Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

18. Phẩm Hiện Bịnh

07/06/201114:12(Xem: 4175)
18. Phẩm Hiện Bịnh

KINH ÐẠI BÁTNIẾT BÀN
DịchTừ Hán Sang Việt: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
TịnhXá Minh Ðăng Quang, Hoa Kỳ Xuất Bản 1990

XVIII
PHẨMHIỆN BỊNH THỨ MƯỜI TÁM

(Hánbộ phần sauquyển thứ mười)

Ca-DiếpBồ-Tát bạch Phật: “Thế-Tôn đức Như-lai đã khỏi tấtcả tật bệnh, không còn đau khổ, không sợ sệt. Thế-Tôn! Tất cả chúng sanh có bốn mũi tên độc : Tham Dục, sân-khuể,ngu si và kiêu mạn. Bốn thứ độc nầy là nhân sanh ra bệnh.Nếu có bệnh nhơn, thời có bệnh sanh ra tức là những thứbệnh hàn, nhiệt, bệnh phổi, ói mữa, da thịt ngứa xót,buồn nôn ngăn nghẹn, đi chảy, bệnh kiết, tiểu dải lâmdịch, nhức tai, xốn mắt, đau lưng, bụng đầy, điên cuồng,ốm gầy, quỉ mị dựa, các thứ thân bịnh tâm bịnh nhưvậy. Chư Phật dầu không còn có những thứ bịnh ấy. Hômnay đức Như-Lai cớ sao bảo Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-Tát rằngPhật đau lưng, các ông nên vì đại chúng mà thuyết pháp?

BạchThế-Tôn ! Có hai nhơn duyên thời không bệnh khổ ! Một làthương xót tất cả chúng sanh, hai là cung cấp thuốc men chongười bịnh. Từ xưa đức Như-Lai đã tu đạo Bồ-Tát trongvô lượng muôn ức kiếp : Thường thật hành lời nói dịudàng, thân yêu, lợi ích cho chúng sanh chẳng để họ phảikhổ não, bố thí các thứ thuốc men cho người bịnh. Cớsao hôm nay lại tự nói là có bịnh?

Thế-Tôn! Trong đời, người có bịnh, hoặc ngồi, hoặc nằm chẳngyên, hoặc đòi uống đòi ăn, dặn bảo người nhà coisóc sản nghiệp. Cớ sao đức Như-Lai nằm yên lặng, chẳngdạy bảo hàng Thanh-Văn đệ tử những giới luật, Thiền-Định giải thoát tam muội, tu hạnh chánh cần. Cớ sao chẳnggiảng nói kinh điển đại thừa rất sâu vi diệu. Cớ saođức Như-Lai chẳng dùng vô lượng phương tiện dạy ngàiĐại Ca-Diếp cùng các hàng đại-nhơn cho họ đặng bực bấtthối vô thượng bồ- đề. Cớ sao chẳng trị phạt các ácTỳ-kheo nhận chứa tất cả vật bất tịnh. Đức Thế-Tônthiệt không có bệnh tật, sao lại yên lặng nằm nghiêng bênmặt.

Cácvị Bồ-Tát phàm cung cấp thuốc men cho người bịnh, đem cănlành ấy ban cho chúng sanh, đồng hồi hướng nhứt thế chủngtrí. Vì trừ các thứ phiền não chướng, nghiệp chướng,và báo chướng cho chúng sanh. Phiền não chướng là tham dục,sân khuể ngu si, phẫn nộ, triền cái, tập não, tật đố,xan lẫn, gian trá, siểm khúc, vô tàm vô qúi, mạn, mạn mạn,đại mạn, bất như mạn, tăng thượng mạn, ngã mạn,tà mạn, kiêu mạn, phóng dật, cống cao, phẫn hận, tránhtụng, tà mạn, siểm mị, dối bày tướng lạ, dùng lợi cầulợi, cầu quấy cầu nhiều, không cung kính, chẳng tùy thuậnlời dạy bảo, gần gũi ác hữu, tham lợi không nhàm, ràngbuộc khó mở, mong mỏi điều ác, tham lam việc ác chấp thânchấp có, chấp không, vươn vai ưa ngủ, ngáp dài chẳng vui,tham uống tham ăn, tâm trí mờ tối, tâm tưởng sai lầm, chẳngkhéo suy nghĩ, thân và miệng nhiều lỗi ác, hay mừng,nói nhiều, căn tánh ám độn, lời nói phần nhiều rỗng tuếch,thường bị các giác quán : Dục giác, khuể giác, hai giácche đậy. Tất cả trên đây gọi là phiền não chướng.

