xong đau bụng thổ tả mà chết. Chúngsanh trong ngũ đạo vì tham ái mà phải bị đọa trong ba đườngác. Chỉ trừ các vị Bồ-Tát.

Nhưdâm nữ là thế nào ? Ngư người ngu tư thông với dâm nữ,dâm nữ nầy thường dối phĩnh gạt đoạt hết tiền củarồi xua đuổi người ấy. Người ngu không có trí tuệ bịtham ái đoạt tất cả pháp lành rồi xua đuổi vào trong bađường ác. Chỉ trừ các vị Bồ-Tát.

Nhưhột ma-lâu-ca là thế nào ? Nếu chim ăn hột ma-lâu-ca, phẩnchim do gió thổi rớt dưới cây liền mọc lên đeo vấn câyto làm cho khô chết, tham ái ràng buộc phàm phu làm cho pháplành không tăng trưởng nhẫn đến khô diệt, sau khi chếtđọa vào ba đường ác. Chỉ trừ các vị đại Bồ-Tát.

Thịtthúi trong mụn nhọt như thế nào ? Như người bị ung nhọt,trong nhọt sanh thịt thúi, người bịnh nầy phải chuyên tâmchạy chữa, nếu chểnh mãng thời thịt thúi sanh trùng cóthể phải chết, ngũ ấm của phàm phu cũng như vậy, ái sanhtrong đó, phải nên siêng năng điều trị tham ái, nếu khôngđiều trị sẽ phải đọa trong ba đường ác. Chỉ trừ cácvị Bồ-Tát.

Nhưgió bão là thế nào ? Gió bão có thể làm lở núi ngãcây. Cũng vậy, tham ái sanh tâm ác đối với cha mẹ,có thể làm ngã trốc cội cây vô thượng Bồ- Đề của cácông Đại-Trí Xa-Lợi-Phất vân vân. Chỉ trừ các vị Bồ-Tát.

Nhưsao chổi là thế nào ? Như sao chổi mọc thời trong thiênhạ phải bịnh tật, đói kém, họa tai khổ sở. Cũng vậy,ái có thể dứt tất cả căn lành làm cho phàm phu cơ cùngthiếu thốn sanh bịnh phiền não lưu chuyển trong sanh tử mangnhiều sự khổ. Chỉ trừ các vị Bồ-Tát.

NầyThiện-nam-tử ! Đại-Bồ-Tát Đại-Thừa trụ nơi Đại-Niết-Bànquán sát tham ái có chín thứ như vậy.

Donghĩa trên đây, hàng phàm phu có khổ, không đế. Hàng Thanh-VănDuyên- Giác có khổ đế mà không chơn thật. Các vị Bồ-Táthiểu khổ không có khổ mà có chơn đế. Hàng phàm phu cótập không có đế. Hàng Thanh-Văn Duyên- Giác có tập có tậpđế. Các vị Bồ-Tát hiểu tập không có tập mà có chơnđế. Hàng Thanh- Văn Duyên-Giác có diệt mà chẳng phải chơn.Đại-Bồ-Tát có diệt có chơn đế. Hàng Thanh-Văn Duyên-Giáccó đạo mà chẳng phải chơn. Đại Bồ-Tát có đạo có chơnđế.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com