Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

40. Tiểu Kinh Xóm Ngựa

19/05/202010:19(Xem: 10623)
40. Tiểu Kinh Xóm Ngựa

TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO

TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRUNG BỘ KINH

( Majjhima  Nikàya )


Tập II
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli

Chuyển thể Thơ :

Giới Lạc  MAI LẠC HỒNG  tự TUỆ NGHIÊM

 ( Huynh Trưởng Cấp Tấn  - GĐPTVN tại Hoa Kỳ )

Email : [email protected]



40. Tiểu Kinh XÓM NGỰA
( Cùla Assapura sutta )
 
Như vậy, tôi nghe :
 
          Một thời nọ , Thế Tôn Ứng Cúng
          Sống trong vùng dân chúng Ăng-Ga  (1)
              Tại một ấp của Ương-Già  (1)
       Có tên Xóm Ngựa – Át-Sa-Pu-Rà  (2)
          Lúc bấy giờ Phật-Đà cho gọi
          Các Tỷ Kheo và nói ôn tồn :
 
        – “ Các Tỷ Kheo ! Từ ‘Sa-môn’ (3)
       Dân chúng thường biết Sa-môn chính là
Các ông đây. Nếu mà được hỏi :
         ‘Xin hãy nói các ông là ai ?’
              Các ông phải tự nhận ngay :
    _______________________________
 
( ) & (2) : Xem chú thích ở Đại Kinh Xóm Ngựa  trang 107.
(3) : SA-MÔN – Samana. Phật dạy có 4 hạng Sa-Môn :
   a/  Thắng Đạo Sa-Môn :  chỉ cho những bậc hành đạo thù thắng,
      có khả năng tự giác như Chư Phật, gọi là Đại Sa-Môn.
   b/ Thuyết Đạo Sa-Môn  : chỉ những vị Tỷ Kheo siêng năng tu học  
   giáo pháp Phật-Đà. Sau đó, có khả năng khéo phương tiện giảng
   dạy cho mọi người hướng về con đường chân chính, cuộc sống có
   niềm vui, làm các việc lành, hiếu kính, nhận rõ Khổ – Tập – Diệt
– Đạo, loại trừ Tham  sân  si.
   c/ Mạng Đạo Sa-Môn : chỉ các vị Tỷ Kheo sống theo Chánh Pháp
tu tập Giới-Định-Tuệ. Nhờ công đức tu tập mà thuyết phục mọi 
     người đến với Đạo bằng thân giáo.
   d/ Ô Đạo Sa-Môn ( hay còn gọi  Hoại Đạo Sa-môn  hay  Vi Đạo
     Tác Uế ) :  chỉ những vị  Tỷ Kheo  có hình  tướng  bên  ngoài,
nhưng bên trong thì  tà vọng, dối trá, làm  những  việc  ô uế,
     trộm cắp của người, bôi nhọ Đạo Pháp.
Trung Bộ (Tập 2) Tiểu Kinh 40 :  XÓM  NGỰA  *  MLH  –   064
 
      ‘Sa-môn’! Hãy gọi như vầy chúng tôi’.
 
          Được danh xưng, đồng thời tự nhận    
Là Sa-môn, phải gắng xứng danh,
              Phải tự tu tập, thực hành
       Những pháp môn xứng đáng thành Sa-Môn.
          Chúng ta theo pháp môn tu tập
          Danh xưng ta mới thật chánh chân
              Như thật việc tự nhận rằng
Sa-Môn danh tự. Và phần trước nay
          Thọ cúng dường đủ đầy các thức
Là y phục, vật thực, sàng tòa,
              Dược phẩm trị bệnh cũng là,
Được kết quả lớn, mới là lợi to.
          Sự xuất gia có cho thành quả
Không vô dụng, kết quả lớn lao.
 
              Các Tỷ Kheo ! Như thế nào
       Tỷ Kheo không thực hành vào pháp môn
          Để xứng bậc Sa-Môn như vậy ?
       – Tỷ Kheo ấy tham dục tâm, lòng
              Không được đoạn diệt ngoài trong
       Có tâm sân hận và lòng hận sân,
Không đoạn diệt. Có tâm thù hận,
Lòng thù hận không được diệt đi.
              Có tâm giả dối mọi thì,
       Có tâm não hại ; hoặc vì ghét ganh,     
          Tâm gian manh ; hay tâm xan lẫn,
          Có tâm vẫn xảo trá, nói điêu,
              Ái dục, tà kiến mọi điều
       Đều không đoạn diệt và đều còn nguyên.
 