Nghiệpchướng là năm tội vô gián, những bịnh nặng dữ.

Báochướng là sanh vào địa ngục, ngạ quỹ, súc sanh, hủy bángchánh pháp và nhứt xiển đề.

Bachướng như vậy gọi là căn bịnh lớn.

Cácvị Bồ-Tát lúc tu hạnh bồ-đề trong vô lượng kiếp, cungcấp thuốc men cho tất cả người tật bịnh, thường nguyệnrằng làm cho tất cả chúng sanh dứt hẳn ba chướng.

Bồ-Tátlúc tu hạnh bồ đề cung cấp thuốc men cho tất cả ngườibịnh thường nguyện rằng : Nguyện cho chúng sanh dứt hẳntật bịnh đặng thân kim cương của Như-Lai. Lại nguyện vìtất cả chúng sanh làm diệu dược dứt trừ tất cả nhữngbệnh nặng, bịnh dữ. Nguyện các chúng sanh đặng thuốc A-Dà-Đà,thuốc nầy có công hiệu trừ vô lượng độc dữ. Nguyệnchúng sanh không thối chuyển nơi vô thượng chánh đẳng chánhgiác, mau đặng thành tựu vô thượng Phật đạo, tiêu trừtất cả mũi tên độc phiền não. Nguyện chúng sanh tinh tấntu hành, thành tựu thân kim cương của Như-Lai, làm thuốc hayvi diệu trị lành các thứ bịnh, chẳng để có người sanhlòng tránh tụng. Cũng nguyện chúng sanh làm dược thọ lớn,trị lành tất cả những bịnh dữ bịnh nặng. Lại nguyệnchúng sanh nhổ mũi tên độc đặng thành quang minh vô lượngcủa Như-Lai. Lại nguyện chúng sanh đặng vào trí huệ củaNhư-Lai, thông đạt pháp tạng vi mật.

Thế-Tôn! Bồ-Tát đã phát nguyện nầy trong vô lượng trăm ngàn muônức na-do- tha kiếp làm cho chúng sanh không còn bịnh tật. Cớsao hôm nay đức Như-Lai lại xướng rằng có bịnh.

Thế-Tôn,trong đời có người bịnh không ngồi dậy được, không thểcúi ngước cựa động, ăn uống không đặng, đổ nước chẳngxuống, cũng không thể dặn bảo con cái xem sóc gia nghiệp.Cha mẹ, vợ con, anh em, thân thuộc đều nghĩ rằng : Ngườinầy quyết định chết. Cũng vậy, hôm nay đức Như-Lai nằmnghiêng bên hữu, không nói năng đàm luận, nơi Diêm-Phù-Đềnầy, có những người ngu sẽ nghĩ rằng : Đức Như-Lai chánhgiác quyết sẽ diệt tận nhập Niết-Bàn. Nhưng thiệt ra tánhnhư, Như-Lai chẳng rốt ráo nhập Niết-Bàn. Vì Như-Lai thườngtrụ không biến đổi. Do cớ nầy đức Như-Lai chẳng nênnói rằng : Nay ta đau lưng.

Thế-Tôn! Trong đời có người bịnh. Thân thể ốm gầy, hoặc nằmnghiêng nằm ngữa trên giừơng nệm, gia quyến người đósanh lòng ghét bỏ, cho rằng người đó ắt chết. Cũng vậy,nay đức Như-Lai sẽ bị chín mươi lăm phái ngoại đạo khinhmạn, cho là vô thường. Các ngoại đạo đó sẽ nói rằng: Chẳng bằng chúng ta do ngã tánh thường còn, thời tiếttự tại, các pháp vi trần v.v…, mà làm thường trụ khôngcó biến đổi. Sa-Môn Cừu-Đàm bị vô thường thuyên chuyển,đó là biến đổi. Do nghĩa nầy, hôm nay đức Thế-Tôn chẳngnên yên lặng nằm nghiêng bên mặt.

Thế-Tôn! Trong đời người có bịnh tứ đại tăng tổn không điềuthích, ốm gầy mất sức. Vì thế nên không thể ngồi đứngtùy ý, phải nằm trên giường nệm,. Tứ đại của Như-Laiđiều hòa thích, sức lực đầy đủ, cũng không ốm gầy.

