Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

149. Đại Kinh Sáu Xứ

19/05/202011:39(Xem: 9835)
149. Đại Kinh Sáu Xứ

TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO

TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRUNG BỘ KINH

( Majhima  Nikàya )


Tập IV
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli

Chuyển thể Thơ :

Giới Lạc  MAI LẠC HỒNG  tự TUỆ NGHIÊM

 ( Huynh Trưởng Cấp Tấn  - GĐPTVN tại Hoa Kỳ )

Email : [email protected]


149. Đại Kinh SÁU XỨ

( Mahàsalàyatanika sutta )

 

Như vậy, tôi nghe :

 

          Một thời, Đức Thế Tôn Thiện Thệ        

          Sa-Vát-Thí – Xá-Vệ  – trú qua

              Tinh Xá Chê-Tá-Vá-Na 

       A-Na-Thá-Pin-Đi-Ka cúng dường.

          Tại đây, đấng Pháp Vương cho gọi

          Chư Tỷ Kheo, và nói như vầy :

 

        – “ Này các Tỷ Kheo ! Hôm nay

       Ta vì Kinh Sáu Xứ này giảng ra

          Hãy nghe và suy nghiệm cho kỹ ”.

 

    – “ Bạch Thế Tôn Toàn Trí ! Xin vâng ! ”.    

 

              Sau vâng đáp của Chúng Tăng,

      Đức Chánh Đẳng Giác nghiêm thân thuyết vầy :

 

    – “ Các Tỷ Kheo ! Ở đây biết, thấy

          Không như-chơn mắt ấy, sắc này, 

              Không như-chơn biết, thấy ngay

       Nhãn-thức, nhãn-xúc ở đây đêm ngày,

          Do duyên nhãn xúc này liền khởi

          Lạc thọ với khổ thọ, hay là

              Bất khổ bất lạc thọ, mà

       Không như-chơn biết, thấy qua điều là

          Cảm thọ, và vị ấy ái-trước

          Đối với mắt, ái-trước sắc, và

              Ái-trước nhãn thức, cùng là

       Ái-trước nhãn xúc. Do mà duyên đây

          Duyên nhãn xúc khởi ngay lạc & khổ &                

          Bất khổ bất lạc thọ. Vị này

              Ái-trước cảm thọ ấy ngay.

       Vị ấy trú, quán sát rày vị ngon

          Bị ái-trước nên còn hệ lụy

          Và tham đắm, khả dĩ do vầy

              Năm thủ uẩn đi đến đây

       Tích trữ trong tương lai ngay như vầy.    

          Và ái của vị này đưa đến

          Sự tái sanh, câu hữu hỷ, tham

              Tìm sự hoan lạc, mê đam

       Chỗ này chỗ khác, ái càng tăng cao.

 

          Những thân-ưu-não nào tăng trưởng

          Tâm-ưu-não tăng trưởng cùng nhau.

              Còn những thân-nhiệt-não nào

       Tăng trưởng, tâm-khổ-não mau tăng cùng.

          Vị ấy cùng cảm thọ thân khổ

          Và cảm thọ tâm khổ dằng dai.

 

              Cũng vậy, các Tỷ Kheo này !

       Không thấy & biết-như-chơn tai, cùng là

          Mũi, lưỡi, thân, ý và các pháp.

          Không thấy, không biết các lục trần

              Một cách như-chơn sáu phần.

       Không thấy & biết-như-chơn cần kể ra

          Ý thức và ý xúc như-thật.

          Do duyên ý-xúc tất khởi ra

              Lạc thọ, khổ thọ – hay là

       Bất khổ bất lạc thọ mà tự thân

          Không thấy & biết-như-chân cảm thọ

          Và vị đó ái-trước ý này,

              Ái-trước đối với pháp đây

       Ý-thức, ý-xúc vị này đắm yêu

          Do ý xúc này đều phát khởi

          Lạc, khổ với bất khổ & lạc này

              Vị ấy cảm thọ ở đây

       Thân khổ, tâm khổ. Và này Chúng Tăng !