          Các Tỷ Kheo ! Hiện tiền Ta nói
Trung Bộ (Tập 2) Tiểu Kinh 40 :  XÓM  NGỰA  *  MLH  –   065
 
          Nếu vị ấy không khởi tinh cần
              Không thực hành thật chánh chân
       Các pháp môn xứng đáng phần Sa-Môn,
          Không thể có tâm hồn cương quyết
          Để đoạn diệt cấu uế trong tâm,
              Những tỳ vết, những lỗi lầm,
       Của ‘Sa-Môn’; khiến đọa trầm càng sâu
Vào đọa xứ, đọa vào ác thú.
 
          Các Tỷ Kheo ! Ví dụ tức thì :
              Một loại vũ khí hiểm nguy
       Tên Ma-Ta-Chá (1), lưỡi thì có hai
Rất sắc bén. Lưỡi này có thể
Được gói lại và để trong bao.
              Cũng vậy, như đề cập vào
       Sự xuất gia của vị nào Tỷ Kheo.
 
          Các Tỷ Kheo ! Ta không nói ý
          Sa-môn-hạnh là vị mặc y
              Tăng-Già-Lê – Săng-Ga-Ti (2)
       Chỉ tùy thuộc Săng-Ga-Ti bảo tồn.
 
          Ta không nói Sa-môn-hạnh thế
          Của một người lõa thể như vầy
              Tùy thuộc vào lõa thể này.
       Ta không nói hạnh đủ đầy Sa-Môn
     _________________________
(1) : Mataja .    
(2) : Đại  y hay thượng y Tăng-Già-Lê – Sanghàti .  Một vị Tỷ Kheo
    (Tỳ-Khưu -Bhikkhu ) đã thọ Cụ-Túc-Giới (Đại Giới ) luôn  mang
    theo mình Bình Bát và Tam Y : Y An-Đà-Hội  (Antarvàsa –Y mặc
    như quần ); Y Uất-Đà-La-Tăng  (Uttara sangha –Y vai trái ) ; Y
    Tăng-Già-Lê – Sanghàti  ( Y may từ 2 đến 7 lớp- có thể dùng để
    đắp .Y này chỉ hàng Tỷ Kheo mới có , khi hành Tăng Sự thì bắt
    buộc phải đắp lên vai trái, bên ngoài Y Uất-đà-la-tăng ).
Trung Bộ (Tập 2) Tiểu Kinh 40 :  XÓM  NGỰA  *  MLH  –   066
 
          Của các vị bảo tồn khổ hạnh  (3)
Chỉ tùy thuộc khổ hạnh họ làm.
              Các ông ! Nếu lòng dục tham
       Của người vốn có tâm tham dục nhiều
          Được đoạn diệt, do điều vị ấy
          Chỉ nhờ hạnh mặc lấy đại y
            ( Tăng-già-lê – Săng-ga-ti ).
 
       Hoặc nếu người có sân si đầy lòng,
          Tâm hiềm hận hay lòng phẫn nộ
          Tâm não hại, tật đố (ghét ganh)
              Bỏn xẻn, xảo trá, gian manh
       Tâm đầy ái dục, đua tranh, kiến tà.
          Những người có tối đa chướng mạn
Như kể trên, mà đoạn diệt đi
              Chỉ nhờ hạnh mặc đại y,
       Thì những quyến thuộc, thân tùy nói chung
          Hay bà con có cùng huyết thống
          Những thân hữu thường sống chung quanh
              Khi người đó vứa mới sanh
       Đại y khuyên hãy sẵn dành hài nhi.
          Nói rằng : ‘Này hiền nhi ! Hãy mặc
          Đại y này trong tất cả thời
              Thì lòng tham dục diệt thôi !
       Tâm sân, giả dối, nói lời gian ngoa
          Tâm não hại hoặc là xảo trá,
          Tâm tật đố… tất cả diệt đi !
              Chỉ nhờ mặc được đại y
     ( Tăng-già-lê – Săng-ga-ti ) mọi thì.    
__________________________
 
(1) : Xem các loại khổ hạnh của ngoại đạo ở Đại Kinh Saccaka
       trang  026 .
Trung Bộ (Tập 2) Tiểu Kinh 40 :  XÓM  NGỰA  *  MLH  –   067
 
