Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

19. Kinh Song Tầm

18/05/202019:55(Xem: 9984)
19. Kinh Song Tầm

TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO

TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRUNG BỘ KINH

( Majjhima  Nikàya )


Tập I
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli

Chuyển thể Thơ :

Giới Lạc  MAI LẠC HỒNG  tự TUỆ NGHIÊM

 ( Huynh Trưởng Cấp Tấn  - GĐPTVN tại Hoa Kỳ )

Email : [email protected]



19. Kinh SONG TẦM

( Dvedhavitaka sutta )

 

Như vậy, tôi nghe :

 

          Một thời, Đức Thế Tôn an trụ

          Kỳ Viên Tự  – Chê-Tá-Va-Na 

              Do Cấp-Cô-Độc  tín gia

     ( A-Na-Thá-Pin-Đi-Ka ) cúng dường.

          Tại đây, đấng Pháp Vương lên tiếng :

     – “ Các Tỷ Kheo ! ”. Hiện diện Sa-môn

              Vâng đáp lời của Thế Tôn

       Cung kính nghe Phật ôn tồn giảng ra : 

 

    – “ Chư Tỷ Kheo ! Khi Ta tìm đạo

          Chưa giác ngộ, thấu đáo sâu xa

              Chưa thành Chánh Giác Phật Đà

       Còn là Bồ-Tát ( 1), trải qua hành trì

          Ta nghĩ suy : “ Ta đang từng trải

          Suy tư, chia hai loại suy tầm :

          *  Phàm thế nào có dục-tầm

       Sân-tầm nào hoặc hại-tầm nào đây

          Phân loại này thành phần thứ nhất.

      *  Loại thứ hai này thật thanh cao

              Phàm có ly-dục-tầm nào   

       Vô-sân-tầm, vô-hại-tầm nào trong ?

Chư Tỷ Kheo ! Ta không phóng dật

    _______________________________

(1) : Bồ Tát  : Bodhisattva , Tàu âm là Bồ-Đề-Tát-Đỏa , gọi tắt

        là Bồ-Tát , dịch nghĩa là Giác Hữu Tình , nguyên nghĩa là

       một chúng sinh ( hữu tình ) đang trên đường thực hành Ba-

       La-Mật  đểđạt được quả vị Chánh Giác .

Trung Bộ  (Tập 1)  Kinh 19 : SONG TẦM          *   MLH  – 272

 

          Rất nhiệt tâm, chân thật, kiên trì

              Dục-tầm khởi, Ta tuệ tri :

      ‘Dục tầm này khởi tức thì nơi Ta

          Nó thật làđưa đến tự hại

          Khiến hại người, khiến hại cả hai

              Diệt trí, phiền não sâu dày

      Không đưa đến Niết Bàn đầy lạc an’.

Chư Tỷ Kheo ! Khi đang suy nghĩ :

        ‘Dục-tầm chỉ khiến tự hại thôi’,

             Dục-tầm biến mất tức thời.

       Khi Ta suy nghĩ : ‘Chính nơi dục-tầm

          Sẽâm thầm hại người là thật’,

          Dục-tầm sẽ biến mất đi ngay.

              Nghĩ : ‘Dục-tầm hại cả hai’,

       Dục-tầm cũng biến ngay tức thì.

Chư Tỷ Kheo ! Ta suy nghĩ tiếp :

         ‘Dục-tầm diệt trí tuệ tức thời

              Dự phần vào phiền não rồi

       Và không đưa thẳng vào nơi Niết Bàn’,

          Dục-tầm ấy hoàn toàn biến mất.

 

          Ta thường nhật tiếp tục trừđi

              Dục-tầm đoạn tận, xả ly.