          Dù thấy & biết-như-chân như vậy

          Nhưng vị ấy không ái-trước nhân

              Đối với sáu căn, sáu trần

       Không ái-trước ý thức cần biết đây

          Không ái-trước ở đây ý-xúc

          Do ý xúc lạc & khổ khởi ra

              Bất khổ bất lạc thọ, mà

       Vị ấy không ái-trước qua các điều

          Đối với cảm thọ đều như vậy

          Khi vị ấy trú, quán sát về

              Vị ngọt vị ấy không hề

       Bị ái trước, hệ lụy bề đắm say

          Năm thủ uẩn tương lai tàn diệt,

          Ái của vị ấy thiệt khiến làm

              Tái sanh, câu hữu hỷ, tham

       Tìm sự hoan lạc bao hàm nơi đâu.

          Ái được mau đoạn tận mãi mãi

          Thân-ưu-não vị ấy đoạn trừ  

              Tâm-ưu-não được đoạn trừ,

       Thân-nhiệt-não được đoạn trừ trước sau,

          Tâm-nhiệt-não cũng mau đoạn tận

          Thân-khổ-não ắt hẳn đoạn trừ.

              Những tâm-khổ-não đoạn trừ

       Vị ấy cảm thọ lạc, từ thân, tâm

          Kiến gì như-chơn nhằm như vậy

          Thì kiến ấy là chánh kiến ni.

              Như-chơn tư-duy cái gì

       Đó chính là chánh-tư-duy tức thì,

          Tinh tấn gì như-chơn như vậy

          Tinh tấn ấy là chánh-tinh-cần,

              Niệm của vị ấy như-chân

       Đó là chánh-niệm. Định phần như-chân

          Của vị ấy là phần chánh-định,

          Thân nghiệp, ngữ nghiệp, tính mạng sanh

              Đều được tốt đẹp, tịnh thanh.

 

       Rồi từ Thánh đạo Tám ngành ở đây

          Khiến tu tập, tiến hoài sung mãn

          Bốn niệm xứ và bốn chánh cần

              Bốn như-ý-túc, năm căn,

       Năm lực – tu tập tinh cần trải qua

          Phát triển và sung mãn đều khắp,

          Bảy giác chi tu tập tròn đầy

              Phát triển sung mãn hòa hài

       Và nơi vị ấy có hai pháp này :

          Chỉ và Quán. Với đầy thượng trí

          Vị ấy chỉ liễu tri pháp nào

              Cần phải liễu tri duyên vào

       Thượng trí. Đoạn tận pháp nào ở đây

          Đoạn tận ngay với thượng trí ấy.

          Với thượng trí, vị đấy hành trì

              Tu tập về những pháp gì

       Cần phải tu tập mọi thì pháp đây.

          Với thượng trí, vị này chứng ngộ

          Những pháp cần chứng ngộ, tuệ tri.

 

              Này các Tỷ Kheo ! Pháp gì  

       Là pháp cần phải liễu tri như vầy ?  

          Cần đáp ngay là ‘Năm thủ-uẩn’ :

          Sắc, thọ-uẩn, tưởng, hành, thức ni

              Với thượng trí, cần liễu tri.

 

       Thế nào là pháp hiểm nguy cần trừ ?

          Cần diệt trừ vô minh, hữu ái

          Là những pháp cần phải đoạn trừ.

 

              Này các Tỷ Kheo ! Còn như

       Các pháp cần phải an từ hành theo,

          Cần tu tập để đều viên mãn ?

          Chỉ và Quán (*) cần phải hành trì.

 

              Này các Tỷ Kheo ! Pháp gì

       Cần phải chứng ngộ, liễu tri toàn phần ?

          Minh, Giải-thoát – pháp cần chứng ngộ

          Với thượng trí, mê lộ diệt tan.

