Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

09. Phẩm Tà Chánh

07/06/201114:12(Xem: 4528)
09. Phẩm Tà Chánh

KINH ÐẠI BÁTNIẾT BÀN
DịchTừ Hán Sang Việt: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
TịnhXá Minh Ðăng Quang, Hoa Kỳ Xuất Bản 1990

IX
PHẨMTÀ CHÁNH THỨ CHÍN

(Hánbộ phần đầu quyển thứ bảy)

Bấygiờ Ca-Diếp Bồ-Tát thưa ! “Bạch Thế-tôn ! Có phải cầny-chỉ theo bốn hạng người như trên đã nói chăng?

Phậtdạy : “Chính thế ! Nầy Ca-Diếp ! Nên phải y-chỉ như Như-Laiđã nói . Sao lại phải y chỉ với bốn bực ấy ? Vì rằngcó bốn thứ ma”.

Ca-DiếpBố-Tát thưa: “ Bạch Thế-Tôn ! Như lời Phật dạy có bốnthứ ma. Nay con phải làm thế nào để phân biệt là lời củaPhật, là lời của Ma. Có những chúng sanh chạy theo hạnhMa, cũng có nhiều người thuận theo lời Phật dạy. Phảilàm thế nào để biết rành hai mạng ấy ?

Phậtdạy : “ Nầy Ca-Diếp ! Sau khi Như-Lai vào Niết-bàn bảy trămnăm, ma Ba- Tuần sẽ ngăn trở và làm hư hại chánh pháp. Vínhư thợ săn thân mặc pháp-y, cũng vậy, ma-vương Ba-tuầngiả hình Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-Ba-Tắc, Ưu- Bà- Di. Nó cũnghoá làm thân Tư-Đà-Hoàn, Tư-Đà-Hàm, A-Na-Hàm, A-La- Hán vàhoá làm hình Phật. Ma-Vương đem thân hữu lậu hoá làm thânvô-lậu để làm hư hại chánh pháp. Thời kỳ Ma-Vương Ba-tuầnlàm hư hại chánh pháp, nó sẽ nói rằng xưa kia Bồ-Tát ởcung trời Đâu-Suất chết, rồi sanh nơi cung vua Bạch- Tịnhtại thành Ca-Tỳ-La-Vệnươngsự ái dục hòa hiệp của cha mẹ sanh dục mà có thân. Khôngbao giờ có người nào sanh trong loài người mà được đạichúng cõi Trời cõi người tôn kính. Và lại nói rằng xưakia khổ hạnh bố thí những đầu, mắt, tủy, não, bố thínhững vợ, con, quốc thành, nên nay đặng thành Phật, vì thếnên được chư Thiên, chư Thần cùng mọi người cung kính.Nếu có kinh luật nào nói như lời trên đây, phải biết đólà lời của ma.

NầyCa-Diếp ! Nếu kinh luật nào nói đức Như-Lai chánh giác đãthành Phật từ lâu, vì muốn cứu độ chúng sanh nênnay mới thị hiện thành Phật, và vì tùy thuận theo thếgian nên cũng thị hiện có cha mẹ, nhơn nơi ái dục hòa hiệpmà sanh. Phải biết kinh luật nầy chính thật là của Như-Lainói.

Nếuai tin theo lời ma, thời là quyến thuộc của ma. Bằng ngườinào có thể tùy thuận kinh luận của Phật, người đó làBồ-Tát.

Nếucó chỗ nào nói không nên tin rằng lúc mới sanh, cả bốnphương Như-Lai đều đi bảy bước. Phải biết đây làlời của ma. Ai tùy thuận theo lời của ma thời là quyếnthuộc của ma.

Nếunói lúc Như-Lai mới ra đời cả bốn phương đều đi bảybước, đó là Như-Lai phương tiện thị hiện. Phải biết đâylà kinh luật của Như-Lai nói. Người nào tùy thuận lời Phậtdạy, thời là bực Bồ-tát.

Nếucó chổ nói khi Bồ-tát giáng sanh, Phụ-Vương cho ngườiđem đến miếu thờ Trời, tất cả chư Thiên thần, nhưĐại-Tự-Tại-Thiên, Đại-Phạm-Thiên-Vương, Thiên-Đế-Thíchv.v… Thảy đều chắp tay lễ chơn Bồ-Tát. Đây là lời củaPhật. Người thuận theo lời nầy là bực Bồ-Tát.