Thế-Tôn! Như sức của mười con trâu nhỏ, chẳng bằng sức củamột con trâu lớn. Sức của mười con trâu lớn không bằngsức của một con thanh ngưu. Sức của mười con thanh ngưukhông bằng sức của một con voi thường. Sức của mườicon voi thường không bằng sức của một con voi rừng. Sứccủa mười con voi rừng chẳng bằng sức của một con voi haingà. Sức của mười con voi hai ngà chẳng bằng sức của mộtcon voi bốn ngà. Sức của mười con voi bốn ngà chẳng bằngsức của bạch tượng ở núi Tuyetá-sơn. Sức của mườibạch tượng ở Tuyết-sơn chẳng bằng sức của một hươngtượng. Sức của mười hương tượng không bằng sức củamột thanh tượng. Sức của mười thanh tượng không bằngsức của một huỳnh tượng. Sức của mười huỳnh tượngchẳng bằng sức của một xích tượng. Sức của mười xíchtượng không bằng sức của một bạch tượng vương. Sứccủa mười bạch tượng vương không bằng sức của một sơntượng. Sức của mưới sơn tượng không bằng sức của mộtưu-bát-la-tượng. Sức của mười ưu- bát-la tượng khôngbằng sức của ba-đầu-ma tượng. Sức của mười ba-đầu-matượng không bằng sức của một câu-vật-đầu-tượng. Sứccủa mười câu-vật- đầu tượng không bằng sức của mộtphân-đà-lợi tượng. Sức của mười phân-đà- lợi tượngkhông bằng sức của một đại lực sĩ trong loài người.Sức của mười đại lực sĩ không bằng sức của một bát-kiền-đề.Sức của mười bát-kiền-đề chẳng bằng sức của bát-týna-la-diên. Sức của mười na-la-diên không bằng sức mộtlóng tay của vị Thập trụ Bồ-Tát.

Cáclóng xương trong thân của người thường, đầu xương chẳngđến nhau. Đại lực sĩ trong loài người đầu xương đếnnhau. Thân của bát-kiền-đề các lóng xương tiếp nhau. Thâncủa Na-La-Diên đầu xương móc nhau, Thân của Thập- trụ củaBồ-Tát đầu những lóng xương kết liền với nhau. Vì thếnên sức mạnh của Bồ-Tát rất lớn. Lúc thế giới thànhlập từ kim cang tế có tòa kim cang nổi lên đến đạo tràngdưới cây Bồ-Đề. Bồ-Tát ngồi trên tòa đó, tâm liềnchứng đặng mười trí lực.

Nayđức Như-Lai chẳng nên như trẻ con thơ bé. Trẻ nít ngu sikhông biết nói năng, tùy ý nằm ngữa nằm nghiêng không aiquở trách. Đức Như-Lai Thế- Tôn có trí huệ lớn hiểu biếttất cả, là bực tối tôn trong loài người, đầy đủ oaiđức lớn, thành tựu đại thần thông, dứt hẳn lưới nghi,đã nhổ tên độc đi đứng an lành, đặng tự tại vô sởúy, giờ đây cớ chi nằm nghiêng bên mặt, làm cho hàng nhơnthiên lo rầu khốn khổ?

Ca-Diếp Bồ-Tát liền ở trước Phật mà nói kệ rằng :

Như-Laiđại thánh đức, Xin dạy giảng pháp mầu. Chẳngnên như trẻ thơ, Người bịnh nằm giường nệm, Điều-Ngự-Thiên-Nhơn-Sư. Nằm dựa nơi song thọ, Kẻphàm phu ngó thấy, Cho rằng ắt Niết-Bàn. Chẳngbiết kinh Đại- thừa, Hạnh của Phật rất sâu. Chẳng thấy tạng vi mật. Như mù chẳng thấy đường. Duy các vị Bồ-Tát, Văn-Thù-Sư-Lợi thảy. Hiểuđược mật tạng nầy, Ví như người bắn giỏi. Chư Phật trong ba đời, Đại-bi làm căn bản, Đại-từ-binhư vậy. Nay ở tại chỗ nào? Nếu là không đại bi,Thời chẳng gọi là Phật. Phật nếu ắt Niết-Bàn. Thờichẳng gọi là thường. Ngưỡng mong đấng vô thượng, Nhận lời mời của tôi, Lợi ích các chúng sanh, Xô dẹpnhững ngoại đạo.