 

              Này các Tỷ Kheo ! Lục trần

       Đó là gồm cả sáu phần của thân

          Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý

          Thấy & biết kỹ như-chân lục trần

              Các pháp thấy & biết-như-chân,

       Ý thức, ý xúc nhờ phần kiến, tri

          Do duyên ý-xúc ni, khởi đó

          Lên lạc thọ, khổ thọ như vầy,

              Bất khổ bất lạc thọ này,

       Vị ấy không ái-trước ngay với điều

          Cảm thọ ấy. Bao nhiêu điên đảo

          Tâm-khổ-não được đoạn tận đi

              Vị ấy cảm thọ tức thì

       Thân lạc, tâm lạc diệu kỳ lâng lâng.

          Kiến gì mà như-chân như vậy

          Thì kiến ấy là chánh kiến ni

              Như-chơn tư-duy cái gì

       Đó chính là chánh-tư-duy tức thì,

          Tinh tấn gì như-chơn như vậy

          Tinh tấn ấy là chánh-tinh-cần,

              Niệm của vị ấy như-chân

       Đó là chánh-niệm. Định phần như-chân

          Của vị ấy là phần chánh-định,

          Thân nghiệp, ngữ nghiệp, tính mạng sanh

              Đều được tốt đẹp, tịnh thanh.

 

       Rồi từ Thánh đạo Tám ngành ở đây

          Khiến tu tập, tiến hoài sung mãn

          Bốn niệm xứ và bốn chánh cần

              Bốn như-ý-túc, năm căn,

       Năm lực – tu tập tinh cần trải qua

          Phát triển và sung mãn đều khắp,

          Bảy giác chi tu tập tròn đầy

              Phát triển sung mãn hòa hài

       Và nơi vị ấy có hai pháp này :

          Chỉ và Quán (*). Với đầy thượng trí

          Vị ấy chỉ liễu tri pháp nào

              Cần phải liễu tri duyên vào

       Thượng trí. Đoạn tận pháp nào ở đây

          Đoạn tận ngay với thượng trí ấy.

          Với thượng trí, vị đấy hành trì

              Tu tập về những pháp gì

       Cần phải tu tập mọi thì pháp đây.

          Với thượng trí, vị này chứng ngộ

          Những pháp cần chứng ngộ, tuệ tri.

 

              Này các Tỷ Kheo ! Pháp gì  

       Là pháp cần phải liễu tri như vầy ?  

          Cần đáp ngay là ‘Năm thủ-uẩn’ :

          Sắc, thọ-uẩn, tưởng, hành, thức ni

              Với thượng trí, cần liễu tri.

 

       Thế nào là pháp hiểm nguy cần trừ ?

          Cần diệt trừ vô minh, hữu ái

          Là những pháp cần phải đoạn trừ.

 

              Này các Tỷ Kheo ! Còn như

       Các pháp cần phải an từ hành theo,

          Cần tu tập để đều viên mãn ?

          Chỉ và Quán cần phải hành trì.

 

              Này các Tỷ Kheo ! Pháp gì

       Cần phải chứng ngộ, liễu tri toàn phần ?

          Minh, Giải-thoát – pháp cần chứng ngộ

          Với thượng trí, mê lộ diệt tan ”.

 

              Nghe Phật thuyết giảng rõ ràng

       Chúng Tăng tín thọ lời vàng Thế Tôn ./-

 

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật  ( 3 L )

 

*  *  *

 

(  Chấm dứt Kinh số 149 :  Kinh  SÁU XỨ   – 

MAHÀSALÀYATANIKA  Sutta  )  

