Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

01. Phẩm Tự

07/06/201114:12(Xem: 5978)
01. Phẩm Tự

KINH ÐẠI BÁTNIẾT BÀN
DịchTừ Hán Sang Việt: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
TịnhXá Minh Ðăng Quang, Hoa Kỳ Xuất Bản 1990

I

PHẨMTỰ THỨ NHẤT

(Hánbộ trọng quyển thứ nhất)

Nhưvậy, tôi nghe: một lúc nọ, đức Thích-Ca-Mâu-Ni Phật ởtại rừng Ta-La Song-Thọ nơi thành Câu-Thi-Na (1), cùng vớitám mươi ức trăm ngàn vị đại Tỳ-Kheo.

Bấygiờ nhằm ngày rằm tháng hai vào lúc sáng sớm sắp nhậpniết-bàn, đức Phật dùng thần lực vang ra tiếng lớn thấukhắp các nơi, suốt đến trời Hữu-đảnh (2) theo từng ngôn-ngữcủa mỗi loài mà bảo rằng: “Đức Như-Lai Vô-Thượng-Đẳng,Chánh-giác thương mến che chở chúng-sanh, là ngôi nhà to rộngcho chúng sanh, về nương, xem chúng-sanh đồng như La-Hầu-La.

ĐấngĐại-Giác Thế-Tôn sắp nhập Niết-bàn, tất cả chúng-sanhnếu có chỗ nghi nay đều nên bạch hỏi, cũng là lần hỏicuối cùng!

Từmắt, mũi, miệng, đức Thế-Tôn phóng ra các thứ ánh sáng.Những ánh sáng ấy có nhiều mầu : Xanh, vàng, đỏ, trắng,màu pha-lê, màu mã- não, chiếu khắp cõi đại-thiên (3), cũnglại chiếu suốt cả mười phương. Lục-đạo chúung-sanh (4),ai gặp được ánh sáng nầy chiếu đến mình thời tất cảtội- cấu phiền-não đều tiêu trừ. Những chúng sanh nầythấy ánh sáng cùng nghe lời tuyên-bố trên đây, tất cả đềurầu lo, buồn khóc nức nở: “Than ôi! còn gì đấng Từ-Phụ: Thương thay khổ thay !”

Lúcđó khắp đại-địa, núi non biển cả thảy đều chấn động.

Cácchúng sanh bảo nhau rằng : “Chúng ta gắng dằn lòng chớquá buồn khổ. Phải kíp đến thành Câu-Thi-Na, nơi rừng Ta-Lađảnh lễ Phật, cầu thỉnh đức Như-Lai trụ thế thêm mộtthời gian “.

Mọingười lại nắm tay nhau mà nói rằng : “Chúng sanh hết phước,thế gian trống rỗng, những ác nghiệp thêm nhiều.

ĐứcNhư-Lai sắp nhập Niết-bàn. Các ngài mau đến hầu Phật”.

Rồilại cùng than rằng :”Thế gian trống rỗng ! Thế gian trốngrỗng ! Chúng ta từ nay không chỗ phụng thờ, không ai cứuhộ, côi cút nghèo cùng. Một mai xa lìa đấng Vô-Thượng-Giác,nếu có chỗ nghi lầm, chúng ta sẽ bạch hỏi với ai ?”

Bấygiờ các vị đại Tỳ-kheo (5) : Tôn-giả Ma-Ha-Ca-Chiên-Diên,Tôn-giả Bạc-Câu-La, Tôn-giả Ưu-Ba Nan-Đà v.v… chạm phảiánh sáng của Phật, thân của các ngài liền run giật, tâmtưởng mê loạn, hốt hoảng kêu la.

Lạicó tám trăm vạn vị Tỳ-kheo đều là bực vô-lậu A-La-Hán, tâm được tự tại, chỗ làm đã xong, rời các phiền-não,điều-phục các căn, có oai-đức lớn, thành tựu không-huệ,đã khỏi sanh tử, tất cả đều là chơn Phật-tử. Sáng hômấy, lúc mặt trời vừa mọc, các ngài đang nhăn nhành dương,thấy ánh sáng của Phật chiếu đến, các ngài hối nhau súcmiệng, rửa tay. Toàn thân của các ngài đều rởn óc máunổi đỏ như bông ba-la-xa, hai mắt đầy lệ, lòng rất buồnkhổ. Vì muốn lợi-lạc cho chúng sanh, thành tựu hạnh đệ-nhứt-khôngcủa Đại-thừa, cùng muốn hiển phát giáo-pháp phương tiệnbí mật của Như-Lai, để các cuộc thuyết pháp chẳng đoạntuyệt và cũng vì muốn làm nhơn duyên điều phục chúng sanh,nên các ngài vội đến trước Phật, cúi đầu lạy chơn Phật,nhiễu Phật trăm ngàn vòng, rồi chắp tay cung kính ngồi quamột bên.
Lạicó sáu mươi ức vị Tỳ-kheo-ni, như Thiện-Hiền Tỳ-kheo-ni,Ưu-Ba Nan-Đà Tỳ-kheo-ni, Hải-Y Tỳ- kheo-ni, v.v…., đều làbực Đại-A-La-Hán, đả sạch phiền-não, tâm được tự tại,chỗ làm đã xong, các căn điều –phục có oai đức lớn,thành tựu không –huệ.