Lúcbấy giờ đức Thế-Tôn, đại-bi huân nơi lòng, rõ biết tâmniệm của đại chúng muốn tùy thuận để đại chúng đượclợi ích rốt ráo, liền dậy ngồi kiết-gìa, dung nhan vui vẻsáng rỡ như vàng ròng, mặt mắt xinh đẹp dường nhưtrăng tròn, hình dung thanh tịnh không có những cấu-uế, phóngánh sáng lớn chiếu khắp hư không. Ánh sáng đó hơn cả trămngàn mặt trời chiếu suốt mười phương thế giới, ban bốtrí huệ cho chúng sanh, diệt trừ vô minh hắc ám, làm cho trămngàn ức na-do-tha chúng sanh bồ-đề tâm vững chắc.

ĐứcThế-Tôn lòng không nghi lự. Như sư tử vương dùng ba mươihai tướng đại nhơn, tám mươi thứ tốt trang nghiêm nơi thân.Mỗi lổ chơn lông trên thân đều hiện ra một hoa sen. Hoasen ấy đủ ngàn cánh thuần màu vàng ròng, cọng bằng lưuly, tua bằng kim cang, gương bằng ngọc mai khôi, hình lớn trònnhư bánh xe. Những hoa sen ấy đều phóng ra ánh sáng nhiềumàu : Xanh, vàng, đỏ, trắng, màu tía, màu pha lê, các ánhsáng ấy chiếu suốt đến địa ngục A-Tỳ cùng các đạiđịa ngục, chúng sanh đang bị khổ đốt, nấu, đâm, chém,lột da v.v…, gặp ánh sáng nầy đều được khỏi khổ, anổn mát mẻ. Trong ánh sáng ấy lại tuyên nói tạng bí mậtcủa Như-Lai, nói rằng : Tất cả chúng sanh đều có Phậttánh. Chúng sanh trong địa ngục nghe pháp âm rồi, liền bỏthân sanh lên cõi trời hay trong loài người. Chúng sanh tronghàn-băng địa ngục ánh sáng của Phật chiếu đến cũng đượckhỏi khổ, được nghe pháp và được sanh lên cõi trời haytrong loài người. Bao nhiêu địa ngục nơi cõi Diêm-Phù-Đềnầy và các thế giới khác thảy đều trống không, khôngngười thọ tội, trừ kẻ nhứt-xiển-đề.

Loàingạ-quỹ khổ vì đói khát tóc vấn lấy thân, cả trăm ngànnăm chưa từng được nghe tên nước, đồ uống, họ gặpánh sáng của Phật liền hết đói khát. Trong ánh sáng ấycũng nói tạng vi mật của Như-Lai, nói rằng : Tất cả chúngsanh đều có Phật tánh.

Nhờnghe pháp âm nầy loài ngạ quỹ được sanh lên trời hay trongloài người, trừ những kẻ hủy báng kinh điển Đại-thừaPhương-đẳng.

Nhữngloài súc sanh, giết hại ăn nuốt lẫn nhau. Chúng nó gặp ánhsáng của Phật trừ được tâm hung ác. Trong ánh sángấy cũng nói tạng vi mật của Như- Lai, nói rằng : Tất cảchúng sanh đều có Phật tánh.

Nhữngloài súc sanh nhờ nghe pháp âm sau khi chết sanh lên cõi trờihay trong loài người, trừ những kẻ hủy báng chánh pháp.