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
19/11/2016(Xem: 5923)
Nhưng việc ra mắt sách chỉ là cái cớ, bởi bản thân dòng thông tin ngắn gọn rằng nhà sư Thích Phước An từ đồi Trại Thủy (Nha Trang) vào Sài Gòn đã có một sức quyến rũ đặc biệt đối với bạn bè, người đồng đạo và giới quan tâm.
16/11/2016(Xem: 12017)
Mục đích của giải thưởng là khuyến khích việc sáng tác cá nhân, xuất phát từ nguồn cảm xúc đối với các hiện tượng thiên nhiên và đời sống xã hội, được miêu tả, bằng nhận thức, lý giải và thái độ sống động qua những lời dạy của Đức Phật. Bài tham dự có thể trình bày dưới nhiều hình thức như tác phẩm nghệ thuật, truyện ký, truyện ngắn, tạp bút, thơ… Người viết hoàn toàn tự do chọn đề tài, miễn có liên quan đến tư tưởng Đạo Phật và nội dung có thể chuyển tải được giáo lý thâm sâu, vi diệu mà rất gần gũi, giản dị của đức Phật trong đời sống hàng ngày.
19/10/2016(Xem: 16327)
Tại phiên bế mạc Đại hội Liên minh Bưu chính Thế giới (UPU) lần thứ 26 tại Istanbul - Thổ Nhĩ Kỳ vừa diễn ra, em Nguyễn Thị Thu Trang học sinh lớp 9B trường THCS Nguyễn Trãi, huyện Nam Sách, Hải Dương (năm học 2015-2016) đã đọc bức thư hay nhất thế giới do em viết trước đại diện 190 quốc gia.
07/10/2016(Xem: 11302)
Vào Thu đọc thơ Nguyễn Du: Hai bài thơ mang tên Thăng Long của Nguyễn Du Một phần nghiên cứu dịch văn bản thơ chữ Hán Nguyễn Du qua bài Thăng Long 昇龍 [1] Tản mạn nhận diện Quốc hiệu Việt Nam trong ý thơ của bài thơ Thăng Long Khái niệm lịch sử của Thăng Long Thăng Long, là kinh thành - kinh đô của đất nước Đại Việt, từ vương triều Lý , (gọi là nhà Lý hoặc Lý triều, 1009-1225) cho đến triều đại nhà Lê Trung Hưng (1533-1789), tổng cộng 564 năm[2]. Thăng Long cũng được hiểu và được biết đến trong lịch sử vốn là địa danh tên cũ của Hà Nội hiện nay. Thăng Long nghĩa là “rồng bay lên” theo nghĩa Hán-Việt, hay 昇隆[4] nghĩa là “thịnh vượng”. Từ Thăng Long: “昇隆” là từ đồng âm với tên “昇龍: Thăng Long”, nhưng mang nghĩa khác với “昇龍”.
27/09/2016(Xem: 7482)
Không bíết từ bao giờ những chú chim đã quây quần về đây càng ngày càng đông, nhảy nhót ca vang trên cành cây bên cạnh nhà mỗi ngày khi mặt trời chưa ló dạng. Nằm nướng vào những ngày cuối tuần, hay những hôm trời mưa rỉ rã, lúc trời đất giao mùa nghe chúng riú rít gọi nhau đi tìm mồi mình cũng thấy vui vui.
22/09/2016(Xem: 20249)
Đã có nhiều người nói và viết về nhạc sĩ Hằng Vang . Phần nhiều là những bài viết trong sáng, chân thực. Thiết tưởng không cần bàn cãi, bổ khuyết . Viết về anh, nhạc sĩ Hằng Vang, tôi chỉ muốn phác một tiền đề tổng hợp cốt tủy tinh hoa tư tưởng, sự nghiệp sáng tác của anh ; rằng : Anh là một nhạc sĩ viết rất nhiều ca khúc cho nền âm nhạc Phật Giáo Việt Nam, anh là một thành phần chủ đạo trong dòng chảy âm nhạc nầy ngay từ khi khởi nghiệp sáng tác thời phong trào chấn hưng Phật giáo, xuyên suốt qua nhiều biến động lịch sử trọng đại của PGVN cho đến tận bây giờ, anh vẫn miệt mài, bền bĩ cảm xúc, sáng tạo trong dòng chảy suối nguồn từ bi trí tuệ đạo Phật.
29/08/2016(Xem: 4384)