          Các Tỷ Kheo ! Bởi vì Ta thấy
          Có người mặc y ấy sớm trưa
              Nhưng tâm tham dục chẳng chừa
       Sân hận, phẫn nộ, lọc lừa gian manh
          Tâm tật đố (ghét ganh), xảo trá,
          Tâm tà kiến, man trá mọi phần,
              Nên Ta không nói ra rằng :
      ‘Sa-môn-hạnh của người hằng dục cao
          Tùy thuộc vào đại y thường mặc’.
         (Không phải mặc y là Tỷ Kheo ).
 *   *   *
              Nếu lòng tham dục dính đeo
       Người tâm tham dục ấy đều diệt đi.
          Chỉ nhờ y thực hành khổ hạnh,
          Nếu khổ hạnh các pháp thực thi
              Như tắm rửa theo lễ nghi,
       Lõa thể , bụi đất mọi thì thoa vô,
          Dưới gốc cây sống cô-độc hạnh,
          Hay là hạnh vị sống ngoài trời,
              Ăn uống định kỳ tùy thời
       Sống theo chú thuật, dùng lời khoa trương,
          Hay hạnh của vị thường bện tóc …
          Thì quyến thuộc, gia tộc chung quanh
              Khi người đó vừa mới sanh
       Khổ hạnh các cách khuyên dành hài nhi.
          Nói rằng : ‘Này hiền nhi ! Khổ hạnh
          Các phương pháp, sẽ tránh cho ta
              Lòng tham dục người có ra
Sẽ dược đoạn diệt. Hoặc là trải đi
          Những tâm khác thuộc tùy phiền não
          Nhờ khổ hạnh, an hảo diệt phăng’.
Trung Bộ (Tập 2) Tiểu Kinh 40 :  XÓM  NGỰA  *  MLH  –   068
 
              Các Tỷ Kheo ! Ta thấy rằng
       Những người khổ hạnh hận, sân vẫn nhiều 
          Tâm tham dục, mạn kiêu, phẫn nộ,
          Tâm giả dối, tật đố ( ghét ganh )
              Tà kiến, xảo trá, gian manh,
       Nên Ta không nói thực hành trải qua
         ‘Sa-môn-hạnh của nhà khổ hạnh
          Tùy thuộc hạnh khổ hạnh tối đa’.
 
              Các Tỷ Kheo ! Thế nào là    
       Để cho xứng đáng bậc Sa-Môn lành ?
          Pháp môn nào thực hành đó vậy ?
      –  Tỷ Kheo ấy luôn có dục tham
Đoạn diệt được lòng dục tham.
       Có tâm sân hận, không tàm quý chi
          Hiềm hận thì cùng tâm phẩn nộ,
          Lòng giả dối, tà kiến, gian manh,
              Bỏn xẻn, xảo trá, ghét ganh,
       Tất cả đều đoạn diệt nhanh cả rồi.
 
          Các Tỷ Kheo ! Ta thời tuyên bố
          Vị Tỷ Kheo do cố thực hành
              Với các pháp môn tịnh thanh
       Xứng đáng với bậc thiện lành Sa-Môn,
          Thì có thể chánh chơn diệt kỹ
          Những cấu uế của vị Sa-môn,
              Những tỳ vết của Sa-môn,
Những lầm lỗi của Sa-môn vị này.
          Ngăn đọa sanh sâu dày đọa xứ
          Không sinh vào ác thú, đường tà,
              Vị ấy tự ngã thấy là
       Gột sạch những pháp ác tà bất lương,
Trung Bộ (Tập 2) Tiểu Kinh 40 :  XÓM  NGỰA  *  MLH  –   069
 
          Thấy tinh tường tự ngã giải thoát
          Do tự ngã giải thoát, sạch tinh
              Cho nên hân hoan liền sinh,
       Tâm hân hoan khiến hỷ sinh tới liền,
          Do hỷ, nên thân khinh an đó,
          Thân khinh an, lạc thọ khởi thầm,
              Do lạc thọ, định tĩnh tâm.
     ( Tu tập không thể sai lầm, dở dang ).
 