Trênmỗi hoa sen đó đều có một đức Phật Viên-Quang rộng mộttầm. Màu vàng chói sáng, ba mươi hai tướng, tám mươi thứđẹp trang nghiêm nơi thân. Trong các đức Phật đó có vịthì ngồi, có vị thì đi, có vị thì đứng, có vị thì nằm,có vị nổi tiếng sấm, có vị rưới mưa, có vị phóng chớpsáng, có vị nổi gió, có vị phóng khói lửa, có vị thịhiện những núi bảy báu, suối , ao, sông, ngòi, núi rừng,cây cối, có vị hiện ra cõi nước bảy báu, thành ấp xómlàng cung điện nhà cửa. Có vị hiện ra voi, ngựa, sư tử,cọp, sói, chim công, phụng hoàng. Có vị làm cho bao nhiêu chúngsanh trong Diêm-Phù-Đề đều được thấy địa ngục, súcsanh, ngạ quỹ, nhẫn đến thấy sáu cõi trời dục giới.Trong các đức Phật đó lại có vị thuyết về ấm, giới,các nhập, nhiều sự tội lỗi. Cóvị nói pháp tứ-đế. Cóvị nói pháp thập nhị nhơn duyên. Có vị nói những phiềnnão, những nghiệp đều do nhơn duyên sanh. Có vị nói phápngã cùng vô ngã. Có vị nói hai pháp khổ và lạc. Có vịnói pháp thường và vô thường. Có vị nói pháp tịnh cùngbất tịnh. Lại có đức Phật vì các Bồ-Tát nói sáu phápba-la-mật. Lại có đức Phật nói công đức của Đại Bồ-Tát. Lại có đức Phật nói công đức của chư Phật Thế-Tôn.Lại có đức Phật nói công đức của hàng Thanh-Văn. Lạicó đức Phật nói tùy thuận nhứt-thừa. Hoặc có đức Phậtnói tam-thừa thành đạo. Có đức Phật hông bên trái hiệnra nước, hông bên hữu hiện ra lửa. Có đức Phật thị hiệngiáng sanh, xuất gia ngồi đạo tràng dưới cây bồ-đềchuyển pháp luân vi diệu, nhập Niết-bàn. Lại có đức Phậtthuyết pháp làm cho trong đại đội nầy có người chứngđặng sơ quả, nhị quả, tam quả, nhẫn đến tứ quả. Hoặccó đức Phật nói vô lượng nhơn duyên thoát ly sanh tử.

Nhữngchúng sanh trong Diêm-Phù-Đề nầy được ánh sáng của Phậtchiếu đến người mù được thấy, người điếc đượcnghe, người câm nói được, người què bại đi được, ngườinghèo được của, kẻ bỏn xẻn phát tâm bố thí, kẻ sânhận sanh lòng từ. Người không chánh tín bèn có chánh tín.Chúng sanh trong thế giới không có ai làm việc ác, trừ hạngnhứt xiển đề.

Tấtcả trời, rồng, quỷ thần, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu la,khẩn-na-la, ma- hầu-la- già, la-sát, kiện-đà, ưu-ma-đà, a-bà-ma-la,nhơn, phi nhơn v.v… đều đồng tiếng xướng rằng : Lànhthay ! Lành thay ! Đấng Vô Thượng Thiên-Tôn, làm sự lợiích lớn. Tất cả đều vui mừng hớn hở, hoặc ca hoặc múa,đem các thứ hoa rải trên Phật và chúng Tăng. Đó là nhữnghoa cõi trời : Hoa sen xanh, vàng, đỏ, trắng, hoa mạn-đà-la,hoa ma-ha-mạn-đà-la, hoa mạn-thù-sa, hoa ma-ha-mạn-thù-sa, hoatán-đà-na, hoa ma-ha tán-đà-na, hoa lư-chỉ-na, hoa ma-ha-lư-chỉ-na,hoa hương, hoa đại-hương, hoa thích-ý, hoa đại thích-ý, hoaái-kiến, hoa đại ái- kiến, hoa đoan-nghiêm, hoa đệ nhứtđoan-nghiêm.

Lạirải các thứ hương : Hương trầm-thủy, hương đa-dà-lâu,chiên-đàn, uất-kim, hương pha trộn, hương hải ngạn.

Lạiđem tràng phan lọng báu cõi trời, kỹ nhạc cõi trời : đờntranh, đờn sắt, ống dịch, ống sanh, không hầu, khảy, thổicúng dường lên Phật, đồng nói kệ rằng :