Nếugạn rằng : Trời sanh trước, Phật sanh sau, cớ sao chư Thiênlại lễ kính Phật? Phải biết lời gạn nầy là lời củama Ba-Tuần. Nếu ai thuận theo lời gạn nầy thời là quyếnthuộc của ma.

Nếuchổ nào nói : Lúc làm Thái-tử, vì lòng tham dục, nên Bồ-tátcưới vợ, hưởng thọ khoái lạc nơi chốn thâm cung. Nênbiết trên đây là lời của Ma-Vương, người thuận theo đâythời là quyến thuộc của Ma.

Nếunói rằng : Từ lâu, Bồ-Tát đã bỏ lìa tâm tham dục, vợcon, cho đến sự vui vi diệu của tam-thập, tam-thiên, như bỏđờm mũi, huống là sự vui ở cõi người. Bồ- Tát cạo bỏrâu tóc, xuất gia hành đạo. Đây là lời Phật nói, là kinhluật của Phật. Người thuận theo đây thời là Bồ-Tát.

Nếucó chổ nói, tại Kỳ-Hoàn tinh xá ở nước Xá-Vệ, vì lòngđại từ thương xót chúng sanh, nên Phật cho các Tỳ-kheo nuôitôi tớ, voi ngựa, gia súc, chứa vàng bạc châu báu, cho buônbán, gieo trồng v.v… Phải biết đây là lời của ma. Ai thuậntheo đây thời là quyến thuộc của ma.

Nếunói rằng, tại nước Xá-Vệ nơi tinh xá Kỳ-Hoàn, trướcvua Ba-Tư-Nặc và Cổ- Chi-Đức Bà-La-Môn, đức Phật cấmcác Tỳ-kheo không được nuôi chứa và làm các điều trên.Người phạm các điều nầy thời không được ở trong hàngTỳ-kheo, phải hoàn tục, như đám cỏ trong ruộng lúa cầnphải nhổ bỏ. Đây chính là kinh luật của Phật. Ngườithuận theo đây thời là bực Bồ-tát.

Nếunói rằng : Thái-Tử Bồ-Tát thị hiện vào miếu thờ Trời,ở trong pháp ngoại đạo xuất gia tu hành, thị hiện biếttất cả oai nghi lễ tiết, khéo hiểu tất cả văn tự kỹnghệ, thị hiện làm bực tôn qúy nhất trong các giai cấpcủa xã hội, dầu vậy, Bồ- Tát chẳng có lòng luyếnái, như hoa sen không nhiễm bùn nhơ. Vì độ chúng sanh nênBồ-Tát phương tiện thị hiện thuận theo thế-pháp. Nhữnglời trên đây là của Phật nói, người thuận theo đây làbực Bồ-Tát. Nếu nói trái lại thời là lời của ma cùngquyến thuộc của ma.

Nếucó người cố chấp chín bộ kinh luật mà không chịu tin kinhđiển phương đẳng đại thừa cho rằng không phải của Phậtnói, vì trong kinh luật của họ không có nói đến. Phải biếtngười nầy có tội, không phải đệ tử của Phật.

Nếucó người tin kinh điển phương đẳng đại thừa, cho rằngvì độ chúng sanh nên Như-Lai nói kinh đại thừa. Người nầychính thật là đệ tử của Phật.

Nếucó chỗ nói, Như-Lai không phải là kết quả của vô lượngcông đức, là vô thường biến đổi, do chứng pháp khôngnên tuyên nói lý vô-ngã, chẳng thuận với thế gian. Đâylà lời của ma, người tin lời nầy thời là quyến thuộccủa ma.

Nếunói rằng Như-Lai là bực Đẳng-Chánh-Giác không thể nghĩbàn, là kết qủa của vô lượng công đức, là thường trụkhông biến đổi. Đây là lời Phật nói, ai thuận theo lờinầy thời là bực Bồ-Tát.

Nếucó Tỳ-kheo thiệt không chổ được mà dối hiện tướng đãđược, cùng nói được các pháp hơn người, thời phạm tộiba-la-di, mất pháp làm người, như viên đá bể hai không cònliền lại được.