CácTỳ-kheo-ni ấy cũng vào buổi sáng sớm, lúc mặt trời vừamọc, toàn thân rởn ốc, máu nổi đỏ như bông ba-la-xa, đôimắt đầy lệ, lòng rất buồn khổ, cũng vì muốn lợi lạccho chúng sanh, và làm nhơn duyên điều-phục, nên các Tỳ-kheo-niấy vội đến chỗ Phật, cúi đầu lạy chơn Phật, nhiễuPhật trăm ngàn vòng, rồi chắp tay cung kính, ngồi qua mộtbên. Trong chúng Tỳ-kheo-ni nầy, có những vị Bồ-Tát đếnbực thập-địa an-trụ bất-động. Vì hóa độ chúng sanhnên hiện thân phụ nữ, nhưng thường tu tập bốn tâm vô-lượng(6), đặng sức tự-tại có thể biến-hóa làm Phật.
Bấygiờ lại có một hằng-hà-sa đại Bồ-Tát (7) chứng bựcthập địa an trụ bất động, phương tiện hiện thân. Danhhiệu của các vị Thượng thủ là: Hải Đức Bồ tát,Vô Tận Ý Bồ Tát v.v… Các ngài thảy đều kính trọng Đạithừa, an trụ Đại thừa, hiểu sâu Đại thừa, ưa thích Đạithừa, gìn giữ Đại thừa. Các ngài khéo tùy thuận được tất cả thế gian mà lập thệ rằng : “Những ai chưa giảithoát, sẽ làm cho được giải thoát”.

Cácngài từ vô lượng kiếp về quá khứ tu trì giới pháp thanhtịnh, khéo đem chỗ đã làm dạy lại cho người chưa hiểu,nối thạnh ngôi Tam Bảo (8) làm cho chẳng đoạn tuyệt, saunày sẽ chuyển pháp luân, dùng đại trang nghiêm mà tự trangnghiêm, thành tựu vô lượng công đức như thế, xem chúngsanh đồng như con một. Các vị đại Bồ Tát này cũng vàolúc sáng sớm gặp ánh sáng của Phật chiếu đến cả mìnhrởn ốc, máu đỏ nổi kên như bông ba-la-xa, đôi mắt trànlệ, lòng rất đau xót, vì muốn lợi lạc cho chúng sanh, thànhtựu hạnh đệ nhứt không của Đại thừa, hiển phát giáopháp phương tiện bí mật của Như –Lai, cho các cuộc thuyếtpháp chẳng đoạn tuyệt, cùng làm nhơn duyên điều phục chochúng sanh, nên các ngài vội đến chỗ Phật, cúi đầu lạychơn Phật, đi nhiễu Phật trăm ngàn vòng, chắp tay cung kínhngồi qua một bên.

Bấygiờ lại có hai hằng -ha-sa vị Ưu-bà-tắc (9) thọ trì ngũgiới (10) đầy đủ oai nghi, các ôÂâng Oai Đức Ưu-Bà-Tắc, Thiện Đức Ưu-Bà-Tắc v.v… làm thượng-thủ trong số ấy.Tất cả đều thích quan sát sâu kỹ các môn đối-trị nhưcác môn khổ, vui, thường, vô-thường, tịnh, bất-tịnh, ngã,vô ngã, thiệt, bất thiệt, qui y, phi qui y, chúng sanh, phi chúngsanh, hằng, phi hằng, an, phi an, vi, vô vi, đọan, bất đoạn,niết bàn, phi niết bàn, tăng thượng, phi tăng thượng v.v….Cũng thích muốn nghe vô- thượng đại-thừa, nghe rồi có thểgiảng lại cho người khác, khéo giữ gìn giới luật thanhtịnh, khát ngưỡng đại- thừa, đã tự đầy đủ lại cóthể làm đầy đủ kẻ khác, khéo nhiếp thủ trí-huệ vô-thượng,ưa thích và gìn giữ đại-thừa. Khéo tùy thuận tất cảthế gian, độ người chưa được độ, dạy người chưa đượchiểu, nối giống Tam-Bảo cho khỏi đoạn tuyệt, sau nầy sẽchuyển pháp-luân, dùng đại trang-nghiêm mà tự trang-nghiêm,tâm các vị ấy luôn say sưa nơi giới-hạnh thanh-tịnh, thành-tựunhững công đức như thế, đối với chúng sanh phát tâmđại-bi bình-đẳng xem nhu con một.

Sángsớm hôm ấy, vì muốn làm lễ trà-tỳ (11) thân của Như-lai,nên mỗi người đem vạn bó gỗ thơm: gỗ chiên-đàn trầm-thủy,gỗ ngưu-đầøu chiên-đàn, gỗ thiên -mộc-hương v.v…. Dothần lực của Phật nên các bó gỗ thơm áy chiếu ra nhiềumàu xanh vàng đỏ trắng rất sáng đẹp. Gỗ thơm ấy đềuướp bằng các thứ dầu thơm. Các thứ hoa sen đơm trên nhữngbó gỗ, cùng treo những lá phan năm màu mịn đẹp. Chở gỗlà các thứ xe bằng loại thất bảo (12) thắng bốn ngựahùng tráng. Trên xe tàn lọng che giăng, rủ những tràng hoasen đẹp đủ màu, làm bằng vàng ròng và kim cương, các loạiong đen vui vẻ bu họp trong hoa vang ra tiếng diễn nói nhữngpháp vô thường, khổ, không, vô –ngã và thuật đạo hạnhcủa Bồ- Tát tu tập ngày trước. Lại có các thứ âm nhạchòa tấu thành tiếng buồn than: “Khổ thay ! Khổ thay! Thếgian trống rỗng!” Trước mỗi xe có Ưu-Bà-Tắc bưng hương-ánbằng vàng, bạc, lưu ly, pha lê, trên án xông các thứ hươngthơm thượng hảo, cùng chưng các thứ hoa sen đẹp đủ màu.Các vị Ưu- Bà-Tắc nầy vì muốn cúng dường Phật cùng chưtăng, nên đã dự sắmõ các thứ thực phẩm nấu bằng củichiên-đàn trầm thủy. Những thực phẩm ấy thơm ngon đủsáu vị : mặn, ngọt, chua, cay, đắng, lạt cùng đủ ba đức; mềm dẻo, sạch sẽ, đúng pháp. Khi đến rừng Ta-La, họlấy mạt vàng ròng rải khắp các nơi, rồi trải gấm lụalên trên rộng đến mười hai do-tuần. Họ thiết tòa sư tửcao lớn bằng bảy báu để thỉnh Phật và chư Tăng ngồi.Họ đem dầu thơm quý thoa vào thân cây trong rừng rồi treocác lá phan, các tàn lọng xinh đẹp họ rải những thứ hoađẹp thơm vào các khoảng giữa cây cách nhau. Các Ưu-Bà-Tắcnầy đều suy nghĩ rằng:

“Tất cả chúng sanh nếu ai có chỗ thiếu hụt : cần thứcăn, tôi sẽ cho ăn; cần uống, cho uống; cầnđầu, cho đầu;cần mắt, cho mắt; bất luận là cần dùng thứ gì, tôi sẽcho thứ ấy. Lúc bố-thí như thế tôi sẽ không có lòngtham sân ác độc nhơ-nhớp. Tôi không hề móng niệm cầu phướclộc thế gian mà chỉ nhứt tâm cầu quả vô-thượng bồ-đề”.

Cácvị Ưu-Bà-Tắc nầy đều đã an-trụ nơi đạo bồ-đề. Cácông nghĩ thầm : Hôm nay đức Như-Lai thọ thực của chúngtôi xong sẽ nhập Niết-Bàn”. Vừa nghĩ đến đây, cả mìnhcác ông đều rởn ốc, máu đỏ nổi lên như bông ba-la-xa,đôi mắt tràn lệ, lòng rất buồn khổ. Các ông lật đậtđem những đồ cúng dường dâng lên đức Phật, cúi đầu lạy chơn Phật đi nhiễu trăm ngàn vòng, khóc lóc nứcnở, tiếng động trời đất, nước mắt như mưa. Các ôngthan với nhau rằng : Thế gian sẽ trống rỗng, thế gian sẽtrống rỗng, rồi cac ông lại nhào lăn trước Phật, vừakhóc vừa bạch Phật :” Cúi xin Đức Như-Lai xót thương chúngcon mà nhận lễ cúng dường cuối cùng nầy”.

ĐứcThế-Tôn biết giờ nên yên-lặng không nhận. Các ông yêucầu ba phen mà Phật vẫn không hứa nhận. Không được đứcPhật nhận, các ông rất đau khổ như người có con một phảibệnh chết vừa mới chôn xong. Các ông đem những đồcúng an trí một nơi rồi cùng nhau ngồi qua một bên.

Bấygiờ lại có ba hằng-hà-sa Ưu-Ba-Di thọ-trì ngũ-giới đầyđủ oai nghi, trong số đó có tám vạn bốn ngàn vị thượng–thủ, như các bà Thọ-Đức Ưu-Bà-Di, Đức-Man Ưu-Bà-Di,Tỳ-Xá-Khư Ưu-Ba-Di v.v…Chư Ưu-Bà-Di nầy đều kham hộ trìchánh pháp, vì độ chúng sanh mà hiện thân phụ nữ. Thườngchê trách gia pháp. Tự xem thân mình như bốn rắn độc : thânnầy thường là món ăn của vô số vi trùng, thân nầy hôithúi bị ràng trong ngục tham dục, thân nầy đáng ghét dườngnhư thây chó chết, thân nầy nhơ nhớp, chín lỗ chảy luôn.Thân nầy như thành trì : da mỏng bọc trên máu thịt gân xương,tay chân là gậy gộc ngăn địch, đôi mắt là lỗ hở, đầulà cung điện chỗ của tâm vương ngự. Những ác quỷ giantham, dâm dục, sân hận, thù ghét, si mê, tà kiến cư ngụtrong thành nầy. Đây là chổ vất bỏ của chư Phật ThếTôn, ma phàm phu ngu si lại mê say. Thân nầy là vật không bềnchắc, khác nao bọt nước, cây chuối, cọng lau. Thân nầyvô thường niệm niệm không dừng như làn chớp, nước dốc,như ảo thuật, ngọn lửa, lằn vẽ trên nước. Thân này dễhư rã như cây bên bờ sông lở. Thân nầy không mấychốc sẽ là thức ăn của sói, cồn quạ, kên, chó đói. Có ai là người trí mà ưa thích thân nầy. Đem hết nướcbiển đựng trong dấu chân trâu còn không khó bằng kể chođủ những sự vô thường, nhơ nhớp hôi thúi của thân nầy.Vò quả địa cầu làm cho nhỏ lại bằng trái táo, bằng hạtđình lịch, bằng hạt bụi, là việc dễ hơn kể hết nhữngtội lỗi tai hại của thân nầy. Thế nên phải nhàm bỏ thânnầy như nhàm bỏ đàm mũi, vì những nhơn duyên ấy, các Ư-Bà-Diđây thường tu pháp không, vô-tướng, vô-nguyện. Các bà rấtthích học hỏi kinh điển đại –thừa, thủ hộ đại thừavà cũng có thể giảng dạy lại cho người khác. Dầu là hiệnthân nữ, mà các bà đều là Bồ-Tát, khéo hay tùy thuận tấtcả thế gian, độ người chưa được độ, dạy người chưađược hiểu. Các bà nối giống Tam-Bảo khiến chẳng đoạntuyệt, sẽ chuyển pháp –luân nơi đời vị lai, dùng đạitrang nghiêm để tự trang nghiêm. Đối với chúng sanh phát tâm đại bi bình dẳng, xem như con một. Sáng sớm hôm ấy,các bà bảo nhau đến rừng Ta- La. Các bà đem rất nhiều đồcúng dường cùng đến trước Phật, cúi đầu lễ chơn Phật,đi nhiễu trăm ngàn vòng rồi bạch Phật rằng : “ Thế-Tôn! Hôm nay chúng con sắm sửa đồ cúng dường kính dưng lênđức Thế-Tôn và chư Tăng. Ngửa mong Đức Như-Lai thươngxót nhận cho”. Các bà ba phen khẩn cầu mà đức Phật yênlặng không nhận. Các bà than thở ngồi qua một bên.
Bấygiờ nơi thành Tỳ-Gia-Ly, các quyến-thuộc trai gái già trẻcủa dòng Ly-Xa và những quyến thuộc của vua chúa ở cácnước, vì cầu chánh pháp nên khéo tu giới hạnh, đầy đủoai- nghi, trừ dẹp các môn dị học làm tổn hại chánh phápø.Họ thường bảo nhau rằng :” Chúng ta phải dùng vàngbạc kho đụn làm cho tạng chánh-pháp thâm-áo còn mãi nơiđời. Nguyện cho chúng ta thường được tu học. Nếucó ai khinh chê chánh pháp của Phật thời phải cắt lưỡingười đó”. Họ lại nguyện rằng :” Người xuất gia nếuphá hư giới cấm, chúng ta bắt phải thôâi tu, huờn tục,để làm tôi mọi. Còn bực hộ-trì chánh pháp giới đứctinh nghiêm, chúng ta phải kính trọng phụng thờ như cha mẹ.Nếu chư Tăng có thể tu theo chánh pháp, chúng ta phải tùyhỉ tán trợ cho những vị ấy được thế lực”. Nhữnghoàng tộc nầy rất thích nghe kinh điển đại thừa, và cũngcó thể giảng giải lại cho người khác những pháp đạithừa mà họ đã được nghe. Tất cả đều thành tựu nhữngcông đức như vậy. Danh hiệu của họ là : Tịnh Vô CấuTạng Ly Xa Tử. Tịnh Bất Phóng Dật Ly Xa Tử, Vô Cấu TịnhĐức Ly Xa Tử, v.v… Họ bảo nhau kíp đến chỗ Phật cùngđem vô số đồ cúng dường với vô số châu minh nguyệt,gỗ trầm, chiên đàn, chở bằng những thớt tượng lớn vànhững cỗ xe báu tứ mã. Trên xe trang hoàng vô số phang lọng.Lúc đến trước Phật, họ cúi đầu lạy chơn Phật, đi nhiễutrăm ngàn vòng, rồi bạch rằng: ”Thế Tôn! Hôm nay chúngcon sắm các phẩm vật cúng dường đức Phật và chư Tăng.Ngửa mong đức Như Lai thương xót nhận cho”.