Tôinay đãnh lễ đức Đại Tinh Tấn Đấng Lưỡng-Túc-Tônvô thượng chánh giác. Đại chúng trời người chẳngthể biết thấu, Chỉ có đức Cù-Đàm mới rõ được. Đức Thế-Tôn thuở trước vì chúng tôi, Trong vô lượngkiếp siêng tu khổ hạnh, Tại sao một mai bỏ thệ nguyệncũ, Mà bèn xả mạng muốn nhập Niết-bàn ? Tấtcả chúng sanh chẳng thể thấy biết, Tạng bí mật của chưPhật Thế-Tôn, Do nhơn duyên nầy khó đặng xuất ly, Luân chuyển trong sanh tử đọa ác đạo. Như Phật đãtừng nói A-La-Hán. Tất cả đều sẽ đến nơi Niết-Bàn, Công hạnh rất sâu củaPhật như vậy. Hạng phàm phungu mê ai biết được. Ban pháp cam lồ cho các chúng sanh, Vì muốn dứt trừ hết những phiền não, Nếu có ngườiuống chất cam lộ nầy, Chẳng còn lại thọ sanh lãobịnh tử. Đức Như-Lai Thế- Tôn vì chữa trị, Trăm ngàn vô lượng tất cả chúng sanh. Bao nhiêu nhữngbịnh nặng của chúng sanh, Đều làm tiêu diệt khôngcòn thừa sót. Đức Thế-Tôn từ lâu khỏi bịnh khổ. Nên đặng gọi là đức Phật thứ bảy, Ngưỡng mongngày nay lại rưới mưa pháp, Nhuần thấm giống côngđức của chúng tôi. Đại chúng trời người trong pháphội nầy, Thỉnh cầu như vậy rồi đều yên lặng.

Phậtbảo Ca-Diếp bồ-Tát : Lành thay ! Lành thay ! Nầy Thiện-nam-tử,ông đã đầy đủ trí huệ vi diệu rất sâu như vậy, chẳngbị tất cả tà ma ngoại đạo phá hoại.

NầyThiện-nam-tử ! Nay ông thành tựu biện tài vô ngại. Ông đãtừng cúng dường vô lượng hằng hà sa chư Phật quá khứ,nên có thể hỏi đức Như-Lai những nghĩa như vậy.

NầyThiện-nam-tử ! ta đã từ vô lượng vô biên ức na-do-tha trămngàn muôn kiếp, trừ hết bịnh căn, lìa hẳn sự dựa nằm,vô lượng a-tăng-kỳ kiếp về quá khứ, có đức Phật rađời hiệu là Vô-Thượng-Thắng, đầy đủ mười hiệu. ĐứcPhật đó vì hàng Thanh-Văn nói kinh Đại-thừa Đại-Niết-Bànnầy. Thuở đó ta cũng làm Thanh-Văn của đức Phật ấy. Tathọ trì kinh điển Đại-Niết-Bàn như vậy, đọc tụng thôngthuộc, biên chép quyển kinh, rồi ta rộng vì người khác phânbiệt giảng thuyết. Ta đem căn lành đóhồi hướng vô thượngBồ-Đề.

NầyThiện-nam-tử ! Từ đó trở đi, ta chưa từng có những phiềnnão nghiệp ác, chẳng đọa nơi ác đạo, chẳng hủy bángchánh pháp làm nhứt xiển đề, chẳng thọ thân hoàng môn,chẳng phạm năm tội nghịch, bốn tội trọng. Từ đó đếnnay thân tâm ta an ổn, không có các sự khổ não.

NầyThiện-nam-tử ! nay ta thiệt không có tất cả tật bịnh. Vìchư Phật Thế- tôn từ lâu đã xa lìa tất cả bịnh khổ.Các chúng sanh chẳng biết giáo pháp bí mật Đại- thừa Phương-Đẳng,bèn cho rằng đức Như-Lai thiệt có bịnh.

Nầythiện-nam-tử ! Như nói đức Như-Lai là sư tử trong loài ngườinhưng đức Như-Lai thiệt chẳng phải là sư tử. Như nóiđức Như-Lai là rồng lớn trong loài người, nhưng đức Như-Laithiệt chẳng phải rồng. Đức Phật từ vô lượng kiếp đãxa lìa ác nghiệp. Nên biết những lời như vậy chính là giáopháp bí mật của Như-Lai.

NầyThiện-nam-tử ! Như nói đức Như-Lai là người, là trời,nhưng thiệt ra đức Phật chẳng phải người, chẳng phảitrời, cũng chẳng phải quỉ thần, càn- thát-bà, a-tu-la, ca-lầu-la,khẩn-na-la, ma-hầu-la-già, chẳng phải ngã, chẳng phải mạn,chẳng phải dưỡng dục, chẳng phải sĩ phu, chẳng phải làm,chẳng phải không làm, chẳng phải thọ, chẳng phải khôngthọ, chẳng phải Thế-Tôn chẳng phải Thanh-Văn, chẳng phảithuyết, chẳng phải không thuyết. Những lời như vậy đềulà giáo pháp bí mật của Như-Lai.