Nếucó Tỳ-kheo giới đức trong sạch, ít muốn biết đủ, ởnơi vắng vẽ rãnh rang. Vua quan gặp Tỳ-kheo cho là bực A-La-hán,rồi cung kính khen ngợi rằng Đại- sư đây sau khi bỏ thânnầy sẽ chứng quả vô thượng bồ-đề. Tỳ-kheo nghe đượcliền cải chính là mình chưa chứng quả thánh và khuyên vuaquan chớ nhận lầm. Nhà vua vẫn cố kính tin và loan truyềncho mọi người cùng tôn trọng cúng dường. Tỳ-kheo nầy thiệtlà người giới đức trong sạch nên làm cho mọi người đượcphước đức lớn. Tỳ-kheo nầy không phạm tội ba-la-di vìtự mọi người sanh lòng kính tin cúng dường. Nếu nói Tỳ-kheonầy mắc tội, phải biết đó là lời của ma.

Lạicó Tỳ-kheo giảng tuyên giáo-điển đại-thừa rất sâu củachư Phật rằng : Tất cả chúng sanh đều có Phật tánhsẽ dứt trừ vô lượng phiền não bèn thành bực vô thượngchánh giác, trừ hạng nhứt-xiển-đề. Nếu có người hỏiTỳ-kheo : Nhà thầy có Phật tánh chăng ? Sẽ được làm Phậthay không ? Tỳ-kheo đáp : Chính tôi đây quyết định có Phậttánh, còn thành Phật hay không chưa có thể thẩm định. Ngườilại nói Đại-Đức không phải hạng nhứt-xiển-đề, tấtđược thành Phật không còn nghi ngờ gì. Tỳ-kheo đáp rằng: “ Vâng ! Đúng như lời người đã nói”. Dầu Tỳ-kheonầy nói quyết định có Phật tánh, mà vẫn không phạm tội.

Lạicó Tỳ-kheo lúc xuất gia tự nghĩ rằng : Nay ta quyết địnhthành bực vô thượng chánh giác. Tỳ-kheo nầy dầu chưa đượcthành Phật, nhưng đã được vô lượng vô biên phước đức.Vì xưa kia, trong tám mươi ức kiếp, ta giữ giới trong sạch,ít muốn biết đủ, thành tựu oai nghi, khéo tu vô lượng pháptạng của chư Phật, thuở ấy ta cũng quyết định rằng mìnhcó Phật tánh, nhờ đó nên nay ta được thành Phật, có đứcđại-từ-bi.

Nhữngđiều trên đây là lời Phật nói, nếu ai thuận theo thờilà bực Bồ- Tát. Còn ai không chịu thuận theo thời là quyếnthuộc của ma.

Malại sẽ bảo rằng : Không có bốn tội trọng, mười ba tộităng tàn, hai tội bất định, ba mươi tội xả-đọa, chínmươi tội đọa, bốn pháp phải sám hối, các pháp phải học,bảy điều diệt tránh, nhẫn đến không có tội thô, tộinghịch, nhứt- xiển-đề. Nếu có Tỳ-kheo phạm các tội đãkể trên đây mà phải đọa địa ngục thời hàng ngoại đạolẽ ra đều được sanh lên cõi trời cả, vì ngoại đạokhông thọ giới, tất không có giới gì mà phạm. Đó là Như-Laimuốn khủng bố người nên nói các điều giới ấy. DầuNhư-Lai có nói phạm tội đột-kiết-la, phải bị đọa vàođịa ngục mãi đến tám trăm muôn năm của cõi trời Đao-Lợimới mãn tội, đó cũng là việc thị hiện để khủng bốngười. Rằng ba-la-di cho đến đột-kiết-la tội nặng tộinhẹ không sai. Đây là các nhà luật sư vọng nói làlời của Phật chế, kỳ thiệt không phải Phật chế nhưvậy. Tất cả những lời trên đây là điển từ của ma cả.

Cóchổ nói rằng : Ở trong các điều giới nếu phạmmột giới nhỏ, sẽ bị khổ báo trong thời gian rấtlâu. Nhận thức như vậy sẽ giữ gìn tự thân như rùa dấukín sáu chi.

Nếucó luật sư nào nói rằng : “Phàm chỗ phạm giới đềukhông tội báo”.

Khôngnên gần gũi luật sư nầy. Như Phật đã từng dạy :

Nếunói quá một pháp. Đây gọi là vọng ngữ, Chẳng nhận thấyđời sau.Không ác nào chẳng tạo.