ĐứcPhật yên lặng không hứa nhận. Các hoàng tộc chẳng đượctoai nguyện, lòng rất buồn khổ, do thần lực của Phật,họ bay lên cao cách đất bảy cây đa la rồi yên lặng màtrụ giữa hư không.

Bấygiờ lại có vô số Đại Thần Trưởng Giả kính trọng đạithừa, ủng hộ đại thừa, dẹp trừ các phái dị học, nhưmưa đá tuôn nát cỏ cây. Các ông Nhựt Quang Trưởng giả,Hộ Thế Trưởng giả, Hộ Pháp, Trưởng giả, v.v… là bựcthượng thủ trong hàng người ấy. Họ sắm vô số đồ cúngdường cùng đem nhau đến trước Phật, cúi đầu lạy chơnPhật, đi nhiễu trăm ngàn vòng rồi bạch rằng: ”Thế Tôn! Hôm nay chúng con sắm các phẩm vật dưng cúng đức Phậtvà chư Tăng. Ngửa mong đức Như Lai thương xót nhận cho”.

ĐứcPhật yên lặng chẳng hứa nhận. Các vị Trưởng giả khôngđược toại nguyện, lòng rất buồn khổ. Do thần lực củaPhật, họ bay lên cao cách đất bảy cây đa la rồi yên lặngtrụ giữa hư không.

Bấygiờ vua thành Tỳ-Xá-Ly và vua các nước, trừ vua A-Xà-Thếvà phu nhơn, mỗi vua cùng với các bà phu nhơn và thần dânđem theo vô số cúng phẩm đến rừng Ta-La. Các vua và phunhơn đây đều đã an trụ nơi chánh pháp, kính trọng và rấtmến đại thừa, thương chúng sanh đồng như con một. Lúcđến trước Phật, các vua và phu nhơn bạch rằng: ”Bạchđức Thế Tôn ! Hôm nay chúng con sắm phẩm vật dưng cúngđức Phật và chư Tăng.Ngửa mong đức Như Lai thương xótnhận cho”.

ĐứcPhật tự biết chưa phải lúc, nên cũng chẳng hứa nhận.Các vua và phu nhơn không được toại nguyện, lòng rấtbuồn khổ, ngồi qua một bên.

Bấygiờ có vô số Thiên –Nữ. Thượng thủ Quảng-Mục Thiên-Nữbảo rằng: ”Chị em xem kia! Đại chúng sắm phẩm vậtmuốn cúng dường Phật và chư Tăng. Chúng ta cũng nên đemphẩm vật dưng lên đức Phật, đức Phật thọ xongsẽ nhập Niết-bàn. Chị em nên biết, Phật xuất thế rấtkhó, được cúng dường Phật lần cuối cùng càng khó hơn.Nếu Phật nhập Niết bàn thời thế gian sẽ trống rỗng”.

HàngThiên Nữ nầy đều giữ gìn giới hạnh, đầy đủ oai nghi,rất thích tu học và hộ trì đại thừa, khéo hay tùy thuậntất cả thế gian, độ người chưa được độ, dạy ngườichưa được hiểu, sẽ chuyển pháp luân ở vị lai, dùng đạitrang nghiêm để tự trang nghiêm bình đẳng thương chúng sanhđồng như con một. Vì muốn lợi lạc cho chúng sanh, thànhtựu hạnh đệ-nhứt-nghĩa-không của đại thừa hiển phátgiáo pháp phương tiện bí mật của Như Lai, mà cũng muốncác sự thuyết pháp không đoạn tuyệt, nên các Thiên Nữsắm vô số đồ cúng dường ở cõi trời và vô số thứhương trời, chở trên những xe báu trần thiết vô số lọngbáu, phan báu, bửu châu, kỹ nhạc, rải vô số hoa trời, cùngnhau đến trước Phật, khóc lóc lạy chơn Phật, đi nhiễutrăm ngàn vòng rồi bạch rằng :” Ngửa mong đức Như Laithương xót nhận phần cúng dường cuối cùng
củachúng con”.