          Các Tỷ Kheo ! Hoàn toàn cảm thụ  
          Vị Tỷ Kheo an trú muôn phương
              Cùng khắp thế giới vô lường
Biến mãn, câu hữu thường thường Từ, Bi
Cũng như thế, đồng thì với Hỷ
          Rồi với Xả ; thì vị Tỷ Kheo
              An trú biến mãn duyên theo
       Với tâm câu hữu cũng đều Từ, Bi  (1)
          Trú biến mãn khắp vì  Hỷ, Xả  (2)
Không hận, sân, rộng cả, vô biên.
              Các Tỷ Kheo ! Ví dụ liền :
       Một hồ sen nọ chứa tuyền nước trong
          Nước ngọt, mát và trong sáng thật
Có bờ hồ sắp đặt tinh tươm.
              Nếu có người từ Đông phương
       Đi đến, bị nóng bức dường cháy da.
          Nóng áp đảo anh ta, hành hạ
          Khát nước quá, khô cổ, mệt nhoài
              Người ấy đến hồ sen đây
       Giải trừ nóng bức, khát này dứt ngay.
    ___________________________
 
(1) & (2) :  Tứ Vô Lượng Tâm :
Từ ( Mettà ) , Bi ( Karunà ) ,  Hỷ ( Mudità )  và  Xã ( Upekkhà ) . 
Trung Bộ (Tập 2) Tiểu Kinh 40 :  XÓM  NGỰA  *  MLH  –   070
 
          Nếu có người phương Tây đi đến,
          Hay người đến từ hướng Nam này
              Hoặc từ hướng Bắc đến đây,
       Hoặc bất cứ hướng đến ngay nơi này.
          Bị nóng bức gắt gay hành hạ
          Khát nước quá, đắng họng, mệt nhoài,
              Người ấy đến hồ sen đây 
       Hết cả nóng bức, khát này dứt ngay.
 
  *   *   *
          Các Tỷ Kheo ! Điều này cũng giống
          Như có người đang sống bất an
              Tại các gia đình thuộc hàng
Hoặc Sát-Đế-Lỵ (1); hoặc Bàn-môn (1) ra,
          Hoặc giai cấp Thủ-Đà, Phệ-Xá  (1)
          Từ bỏ cà quyến thuộc, gia đình
              Vị ấy quyết định tự mình
       Đi đến Pháp & Luật siêu minh, tịnh lành
          Do Như Lai thực hành, thuyết dạy.
          Khi vị ấy tu tập, hành trì
              Vô lượng Hỷ, Xả, Từ, Bi,
       Nội tâm định tĩnh tức thì xảy ra.
          Ta nói là nhờ tâm định tĩnh
          Vị ấy hành chân chính pháp môn 
    _____________________________
 
(1) : Ấn-Độ thời trước Phật Thích-Ca, đã có Kinh Vệ-Đà( Veda)   
  là Thánh điển căn bản của  Đạo Bà-la-môn,  gồm 4 quyển : Rig- 
 Veda (Lê-câu Vệ-Đà), Sama-Veda , Yajur-Veda (Dạ-Nhu Vệ-Đà) , Atharva-Veda (A-thát-bà Vệ-Đà).         Căn cứ kinh Vệ-Đà,  xã hội chia ra 4 giai cấp bất di bất dịch :Bà-la-môn (Brahmana -giai cấp đứng đầu giữ phần nghi lễ, tế tự),  Sát-Đế-Lỵ (Khattiyà - giai cấp Vua chúa, quan quyền), giai cấp Phệ-Xá (Vessa - Thương gia) . Giai cấp cuối cùng bị áp chế, khinh rẻ nhất  là Thủ-Đà-La (Suddà)  hay còn gọi là Chiên-Đà-La (Candala) .
Trung Bộ (Tập 2) Tiểu Kinh 40 :  XÓM  NGỰA  *  MLH  –   071
 
              Xứng đáng là bậc Sa-Môn
       Với Sa-môn-hạnh bảo tồn, kính tôn. 
 
          Nếu Sát-Lỵ, Bàn-môn, Phệ-Xá,
          Chiên-Đà-La… tất cả vị nào
Từ bỏ gia đình, mong cầu
       Đến Pháp và Luật thanh cao, tịnh lành,
          Do Như Lai thực hành, thuyết dạy,
          Cố hành mãi, lậu hoặc diệt ngay,
              Vị ấy trong hiện tại này
       Tự mình chứng ngộ, rõ bày chân tâm,
          Thành đạt vô lượng tâm giải thoát,
          Tuệ giải thoát thành tựu an lành.
              Danh xưng ‘Sa-Môn’ đạt thành
       Nhờ vào lậu-hoặc ngọn ngành diệt tan ”.
 