NầyThiện-nam-tử ! Như nói đức Như-Lai dường như biểncả, như núi tu-Di, nhưng đức Như-Lai thiệt chẳng phải vịmặn, cũng chẳng phải đồng như đá núi. Phải biết lờinói như vậy là giáo pháp bí mật của Như-Lai.

NầyThiện-nam-tử ! Như nói đức Như-Lai như hoa Phân-Đà-Lợi,nhưng thiệt ra đức Phật chẳng phải hoa Phân-Đà-Lợi. Nhưnói đức Như-Lai dường như cha mẹ, nhưng thiệt ra đức Như-Laichẳng phải cha mẹ. Như nói đức Như-Lai là Đại Thuyền-Sư,nhưng đức Như-Lai chẳng phải Thuyền-Sư . Như nói đứcNhư-Lai như Thương-chủ, nhưng đức Như-Lai thiệt chẳng phảiThương-chủ. Những lời như vậy cũng là giáo pháp bí mậtcủa Như-Lai.

NầyThiện-nam-tử ! Như nói đức Như-Lai hay trừ dẹp loài ma,nhưng thật ra đức Như-Lai không có ác tâm muốn khiến mabị xô dẹp. Như nói đức Như- Lai trị được ung thư ghẻđộc, nhưng thật ra đức Phật chẳng phải thầy thuốc trịung nhọt. Những lời như vậy cũng là giáo pháp bí mật củaNhư-Lai.

NầyThiện-nam-tử ! Như đức Phật trước kia đã nói, nếu cóthiện-nam, tín nữ nào có thể khéo tu hành ba nghiệp thân,khẩu, ý, lúc người đó chết, dầu trong thân tộc hoặc đemthi hài thiêu đốt, hoặc ném xuống sông, hoặc bỏ trong gòmã, chồn sói cầm thú cùng nhau đến xé ăn, những tâm ýthức của người đó liền sanh nơi cõi lành. Tâm thức nhưvậy thiệt không đi, không lại cũng không chỗ đến, chỉlà trước sau giống nhau, nối nhau, tướng mạo chẳng sai khác.Lời nói như vậy là giáo pháp bí mật của Như-Lai.

NầyThiện-nam-tử ! Nay ta nói rằng có bịnh cũng như vậy, cũnglà giáo pháp bí mật của Như-Lai. Đức Như-Lai Đẳng Chánh-Giácthiệt không có bịnh nằm nghiêng bên hữu, cũng không rốtráo nhập nơi Niết-bàn. Nầy Ca-Diếp Bồ- Tát ! Đại-Niết-bànđây thiệt là thiền định rất sâu của chư Phật. Thiềnđịnh nầy chẳng phải cảnh giới của Thanh-Văn, Duyên-Giác.

Nầythiện-nam-tử ! Vừa rồi ông hỏi cớ chi đức Như-Lai dựanằm chẳng ngồi dậy, chẳng đòi uống ăn, chẳng dặn bảoquyến thuộc coi sóc sản nghiệp.

NầyThiện-nam-tử ! Tánh hư không cũng chẳng ngồi dậy, chẳngđòi uống ăn, chẳng dặn bảo quyến thuộc coi sóc sản nghiệp,cũng không đi, không lại, không sanh diệt, không già, trẻ,không mọc lặn, hư bể, giải thoát, ràng buộc, cũng khôngnói mình, nói người, cũng không hiểu mình hiểu người, chẳngphải ăn, chẳng phải bịnh.

NầyThiện-nam-tử ! Chư Phật Thế-Tôn cũng như vậy, dường nhưhư không, thế nào sẽ có những bịnh khổ ư ?

NầyThiện-nam-tử ! Trong đời có ba hạng người bịnh khó trị: Một là kẻ hủy báng Đại-thừa, hai là kẻ phạm tội ngũnghịch, ba là hạng nhứt-xiển-đề, ba hạng bịnh nầy làrất nặng ở trong đời. Hàng Thanh-Văn Duyên-Giác và Bồ-Tátđều không thể trị được.