Cứ thế, một ngày vụt qua, lững thững ra đi không lời ước hẹn, cứ vậy, mịt mùng trao đổi, thân phận dòng đời, chờ chực vây quanh, chạy quanh lối mộng. Chiều xuống, nỗi buồn miên man gởi bay theo gió, trên kia cơn nắng chói chang của mùa hạ còn vương lại đâu đây, lặng nhìn núi đồi hoa lá, từng ấy trong lòng, một cõi mù khơi. Những giọt mồ hôi uể oải, từng nỗi đớn đau lũ lượt đọng lại, từng cơn hiu hắt thấm vào hồn, bây giờ trở thành những đơm bông kết nụ, những đắng cay ngọt bùi. Đâu đó, một chút hương lạ, làn gió bất chợt nhẹ lay, điểm tô không gian lắng đọng phiêu bồng, những thinh âm cao vút tận trời không, những hằng sa bất tuyệt chốn không cùng.
21/08/2016(Xem: 4126)
So sánh cách đọc Hán Việt (HV) với các cách đọc từ vận thư ("chính thống") của Trung Quốc (TQ) cho ta nhiều kết quả thú vị. Có những trường hợp khác biệt đã xẩy ra và có thể do nhiều động lực khác nhau. Chính những khác biệt này là dữ kiện cần thiết để xem lại hệ thống ngữ âm Hán Việt và tiếng Việt để thêm phần chính xác. Bài viết nhỏ này chú trọng đến cách đọc tên nhà sư nổi tiếng của TQ, Huyền1 Trang (khoảng 602–664, viết tắt trong bài này là HT) 玄奘 hay Tam Tạng, có ảnh hưởng không nhỏ cho Phật Giáo TQ, Việt Nam, Nhật và Hàn Quốc. Sư HT đã dịch nhiều bộ kinh và luận Phật giáo từ tiếng Phạn qua tiếng Hán, đưa Phật giáo gần đến nguồn Ấn Độ nguyên thủy hơn so với nhiều kinh dịch sai sót nhưng rất phổ thông vào thời trước (và cho đến ngay cả bây giờ).
13/08/2016(Xem: 3572)
Đức Phật đã dạy: " Mọi chuyện đều khởi đi từ duyên; duyên còn còn hiện hữu, duyên tan mọi sự trở về với trống không." Thật vậy, tôi chưa từng quen biết với các anh em trong " Hội Xây Dựng Tượng Đài Tỵ Nạn Hamburg", vậy mà mới lần đầu gặp gỡ khi các anh kéo nhau về ở München, tôi đã bị lôi cuốn bởi vẻ linh hoạt của anh Huấn, dáng điệu khoan thai, trầm tĩnh đầy chất Huế của anh Phù Vân, sự hăng say nồng nhiệt của anh Dũng, lời lẽ hài hước của anh Thoảng và dáng vẻ hiền từ dễ thương của chú Dũng Scirocco. Như vậy tôi phải có duyên lành với các anh nên mới nhận lời nối tiếp công việc các anh đang làm từ phút giây gặp gỡ ban đầu. Hơn nữa, đây là một nghĩa cử cao đẹp đầy ý nghĩa và cũng là dịp để Cộng đồng Việt Nam tỏ lòng biết ơn con tàu CAP ANAMUR, biết ơn nhân dân Đức đã cưu mang chúng tôi; vì vậy tôi đã hăng hái bắt tay vào việc với
31/05/2016(Xem: 13170)
Chữ NHƯ được thông dụng rất phổ biến trong văn chương và lời nói thường nghiệm của các dân tộc trên thế giới và trong Phật Giáo . Trong văn chương, chữ Như được thấy ở một số trường hợp : Xác định, phủ định, tương tợ, không thực…(như ảo, như hóa) đối với các vật thể hiện thực. Lãnh vực văn chương ở lời nói và viết thành văn, thơ. Ta thường nghe dân Việt nói và viết lời xác định về chữ như : Trắng như tuyết, cứng như đá, mềm như bún, nóng như lửa đốt, lạnh như băng giá, lạnh như đồng, xưa như trái đất, xưa như Diễm, chua như chanh, nắng như lửa đổ, mặn như muối, lạc (nhạt) như nước lã, tối như đêm ba mươi, đen như mực tàu, ốm như ma trơi, bén như gươm, cao như bầu trời, rộng như biển cả, ốm như cây sậy, nhanh như chớp, lẹ như sóc, dữ như cọp, ngu như bò, ngang như cua, v.v…
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]