Dođây, chẳng được thân cận người phủ nhận nhơn quả.Trong chánh pháp của Phật trong sạch như vậy, huống lạicó phạm tội du-lan-giá hoặc phạm tăng- tàn và ba-la-di màchẳng phải là tội ư ! Thế nên rất phải tự giữ gìn nhữnggiới pháp như vậy. Nếu không giữ gìn, thời lấy pháp gìmà gọi là cấm giới?

Trongcác kinh, Như-Lai cũng nói nếu có phạm bốn tội trọngba-la-di cho đến phạm tội nhỏ đột-kiết-la, thời phảitheo luật mà trị tội. Nếu chúng sanh chẳng hộ trì cấmgiới làm sao thấy được Phật tánh.

Dầutất cả chúng sanh đều có Phật tánh, nhung phải do nơi trìgiới rồi sau mới được thấy. Do thấy Phật tánh mà đượcthành vô thượng chánh giác.

Trongchín bộ kinh, không có kinh đại-thừa phương đẳng, cho nênkhông nói có Phật tánh. Dầu không nói, nhưng phải biết làthiệt có Phật tánh.

Ngườinào nói những lời như đây, thời thiệt là đệ tử củaNhư-Lai “.

Ca-DiếpBồ-Tát bạch Phật : “Bạch Thế Tôn ! Như trên đã nóitất cả chúng sanh đều có Phật tánh. Trong chín bộ kinh chưatừng nghe thấy điều nầy. Như nói là có thời sao lại khôngphạm tội ba-la-di ?

Phậtdạy : “ Nầy Ca-Diếp ! Như lời ông nói đó, thiệt chẳngphạm tội ba-la- di. Như có người nói trong biển cả chỉcó bảy thứ báu, không có tám thứ, Người nầy không cólỗi. Cũng vậy, nếu nói trong chín bộ kinh, không có Phậttánh, vẫn là vô tội vì Như-Lai ở trong biển lớn đại trí,đại thừa nói có Phật tánh. Hàng nhị thừa chẳng thấybiết mà nói là không, nên chẳng mắc tội. Cảnh giới nầylà chổ thấy biết của Phật, chẳng phải hàng Thanh-Văn vàDuyên giác biết đến.

NầyCa-Diếp ! Người không được nghe tạng pháp thậm thâm bímật của Như- Lai thời làm thế nào biết rằng có Phật tánh. Những gì gọi là tạng pháp thậm thâm bí mật củaNhư-Lai ? Chính là kinh điển đại-thừa phương đẳng vậy.

NầyCa-Diếp ! Có các nhà ngoại đạo, hoăïc nói ngã là thườngcòn, hoặc nói ngã là đoạn diệt.

Như-Laikhông nói như vậy, mà cũng nói là có ngã và cũng nói làkhông ngã. Đây gọi là trung đạo.

Nếucó người nói : Đức Phật nói trung đạo : Tất cả chúngsanh đều có Phật tánh, vì phiền não che ngăn nên không thấykhông biết. Vì thế nên phải siêng năng tu tập để dứttrừ phiền não.

Ainói được những lời trên đây thời chẳng phạm bốn tộitrọng. Nếu không nói được như đây thời gọi là phạmtội ba-la-di.

Nếucó người nói : “ Tôi đã thành Phật, vì tôi có Phật tánh”.Người nói lời nầy phạm tội ba-la-di. Vì dầu có Phật tánh.Nhưng chưa tu tập các pháp lành nên chưa được thấy, vìchưa thấy Phật tánh nên chẳng được thành Phật.

NầyCa-Diếp ! Do những nghĩa nầy nên Phật pháp rất sâu chẳngthể nghĩ bàn”.

Ca-DiếpBồ-Tát bạch Phật : “ Bạch Thế-tôn ! Có Quốc vương hỏithế nào là Tỳ- kheo mắc phải tội đại vọng ngữ ?”

Phậtdạy : “ Nầy Ca-Diếp ! Nếu có Tỳ-kheo vì cầu lợi, vìviệc uống ăn, rồi làm những cách dua nịnh gian ngụy khitrá, thế nào cho người đời tưởng thật ta là bực khấtsĩ, để ta được danh to lợi lớn. Tỳ-kheo nầy nhiều ngusi, tự biết rằng chính mình chưa chứng đặng bốn quả thánh,trong lòng luôn suy nghĩ phải làm thế nào cho người đời,các Ưu-Bà-Tắc, Ưu-Bà-Di đều nói rằng ta đã chứng quả,là bực phước đức lớn, thiệt là thánh nhơn, Tỳ-kheo suynghĩ cầu lợi chẳng phải cầu pháp, ta phải đi đứng đoannghiêm, chấp trì y-bát, giữ đúng oai nghi, ở riêng nơi yênvắng như A-La-Hán. Làm cho người đời đều bảo rằng : Tỳ-kheo như thế là bực lành bực tốt nhất, ngài tinh cần khổhạnh tu pháp tịch diệt. Như thế ta sẽ có đệ tử đông,cũng sẽ được người cúng dường trọng hậu, khiến hàngphụ nữ cung kính mến tưởng.