ĐứcPhật yên lặng chẳng nhận. Các Thiên Nữ chẳng được toạinguyện, lòng rất buồn khổ, ngồi qua một bên.

Bấygiờ có vô số chư Thiên- Tử, Thiên- Vương, tứ Thiên- Vương,vô số Thiên Thần, Tỳ- Sa-Môn- Thiên-Vương làm thượngûthủ; vô số Long Vương Hòa-Tu-Kiết-Long- Vương, Nan-Đà-Long-Vương,Bạt-Nan-Đa Long-Vương làm thượng thủ; vô số Kim-Sí-Điểu-Vương, Hàng-Oán-Điểu- Vương làm thượng thủ; vô số Càn-ThátBà- Vương Na-La- Đạt- Vương làm thượng thủ; vô số Khẩn-Na-La-Vương, Thiện-Kiến- Vương làm thượng thủ; vô số Ma-Hầu-La-GiàVương, Đại-Thiện-Kiến Vương làm thượng thủ; vô số A-Tu-LaVương, Viêm-Bà-Lợi- Vương làm thượng thủ; vô số Đà-Na-Bà-Vương, Vô-Cấu-Hà-Thủy-Vương, Bạt-Đề-Đạt-Đa Vươnglàm thượng thủ, vô số La-Sát- Vương, Khả- Úy- Vương làmthượng thủ; vô số Thọ-Lâm-Thần-Vương, Lạc-Hương-Vươnglàm thượng thủ; vô số Hải- Thần, Hà-Thần, vô số Trì-Chú-Vương,Đại-Huyễn-Vương làm thượng thủ; vô số Quỷ-My, Thiện-Kiến-Vương làm thượng thủ, vô số Quỷ-Vương, Bạch-Thấp-Vưonglàm thượng thủ; vô số Tượng- Vương; vô số Sư-Tử-Vương;vô số Điểu-Vương; vô số Ngưu-Vương; vô số Phong-Vương;vô số Vân-Vũ-Vương; vô số Thần-Tiên v.v… Đại- chúngtrên đây đều đem vô số phẩm vật, vô số hương hoa, vôsố nhũ mật hảo hạng đến lễ Phật cúng dường.

ĐứcNhư-Lai đều chẳng hứa nhận. Họ rất buồn khổ ngồi quamột bên.
ChưTỳ-Kheo, Tỳ-Kheo-Ni thảy đều họp đủ, chỉ thiếu mặthai chúng Ma-Ha-Ca-Diếp va A-Nan- Đa.

Hômấy toàn rừng Ta-La bỗng đổi màu trắng như lông bạch hạc.Trên hư không tự nhiên có tòa nhà thất bửu, dưới tòa nhàcó ao suối mọc đầy hoa sen xinh đẹp, như vườn hoan hỉở Thiên-cung Đao- Lợi. Cả rừng Ta-La cũng biến thành trangnghiêm xinh đẹp khác thường.

TrờiĐế-thích, cũng như Tứ-Thiên-Vương, và chư thiên trong dụcgiới đều đem phẩm vật thượng hảo dưng lên đức Phật, mong Phật nhận phần cúng dường cuối cùng của mình hầuđược sớm thành tựu pháp bố- thí ba-la-mật, nhưng đứcPhật vẫn không hứa nhận. Chư Thiên-Dục giới không đượctoại nguyện, lòng rất buồn khổ, ngồi qua một bên.

ĐạiPhạm-Thiên-vương cùng Chư Thiên sắc giới đến lễ Phật,tha thiếtá dưng phẩm vật cõi sắc. Phật không hứa nhận.Đại Phạm-Thiên và Chư-Thiên sắc giới không được toạinguyện, lòng rất buồn khổ ngồi qua một bên.

Bấygiờ Ma-Vương Ba-Tuần cùng quyến thuộc vô lượng đại chúngmở cửa địa ngục ban nước thanh- tịnh, nhơn đó bảo đạichúng rằng : Nay đây các người không làm gì được, chỉnên chuyên niệm Như- Lai Ứng-Cúng Chánh-Biến-Tri, trần thiếtlễ tùy hỉ cúng dường cuối cùng, các người sẽ đượcan vui mãi mãi” . Liền đó, Ma-Ba-Tuần dẹp bỏ dao gươm v.v…, những độc cụ trong địa ngục cùng làm mưa to dập tắtngọn lửa đang cháy hừng. Do thần lực của Phật, Ma-Vươnglại phát tâm lành truyền lệnh cho toàn thể quyến thuộcma đều bỏ hết binh khí, rồi mang vô số cúng phẩm cùngnhau đến chổ Phật, cúi đầu lạy chơn Phật mà bạch rằng:’ Chúng con từ nay ưa thích và gìn giữ đại thừa. BạchThế- Tôn ! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn vì cúng dường,vì sợ hải, vì phỉnh người, vì tiền của, vì tùy theo ngườiv.v… mà thọ lấy pháp đại thừa này hoặc chơn hoặc ngụychúng con nói chú nầy để trừ diệt sợ hải của ngườiđó : “Sá chỉ, trá trá la sá chỉ, lô ha lệ, ma ha lô halệ, a la, giá la, đa la, tóa ha”.