*   *   *
          Đức Thế Tôn nghiêm trang thuyết giảng
          Pháp cao quý viên mãn, minh quang
              Các Tỷ Kheo trong đạo tràng
       Hoan hỷ tín thọ lởi vàng Thế Tôn ./-
 
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật  ( 3 L )
 
 
 
 
*
*    *
 
 
 
(  Chấm dứt  Kinh số 40  :  Tiểu Kinh XÓM NGỰA  –
CÙLA ASSAPURA   Sutta  )
 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
19/11/2016(Xem: 5923)
Nhưng việc ra mắt sách chỉ là cái cớ, bởi bản thân dòng thông tin ngắn gọn rằng nhà sư Thích Phước An từ đồi Trại Thủy (Nha Trang) vào Sài Gòn đã có một sức quyến rũ đặc biệt đối với bạn bè, người đồng đạo và giới quan tâm.
16/11/2016(Xem: 12018)
Mục đích của giải thưởng là khuyến khích việc sáng tác cá nhân, xuất phát từ nguồn cảm xúc đối với các hiện tượng thiên nhiên và đời sống xã hội, được miêu tả, bằng nhận thức, lý giải và thái độ sống động qua những lời dạy của Đức Phật. Bài tham dự có thể trình bày dưới nhiều hình thức như tác phẩm nghệ thuật, truyện ký, truyện ngắn, tạp bút, thơ… Người viết hoàn toàn tự do chọn đề tài, miễn có liên quan đến tư tưởng Đạo Phật và nội dung có thể chuyển tải được giáo lý thâm sâu, vi diệu mà rất gần gũi, giản dị của đức Phật trong đời sống hàng ngày.
19/10/2016(Xem: 16328)
Tại phiên bế mạc Đại hội Liên minh Bưu chính Thế giới (UPU) lần thứ 26 tại Istanbul - Thổ Nhĩ Kỳ vừa diễn ra, em Nguyễn Thị Thu Trang học sinh lớp 9B trường THCS Nguyễn Trãi, huyện Nam Sách, Hải Dương (năm học 2015-2016) đã đọc bức thư hay nhất thế giới do em viết trước đại diện 190 quốc gia.
07/10/2016(Xem: 11302)
Vào Thu đọc thơ Nguyễn Du: Hai bài thơ mang tên Thăng Long của Nguyễn Du Một phần nghiên cứu dịch văn bản thơ chữ Hán Nguyễn Du qua bài Thăng Long 昇龍 [1] Tản mạn nhận diện Quốc hiệu Việt Nam trong ý thơ của bài thơ Thăng Long Khái niệm lịch sử của Thăng Long Thăng Long, là kinh thành - kinh đô của đất nước Đại Việt, từ vương triều Lý , (gọi là nhà Lý hoặc Lý triều, 1009-1225) cho đến triều đại nhà Lê Trung Hưng (1533-1789), tổng cộng 564 năm[2]. Thăng Long cũng được hiểu và được biết đến trong lịch sử vốn là địa danh tên cũ của Hà Nội hiện nay. Thăng Long nghĩa là “rồng bay lên” theo nghĩa Hán-Việt, hay 昇隆[4] nghĩa là “thịnh vượng”. Từ Thăng Long: “昇隆” là từ đồng âm với tên “昇龍: Thăng Long”, nhưng mang nghĩa khác với “昇龍”.
27/09/2016(Xem: 7482)
Không bíết từ bao giờ những chú chim đã quây quần về đây càng ngày càng đông, nhảy nhót ca vang trên cành cây bên cạnh nhà mỗi ngày khi mặt trời chưa ló dạng. Nằm nướng vào những ngày cuối tuần, hay những hôm trời mưa rỉ rã, lúc trời đất giao mùa nghe chúng riú rít gọi nhau đi tìm mồi mình cũng thấy vui vui.
22/09/2016(Xem: 20249)
Đã có nhiều người nói và viết về nhạc sĩ Hằng Vang . Phần nhiều là những bài viết trong sáng, chân thực. Thiết tưởng không cần bàn cãi, bổ khuyết . Viết về anh, nhạc sĩ Hằng Vang, tôi chỉ muốn phác một tiền đề tổng hợp cốt tủy tinh hoa tư tưởng, sự nghiệp sáng tác của anh ; rằng : Anh là một nhạc sĩ viết rất nhiều ca khúc cho nền âm nhạc Phật Giáo Việt Nam, anh là một thành phần chủ đạo trong dòng chảy âm nhạc nầy ngay từ khi khởi nghiệp sáng tác thời phong trào chấn hưng Phật giáo, xuyên suốt qua nhiều biến động lịch sử trọng đại của PGVN cho đến tận bây giờ, anh vẫn miệt mài, bền bĩ cảm xúc, sáng tạo trong dòng chảy suối nguồn từ bi trí tuệ đạo Phật.