Nếucó Tỳ-kheo hay Tỳ-kheo-ni nào làm những sự như vậy thì mắcphải tội đại vọng ngữ.

Lạinhư có Tỳ-kheo vì muốn kiến lập chánh pháp vô thượng nênở nơi yên vắng, tự chẳng phải A-la-Hán mà muốn làm chomọi người tin tưởng gọi là A-La- Hán, là Tỳ-kheo tốt,Tỳ-kheo lành, Tỳ-kheo tịch-tịnh, được nhiều người xuấtgia theo làm quyến thuộc. Nhơn đó khuyên dạy các Tỳ-kheovà Ưu-Bà-tắc phá giới, đều khiến trì giới. Do đây màchánh pháp được kiến lập, làm rạng rỡ pháp vô thượngcủa Như-Lai, khai hiển phương đẳng đại-thừa, độ thoátvô lượng chúng sanh, khéo hiểu những nghĩa khinh trọng trongkinh luật mà Như-lai đã nói. Tỳ-kheo nầy lại nói : Nay tacũng có Phật tánh. Có kinh điển gọi là tạng bí-mật củaNhư- lai. Nơi trong kinh nầy, ta sẽ quyết định đặng thànhPhật đạo, có thể dứt sạch vô lượng ức phiền não kiếtsử. Vì vô lượng Ưu-Bà-Tắc mà nói rằng : Các ông đềucó Phật tánh, ta cùng các ông đều sẽ an trụ nơi cấp bựccủa Như-lai mà thành vô thượng chánh giác, đứt sạch vôlượng phiền não kiết sử. Tỳ-kheo nói những lời trên đâykhông gọi là người phạm đại vọng ngữ mà gọi là bựcBồ- Tát.

Nhưnói : Người phạm tội đột-kiết-la phải bị đọa trongđịa ngục chịu tội đến tám trăm muôn năm tính theo nămtháng ở cõi trời Đao-Lợi, huống là cố phạm tội du- lan-giá.

Trongđại-thừa đây, nếu có Tỳ-kheo phạm tội du-lan-giá thờikhông nên thân cận.

Nhữnggì gọi là tội du-lan-giá trong kinh đại-thừa ?

Nếucó đàn-tín tạo lập chùa Phật, đem các tràng hoa dùng cúngdường Phật. Có Tỳ-kheo thấy chỉ trong xâu hoa, không hỏixin mà lấy thời phạm tội du- lan-giá. Hoặc biết hay chẳngbiết cũng đều phạm như vậy. Nếu vì tâm tham mà phá hoạitháp Phật thời phạm tội du-lan-giá. Không nên thân cận nhữngngười như vậy.

Nếuđàn-tín thấy tháp Phật hư , vì muốn tu bổ cúng dườngxá lợi, nơi trong tháp nầy hoặc được châu báu bèn đemgởi Tỳ-kheo. Tỳ-kheo lãnh rồi bèn tự ý thọ dụng. Tỳ-kheonầy gọi là hạng bất tịnh, sanh nhiều sự đấu tránh. CácƯu-Ba- Tắc tốt không nên gần gũi cúng dường. Tỳ-kheo nhưvậy gọi là vô căn, gọi là hai căn, gọi là bất định căn.

Ngườibất định căn lúc tham muốn làm gái, thân liền biến làmgái, lúc tham muốn làm trai thân liền biến làm trai.

Tỳ-kheonhư vậy gọi là ác-căn, không gọi là nam, không gọi là nữ,không gọi là tại gia, không gọi là xuất gia. Với Tỳ-kheonầy, không nên thân cận cung kính cúng dường.