Bàichú nầy có thể làm cho người điên cuồng, người kinh sợ,người thuyết pháp, người chẳng dứt chánh pháp đều đượcan ổn. Vì hàng phục ngoại đạo, vì gìn giữ thân mình, vìhộ trì chánh pháp, vì hộ trì đại-thừa, mà chúng con nóibài chú nầy. Nếu người nào thọ trì chú nầy thờikhông còn sợ voi dữ làm hại; hoặc đi đến rừng hoang, đầmtrống, những nơi nguy hiểm chẳng sanh sự kinh sợ; cũng khôngcó những tai nạn nước, lửa, sư tử, cọp, sói, trộm, cướp,vua, quan. Bạch đức Thế-Tôn ! Nay đây, chúng con khôngvì dua nịnh mà nói những việc nầy. Ai thọ trì bàichú nầy thời con sẽ chí thành ủng hộ làm cho thêmthế lực. Ngửa mong đức Như-Lai thương xót nhận phần cúngdường cuối cùng của chúng con”.

ĐứcPhật bảo Ma-Vương Ba-Tuần rằng :” Như-Lai không nhận thựcphẩm của nhà ngươi dưng, mà chỉ nhận lấy thần chú củangười nói, vì Như-Lai muốn cho chúng sanh và bốn bộ chúngđược an vui”.

MaVương cầu thỉnh ba lần, mà đức Phật vẫn không hứa nhận.Ma Ba-Tuần không được toại nguyện, lòng rất buồn khổ,ngồi qua một bên.

Đại-Tự-Tại-Thiên-Vươngcùng vô lượng Chư-Thiên sắm những cúng phẩm trội hơn tấtcả thứ phẩm vật của các đại chúng trời người đã thuậtở trước, cho đến phẩm vật của Phạm-Thiên Đế- Thíchsánh với những cúng phẩm nầy thời như khối mực đen sánhvới đống châu ngọc, một cây lọng báu nhỏ nhứt giươngra có thể che trùm cả cõi đại thiên. Đại-Tự-Tại ThiênVương cùng Chư-thiên đem những cúng phẩm ấy đến chỗ Phật,cúi đầu lạy chơn Phật đi nhiễu trăm ngàn vòng rồi bạchrằng :” Thế-Tôn ! Cúng phẩm của chúng con dưng lên đâyrất hèn mọn khác nào con muỗi dưng cho Chu-Thiên. Lạicũng như đem một bụm nước đổ vào biển lớn, thắpmột cây đèn nhỏ giúp sáng cho trăm ngàn mặt trời, cầmmột cái bông thêm vào vườn bông giữa mùa xuân muôn hoa đuanở, đặt một hột đình lịch thêm lớn cho núi Tu-Di. Nàocó ích gì cho biển rộng, mặt trời, vườn hoa, núi lớn.Cúng phẩm của chúng con đối với đức Phật cũng như thế.

Dầumang cả hương hoa, kỹ nhạc, phan lọng đầy khắp cõi đạithiên đến cúng dường Như-lai còn không đáng kể. Vìsao vậy ? Vì đức Như-Lai thường ở địa ngục, ngạquỷ, súc sanh trong các ác thú thọ nhiều sự khổ để cứuvớt mọi loài. Xin đức Thế-tôn thương xót nhận phần cúngdường của chúng con.

ĐứcPhật yên lặng không hứa nhận. Đại-Tự-Tại Thiên-vươngcùng chư Thiên không được toại nguyện lòng rất buồnkhổ, ngồi qua một bên.

Bấygiờ phương đông cách đây vô lượng vô số a-tăng-kỳ hằnghà sa vi trần thế giới, nơi cõi Ý- Lạc-Mỹ-Âm, có Phậthiệu Hư-Không-Đẳng Như-Lai Ứng-Cúng Chánh-Biến-Tri Minh-Hạnh-Túc Thiện-Thế Thế gian-giải Vô-thượng-sĩ Điều ngự trượng-phuThiên-nhơn-sư Phật Thế-Tôn, bảo vị đệ tử lớn nhứtlà Vô-Biên-Thân Bồ-Tát rằng : “Thiện- nam- tử nên quaTây phương Ta-Bà thế giới. Cõi ấy có Phật Thích-Ca-Mâu-Niđủ mười đức hiệu sắp nhập niết bàn. Ông đem cơm thơmăn vào an ổn nơi cõi nầy qua dưng lên Phật Thích-Ca-Mâu-Ni,Phật thọ rồi sẽ nhập niết bàn. Nhơn đó ông có thể lễkính Phật cầu giải quyết những điều nghi”.

Vô-Biên-ThânBồ-Tát tuân lời Phật dạy, liền cùng vô lượng chúng Bồ-Tátđồng đến cõi Ta- Bà. Lúc ấy toàn cõi Ta-Bà chấn độngsáu cách. Đại chúng nơi rừng Ta-La : Phạm-Thiên Đế-thích,Tứ Thiên- Vương, Ma-Vương-Ba-Tuần, Đaiï-Tự-Tại-Thiên v.v…Thấy đất rúng động, cả mình rỡn ốc, cổ lưỡi khô khantự thấy thân mình không còn ánh sáng mất cả oai đức, kinhhãi run rẫy đều muốn giải tán.

Văn-Thù-Sư-LợiBồ-Tát liền đứùng dậy bảo đại chúng rằng :”Mọingười chớ sợ ! Cách đây về phương đông vô lượng vôsố a-tăng-kỳ hằng-hà-sa vi-trần thế giới (13) có cõi Ý-lạc-Mỹ-Âm. Phật Hư- Không-Đẳng đủ cả mười đức hiệu. Nơicõi đó có đại Bồ-tát tên Vô-Biên-Thân cùng vô lượngBồ-Tát sắp đến đây. Bởi oai đức của đại Bồ-Tát ấylàm oai quang của mọi người phải ẩn đi. Mọi người nênvui mừng đừng kinh sợ”.

Liềnđó mọi người đều thấy rõ chúng đại Bồ-tát nơi cõiMỹ-Âm, như nhìn trong gương tự thấy thân mình.