29/08/2016(Xem: 4384)
Cứ thế, một ngày vụt qua, lững thững ra đi không lời ước hẹn, cứ vậy, mịt mùng trao đổi, thân phận dòng đời, chờ chực vây quanh, chạy quanh lối mộng. Chiều xuống, nỗi buồn miên man gởi bay theo gió, trên kia cơn nắng chói chang của mùa hạ còn vương lại đâu đây, lặng nhìn núi đồi hoa lá, từng ấy trong lòng, một cõi mù khơi. Những giọt mồ hôi uể oải, từng nỗi đớn đau lũ lượt đọng lại, từng cơn hiu hắt thấm vào hồn, bây giờ trở thành những đơm bông kết nụ, những đắng cay ngọt bùi. Đâu đó, một chút hương lạ, làn gió bất chợt nhẹ lay, điểm tô không gian lắng đọng phiêu bồng, những thinh âm cao vút tận trời không, những hằng sa bất tuyệt chốn không cùng.
21/08/2016(Xem: 4126)
So sánh cách đọc Hán Việt (HV) với các cách đọc từ vận thư ("chính thống") của Trung Quốc (TQ) cho ta nhiều kết quả thú vị. Có những trường hợp khác biệt đã xẩy ra và có thể do nhiều động lực khác nhau. Chính những khác biệt này là dữ kiện cần thiết để xem lại hệ thống ngữ âm Hán Việt và tiếng Việt để thêm phần chính xác. Bài viết nhỏ này chú trọng đến cách đọc tên nhà sư nổi tiếng của TQ, Huyền1 Trang (khoảng 602–664, viết tắt trong bài này là HT) 玄奘 hay Tam Tạng, có ảnh hưởng không nhỏ cho Phật Giáo TQ, Việt Nam, Nhật và Hàn Quốc. Sư HT đã dịch nhiều bộ kinh và luận Phật giáo từ tiếng Phạn qua tiếng Hán, đưa Phật giáo gần đến nguồn Ấn Độ nguyên thủy hơn so với nhiều kinh dịch sai sót nhưng rất phổ thông vào thời trước (và cho đến ngay cả bây giờ).
13/08/2016(Xem: 3572)
Đức Phật đã dạy: " Mọi chuyện đều khởi đi từ duyên; duyên còn còn hiện hữu, duyên tan mọi sự trở về với trống không." Thật vậy, tôi chưa từng quen biết với các anh em trong " Hội Xây Dựng Tượng Đài Tỵ Nạn Hamburg", vậy mà mới lần đầu gặp gỡ khi các anh kéo nhau về ở München, tôi đã bị lôi cuốn bởi vẻ linh hoạt của anh Huấn, dáng điệu khoan thai, trầm tĩnh đầy chất Huế của anh Phù Vân, sự hăng say nồng nhiệt của anh Dũng, lời lẽ hài hước của anh Thoảng và dáng vẻ hiền từ dễ thương của chú Dũng Scirocco. Như vậy tôi phải có duyên lành với các anh nên mới nhận lời nối tiếp công việc các anh đang làm từ phút giây gặp gỡ ban đầu. Hơn nữa, đây là một nghĩa cử cao đẹp đầy ý nghĩa và cũng là dịp để Cộng đồng Việt Nam tỏ lòng biết ơn con tàu CAP ANAMUR, biết ơn nhân dân Đức đã cưu mang chúng tôi; vì vậy tôi đã hăng hái bắt tay vào việc với
31/05/2016(Xem: 13170)
Chữ NHƯ được thông dụng rất phổ biến trong văn chương và lời nói thường nghiệm của các dân tộc trên thế giới và trong Phật Giáo . Trong văn chương, chữ Như được thấy ở một số trường hợp : Xác định, phủ định, tương tợ, không thực…(như ảo, như hóa) đối với các vật thể hiện thực. Lãnh vực văn chương ở lời nói và viết thành văn, thơ. Ta thường nghe dân Việt nói và viết lời xác định về chữ như : Trắng như tuyết, cứng như đá, mềm như bún, nóng như lửa đốt, lạnh như băng giá, lạnh như đồng, xưa như trái đất, xưa như Diễm, chua như chanh, nắng như lửa đổ, mặn như muối, lạc (nhạt) như nước lã, tối như đêm ba mươi, đen như mực tàu, ốm như ma trơi, bén như gươm, cao như bầu trời, rộng như biển cả, ốm như cây sậy, nhanh như chớp, lẹ như sóc, dữ như cọp, ngu như bò, ngang như cua, v.v…
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]