TrongPhật pháp, về pháp tắc của hàng Sa-Môn, phải sanh lòng từbi lợi ích chúng sanh, cho đến loài trùng kiến cũng phảiban sự vô úy, đây là pháp của Sa- Môn. Xa lìa uống rượucho đến ngữi mùi đây là pháp của Sa-Môn. Chẳng đượcvọng ngữ cho đến trong giấc mộng cũng không nghĩ đến sựvọng ngữ, đây là pháp của Sa-Môn. Chẳng sanh lòng dục chođến trong giấc mộng cũng không nghĩ đến lòng dục,đây là pháp của Sa-Môn.

Ca-DiếpBồ-Tát bạch Phật : “ Bạch Thế-Tôn ! Nếu Tỳ-kheo ngủchiêm bao hành dâm dục, có phạm giới chăng ?”

Phậtdạy : “Không phạm giới. Ở nơi sự dâm dục, phải sanhý nghĩ là hôi nhơ, cho đến không có một niệm tưởng làsạch tốt. Tránh sự nghĩ tưởng ái nhiễm hàng phụ nữ.Nếu chiêm bao hành dâm, lúc thức dậy phải hổ thẹn ăn năn,.Nếu móng lòng dâm dục phải kíp trừ bỏ. Tỳ-kheo đi khấtthực, lúc nhận cúng dường, phải có ý tưởng như ăn thịtcon đẻ trong thời kỳ đói kém. Pháp môn trên đây là kinhluật của Phật nói, Người thuận theo đây thời là bựcBồ-tát.

Nếucó kẻ nào nói rằng : Đức Phật cho phép Tỳ-kheo luôn đứngco một chơn, luôn nín lặng không nói, hoặc nhảy vào lửa,nhảy xuống vực, từ trên gộp đá cao tự nhảy xuống chẳngtránh sự hiểm nạn, hoặc uống độc dược, hoặc tuyệtthực, nằm trên tro đất, tự trói tay chơn, hoặc giết hạichúng sanh, bàng môn chú thuật, con nhà hàng thịt, không căn,hai căn, bất định căn, giác quan không đủ, Như-Lai đềucho những người trên đây xuất gia hành đạo. Phải biếtlời nầy là của ma nói.

Nếucó chỗ nào nói rằng cho mặc ma-ha-lăng-già, đều cho chứacất tất cả hột giống, loài cỏ cây đều có thọ mạng,Như-Lai nói lời nầy rồi bèn vào Niết-bàn. Phải biết trênđây là lời của ma nói.

Trướckia Như-Lai cho ăn năm thứ sữa bò cùng với dầu, mật, chomặc y kiều-xa- gia, dép da v.v… trừ những vật của ngoạiđạo.

Như-Laicũng không cho luôn đứng co một chơn, mà bảo theo đúng chánhpháp pháp tùy ý đi đứng nằm ngồi. Như-lai cũng chẳng chotuyệt thực hay uống độc dược, hoặc năm thứ nóng đốtthân, trói cột tay chơn, giết hại chúng sanh, luyện bàng mônchú thuật, dùng ngà voi châu ngọc làm dép da. Chẳng cho mặcma-ha- lăng-già, chứa cất các hột giống. Chẳng nói cỏ câycó thọ mạng. Nếu ai nói Như- Lai cho phép và nói nhưtrên đây, phải biết kẻ ấy là quyến thuộc của ngoạiđạo, không phải là đệ tử của Phật.

Như-Laichỉ cho ăn năm thứ sữa bò và dầu, mật, cho mang dép da,mặc y kiều- xa-gia,. Như-Lai nói tứ đại không có thọ mạng.Kinh luật nào nói như vậy chính là lời của Phật. Thuậntheo lời Phật là đệ tử của Phật. Còn không thuận theolời Phật thời là quyến thuộc của ma. Nếu có người nàotùy thuận kinh luật của Phật, phải biết đó là bực Bồ-Tát.

NầyCa-Diếp ! Thế nào là lời của ma nói, thế nào là lời củaPhật nói. Nay Như-Lai đã phân biệt nhiều cho ông rồi.”

Ca-DiếpBồ-Tát bạch Phật : “ Bạch Thế-tôn ! Nay con mới biếtrõ chỗ sai biệt của lời Phật nói cùng lời ma nói, nhơnđây mà con được ngộ nhập nghĩa sâu của Phật pháp”.

Phậtkhen Ca-Diếp Bồ-Tát : Nầy Ca-Diếp ! Ông có thể hiểu rànhre õnhư vậy, đáng gọi là người thông sáng.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com