Văn-ThùSư-Lợi Bồ-Tát lại bảo đại chúng : “ Nay đây, mọi ngườithấy chúng đại Bồ-Tát đó như thấy đức Phật Thích-Ca.Do thần lực của Phật sẽ được thấy vô-lượng chư Phậtở chín phương”.

Bấygiờ đại chúng đều thấy Vô-Biên-Thân Bồ-Tát cùng quyếnthuộc của ngài. Nơi mỗi lỗ chơn lông của Vô-Biên-ThânBồ-Tát đều xuất sanh một hoa sen lớn, mỗi hoa sen đềucó bảy muôn tám ngàn thành ấp rộng như thành Tỳ-Gia-Ly.Vách thành hào thành toàn bằng thất bảo, cây báu hàng liệtbông trái sum sê.

Gíonhẹ thổi động vang ra tiếng hòa nhã như tiếng nhạc trời.Nhơn dân trong những thành ấy nghe tiếng gió reo liền đặnghưởng tho nhiều sự vui vẻ. Nước trong hào thành trong sạchthơm tho như chơn luy-ly, trên mặt nước có thuyền thất bảo,chúng nhơn ngồi thuyên dạọ chơi tắm gội rất mực vui sướng.Trong hào lại có vô lượng hoa sen đủ màu: xanh, vàng, đỏ,trắng, lớn như bánh xe. Trên bờ hào lại có vườn rừng,trong mỗi vườn có năm ao suối đầy hoa sen bốn màu, hươngthơm ngào ngạt. Nưóc ao sạch trong có các loài chim bơi lội.Trong vườn lại có nhiều lâu đài, mỗi tòa lâu đài rộngbốn do-tuần, vách cột mặt đất toàn bằng các chấtbáu, vàng, bạc, lưu ly, pha lê, trong ấy có nhiều ao suốithất bảo, bực thang bằng vàng ròng, vàng Diêm-Phù-Đàn làmcây, không khác vườn Hoan-ỷ ở cung trời Đao-Lợi. Nơi mỗithành ấp ấy có vô số dân chúng luôn luôn vui sướng. Dânchúng nầy chỉ nghe tiếng pháp vô- thượng đại-thừa, khôngnghe danh từ gì khác. Có vị quốc vương ngự trên tòa sưtử (14) dùng pháp đại- thừa giáo hóa nhơn dân.Và nhơn dânbiên chép đọc tụng, tu hành theo kinh điển đại-thừa. Nhờthần lực của Bồ-Tát mà đại chúng được thấy các sựbiến hóa ấy. Thân của Bồ-Tát cao lớn vô-lượng vô-biênđồng hư không, trừ Phật, không ai có thể thấy ngằnmé thân của ngài. Vô-Biên-Thân Bồ-Tát cùng vô-lượng Bồ-Tátthị-hiện thần-thông như thế rồi, đem vô lượng cúng phẩmvà thức ăn thơm ngon đến chỗ Phật, ai ngửi đến mùi thơmcủa thức ăn nầy thời phiền não đều tiêu diệt, đảnhlễ chơn Phật mà bạch rằng : ”Ngửa mong đức Thế-Tônthương xót nhận đồ cúng dường của chúng con”. Các Bồ-Tátba phen dưng bạch, đức Phật biết chưa phải lúc nên khônghứa nhận. Vô-Biên-Thân Bồ-Tát cùng chúng Bồ-Tát ngồi quamột bên.

Cáccõi Phật ở Nam-phương, Tây-phương, Bắc-phương, cũng cóvô lượng Vô-Biên-Thân Bồ- Tát và vô lượng đại Bồ-Tátở mười phương đều đến rừng Ta-La. Bốn bộ chúng ởDiêm-Phù- Đề (15) hội về đông đủ, trừ Ma-Ha-Ca-Diếp,A-Nan-đà, vua A-Xà-Thế và quyến thuộc của vua nầy. ThầnĐà- Na-Bà, A-Tu-La nhẫn đến mười sáu loài ác độc, rắn,rít, bò cạp, bọ hung v.v… đều bỏ ác niệm mà sanh lòngnhân từ xem nhau như cha mẹ, chị em. Tất cả chúng sanhtrong cõi Đại- thiên sanh lòng nhân từ đối với nhau cũngnhư thế, trừ hạng nhứt-xiển-đề.

Hômấy, cả đại thiên thế giới do thần lực của Phật, biếnthành trang nghiêm đẹp sáng như cõi Cực lạc của Đức Vô-Lượng-ThọPhật ở phương Tây (16). Đại-chúng trong pháp-hội Ta-La đềuthấy rõ các thế giới của chư Phật ở mười phương, nhưthấy mình trong gương sáng.ï

Lúcấy ánh sáng năm màu từ mặt Phật phóng ra bao trùm đạihội rồi thâu vào miệng Phật. Cả chúng-hội trời, người,a-tu-la v.v… thấy ánh sáng thâu vào miệng Phật, thời cảkinh mà nói rằng : “Đức Phật phóng ánh sáng rồi thâu vàonơi miệng, chắc có duyên cớ. Hay chính là tướng sắp nhậpNiết-Bàn khổ thay !

Khổthay ! Sao Đức Thế-Tôn lại rời bỏ bốn tâm vô-lượng,chẳng nhận sự cúng dường của Trời, của ngươi. Mặttrời Thánh-huệ từ nay sắp tắt hẳn, thuyền pháp vô-thượngtừ nay sắp chìm mất. Thế gian rất khổ. Than ôi ! Đau lònglắm thay ! Than xong, đại chúng nhào lăn kêu khóc, nước mắthòa máu rơi đầy nơi đất.