NầyThiện-nam-tử ! ví như có bịnh khó trị chắc chết, dầucó săn sóc, tùy ý thuốc men, hoặc không săn sóc, tùy ý thuốcmen, người bịnh ấy chắc chết chẳng nghi. Ba hạng ngườitrên đây cũng như vậy, dầu có Thanh-Văn, Duyên-Giác và Bồ-Tát thuyết pháp cho, hay chẳng thuyết pháp, đều không thểlàm cho họ phát tâm vô thượng bồ-đề.

NầyThiện-nam-tử ! Ví như người bịnh có sự săn sóc, tùy ýthuốc men, thời có thể lành bịnh, nếu không ba việc này,thời bịnh chẳng lành. Cũng vậy, hàng Thanh-Văn, Duyên-Giác,theo Phật và Bồ-Tát đặng nghe pháp rồi liền có thể pháttâm vô thượng bồ-đề. Không phải chẳng nghe pháp mà cóthể phát bồ-đề tâm.

NầyThiện-nam-tử ! Ví như người bịnh, nếu được săn sóc,tùy ý thuốc men, hoặc không săn sóc, tùy ý thuốc men, đềuđược lành bịnh. Cũng vậy, có một hạng người, hoặc gặpThanh-Văn hay chẳng gặp, hoặc gặp Duyên-Giác hay chẳng gặp,hoặc gặp Bồ-Tát hay chẳng gặp, hoặc gặp Như-Lai hay chẳnggặp, hoặc đặng nghe pháp hay chẳng đặng nghe, tự nhiênđặng thành vô thượng chánh đẳng chánh giác. Đây là hạngngười nào ? Chính là người vì thân mình hay vì người khác,hoặc vì sợ sệt hoặc vì lợi dưỡng, hoặc vì dua nịnh,hoặc vì phỉnh gạt người mà biên chép kinh Đại-Niết-Bànnầy, rồi thọ trì đọc tụng cúng dường cung kính, giảinói cho người khác.

NầyThiện-nam-tử ! Có năm hạng người đối với kinh điển Đại-thừaĐại- Niết- Bàn nầy có bịnh mà tu hành, chẳng phải làđức Như-Lai. Những gì là năm hạng?

Mộtlà bực dứt kiến-hoặc trong tam giới đặng quả tu-đà-hoàn,chẳng đọa địa ngục, súc sanh, ngã-quỉ, bảy lần sanh trongloài người, trên trời, dứt hẳn các sự khổ nhập Niết-bàn.Đây gọi là hạng người thứ nhứt có bịnh tu hành. Ngườinầy thuở vị lai, qua khỏi tám muôn kiếp sẽ đặng thànhvô thượng chánh giác.

Bựcthứ hai dứt kiến-hoặc trong tam giới, tham, sân, si, mạn,đặng quả tư-đà- hàm, còn một lần sanh trong loài người,trên trời, dứt hẳn các khổ nhập Niết- Bàn. Đây gọi làbực thứ hai có bịnh tu hành. Người nầy thuở vị lai quakhỏi sáu muôn kiếp, sẽ đặng thành vô thượng chánh giác.

Bựcthứ ba dứt kiến-hoặc trong tam giới, tư-hoặc cõi dục đãdứt, đặng quả a-na- hàm, chẳng còn sanh trong loài người,dứt hẳn các khổ nhập Niết-Bàn. Đây gọi là bực thứba có bịnh tu hành. Người nầy thuở vị lai qua khỏi bốnmuôn kiếp, sẽ đặng quả vô thượng chánh giác.

Bựcthứ tư dứt hẳn tham dục, sân-khuể, ngu si, đặng quả a-la-hán,không còn phiền não nhập Niết-Bàn, cũng chẳng phải hạnhkỳ-lân độc nhứt. Đây gọi là bực thứ tư có bịnh tuhành. Người nầy thuở vị lai qua khỏi hai muôn kiếp, sẽđặng quả vô thượng chánh giác.

Bựcthứ năm dứt hẳn tham dục, sân khuể, ngu si, đặng quả Bích-ChiPhật phiền não hết sạch nhập Niết-Bàn, thiệt là hạnhkỳ-lân độc nhứt. Đây gọi là bực thứ năm có bịnh tuhành. Người nầy thuở vị lai qua khỏi mười ngàn kiếp,sẽ đặng quả vô thượng chánh giác.

Đâygọi là năm hạng người có bịnh tu hành, chẳng phải đứcNhư-Lai vậy.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com