THÍCHNGHĨA

(1) Rừng cây Ta-La, cũng đọc là Sa-La, vì chỗ Phật ngự,bốn phía có tán cây Ta-La chia làm bốn cặp nêngọi là Ta-La Song-Thọ Câu-Thi-Na

(2)HỮU ĐẢNH gọi đủ là “Tam hữu chi đảnh” – Cõi trờicao nhất trong tam giới, tức là sắc Cứu-Cánh-Thiên.

(3)CÕI ĐẠI-THIÊN, nói đủ là Tam-Thiên Đại-Thiên Thế-Giới: Một Thái-dương-hệ gọi là một tiểu thế- giới, gồmmột từng trời Sơ Thiền và một cõi dục.
Mộtngàn tiểu thế giới hiệp lại cùng một từng trời Nhị-Thiền,gọi là một Tiểu-Thiên Thế- giới ( 1 T H. G x 1000 = 1 TiểuThiên )
Mộtngàn Tiểu Thiên hiệp lại cùng một từng trời Tam-Thiền.Gọi là một Trung-Thiên Thế- Giới ( 1 T. TH. G. x 1000 = 1 T. TH x 1000 = 1 Trung Thiên )
Mộtngàn Trung-Thiên hiệp lại gồm một từng trời Tứ-Thiền,gọi là một Đại-Thiên Thế-Giới ( 1 T. TH. G x 1000 = 1 TH x1000 = 1 TR. TH x 1000 = 1 Đại-Thiên)
Từmột Thái-dương-hệ hay một Tiểu Thế-giới phải ba lầnnhơn ngàn chồng lên mới thành một Đại- Thiên Thế-Giới,tức là 1.000.000.000 Tiểu thế giới cùng 1.000.000 trời Nhị-Thiền,1.000 Trời Tam- Thiền và một từng Trời Tứ-Thiền, nên cũngcó chổ gọi Tam-Thiên Đại-Thiên Thế-Giới.

(4)-Trong toàn cõi Đại-Thiên có vô số loài hữu tình chúng sanh.Đại khái chia làm 6 : Trời, Người, A-Tu-La, Qủy, Súc sanh, và Địa ngục. Có chỗ thêm Tiên thànhbảy loài. Có chỗ lược A-Tu- La thành năm loài gọi là “Ngũ-Thú”.

(5)- TỲ-KHƯU có ba nghĩa : Khất-sĩ, Phá ác và Bố-ma.
Cóba trường hợp thành Tỳ-Kheo :
I – Người chứng Thánh quả vô-lậu gọi là pháp tánh Tỳ-kheo.
II- Được Phật hiện diện, gọi là Thiện-Lai Tỳ-kheo,thời thành Tỳ-kheo.
III-Chư Tăng hòa hợp đúng pháp bạch tứ yết- ma trao giớiTỳ-kheo, đây gọi là Tác-pháp Tỳ-kheo.

(6)- TỨ VÔ-LƯỢNG-TÂM : Từ, Bi, Hỉ, Xả. Vận dụng bốn tâmtrên đây bủa khắp vô- lượng chúng sanh trong vô lượng thếgiới, nên gọi là bốn tâm vô lượng.

(7)-Nói đủ là Bồ-Đề-Tát-Đỏa có nghĩa là Hữu-tình đã giácngộ và giác ngộ các hữu tình khác. Bắt đầu từ khi mớiphát tâm bồ đề vô thượng : “ nguyện thành Phật độmuôn loài “, tu lục độ vạn hạnh, phá hai chướng, chứngpháp thân. Tất cả có 57 bực Bồ-Tát : những bực Thập Địađã chứng Pháp thân gọi là Đại-Bồ-Tát ( Bồ-Tát Ma-Ha-Tát)

(8)-TAM BẢO : Ba ngôi báu quý nhứt ở thế gian : Phật Bảo, PhápBảo, Tăng Bảo.

(9)-Ưu-Bà-Tắc ; Cận-sự-nam. ƯU-BÀ-DI : Cận-sự-nữ. Hai pháitại gia thường gần gũi hộ trì Tam-Bão. Bắt đầu qui-y Tam-Bảothời được danh hiệu nầy.

(10)-NGŨ-GIỚI: năm điều giới của hàng tại gia : không được sát sanh,không được trộm cắp, không được tà dâm, không đượcvọng ngữ, không được uống rượu say.

(11)-TRÀ-TỲ : Lễ thiêu thi hài lấy tro để thờ.

12)-THẤT-BẢO : vàng, bạc, lưu ly, ngọc xà cừ, ngọc mã não,ngọc san hô, ngọc hổ phách, trân châu

(13)-A-TĂNG-KỲ : vô số HẰNG-HÀ-SA : Sông Hằng (Gange) làcon sông to, nguồn từ Hy-Mã- Lạp-Sơn (Himalaya) chảy qua trungchâu Ấn-Độ đổ ra Ấn-Độ-Dương. Bờ sông và đáy sôngnày có nhiều cát mịn. Khi thuyết pháp, Phật thường dùngsố hột cát của sông Hằng để thay một số lớn.
VI-TRẦN: Bụi nhỏ. Số nhiều như bụi nhỏ không thể tính đếùmđươc.
THẾ-GIỚI: Mỗi thế-giới là cả một Đại-Thiên, phạm vi giáo hóacủa một Đức Phật.

(14)-TÒASƯ-TỬ : Chỗ ngồi chạm hình sư tử tiêu biểu oai đức tựtại đối vớiđại chúng, như sư tử oai khiếp quần thú.

(15)-DIÊM-PHÙ-ĐỀcũng gọi là Nam Thiệm-Bộ-Châu, tức là quả địa cầu nầy.

(16)A-Di-PHẬT, Phạm-âm, Tàu dịch là Vô-Lượng-Thọ-Phật, hoặcVô- Lượng-Quang-Phật, giáo chủ cõi Cực-Lạc, cũnggọi cõi An-Lạc cõi An-Dưỡng. Cõi nầy cách cõi Ta-Bà đâymười muôn ức cõi về phương Tây.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com