       Trong khi Ta sống mọi thì nhiệt tâm

          Không phóng dật, tinh cần hướng tới

          Thì sân-tầm phát khởi lên mau

              Hại-tầm cũng khởi ào ào

       Ta tuệ tri đến nhằm vào điều trên :    

         ‘Sân & hại-tầm khởi lên như vậy

          Sẽđưa đến tự hại, hại người                

Đưa đến hại cả hai thôi,

Trung Bộ  (Tập 1)  Kinh 19 : SONG TẦM          *   MLH  – 273

 

       Nó diệt trí tuệ, là nơi não phiền

          Không đến liền Niết Bàn tịch tịnh’.

Chư Tỷ Kheo ! Chân chính suy tư

              Sân & hại-tầm này từ từ

Đưa đến tự hại cũng như hại người

          Và đồng thời cả hai bị hại

          Diệt trí tuệ, đầy dẫy não phiền

              Không đến Niết Bàn mãn viên,

       Suy tư như vậy, mất liền cả hai

          Sân-tầm này và hại-tầm đấy

          Ta cứ vậy, tiếp tục trừđi

              Sân & hại-tầm diệt, xả ly. 

       Tỷ Kheo Chúng ! Vị hành trì Tỷ Kheo

          Thường suy tư, duyên theo quán sát

          Vấn đề gì, tâm ắt hướng ngay

              Khuynh hướng về vấn đề này.

       Nếu dục-tầm được vị này suy tư

          Quán sát nhiều, sẽ từ bỏ hẳn

          Ly-dục-tầm, vì nặng dục-tầm.

              Nếu về sân-tầm, hại-tầm

       Suy tư, quán sát, quan tâm điều này

          Sẽ bỏ ngay vô-sân-tầm đó

          Và từ bỏ vô-hại-tầm đây.

              Khi tâm đạt nặng về hai

       Sân & hại-tầm, khuynh hướng ngay một bề

          Sân & hại-tầm  u mê chấp thủ.

Chư Tỷ Kheo ! Ví dụ như vầy :

              Cuối mùa mưa, mùa thu đây

       Khi lúa đã trổ hạt đầy ruộng nương

          Một mục đồng ngày thường chăn dắt

          Một đàn bò, quả thật gay go

Trung Bộ  (Tập 1)  Kinh 19 : SONG TẦM          *   MLH  – 274

 

              Cầm roi đánh các con bò

       Bên phải, bên trái, khiến cho chúng thuần

          Chế ngự chúng và luôn ngăn chận

          Phải theo sự hướng dẫn mục đồng.

              Vì sao vậy ? Vì nếu không

       Các con bò sẽ chạy rông khắp đồng

          Phá lúa chín đang trong mùa gặt

          Người chủ ruộng sẽ bắt phạt, đền,

Đánh đập, tù tội cũng nên,

       Có khi chết, bởi sân lên ngút trời

          Do chủ ruộng nhất thời nóng giận.

          Người mục đồng cẩn thận nhìn xa

              Thấy do nhân duyên trải qua

       Sự việc có thể xảy ra như vầy.

          Nên người này không hề lơ đểnh

          Để mắt đến, quán sát kỹ càng.

              Cũng vậy, Tỷ Kheo các hàng   

       Phải luôn nhận thức, mọi đàng tuệ tri

          Sự nguy hại cực kỳ, hạ liệt

          Sự uế nhiễm, suy kiệt rõ bày

              Của các bất thiện pháp đây.

       Ngược lại, cũng thấy đạt ngay lợi liền

          Sự viễn ly, an nhiên thanh tịnh  

          Của thiện pháp chân chính hành qua.

 

Chư Tỷ Kheo ! Trong khi Ta 

       Sống không phóng dật, luôn là nhiệt tâm

          Rất tinh cần, thực hành như vậy

          Ly-dục-tầm khi ấy khởi ngay.

              Ta đã tuệ tri như vầy :

      ‘Nơi ta, ly-dục-tầm này khởi lên

Trung Bộ  (Tập 1)  Kinh 19 : SONG TẦM          *   MLH  – 275

 

          Nó không đưa đến bên tự hại,

          Không hại người và hại cả hai

              Tăng trưởng trí tuệ, biện tài

       Không sinh phiền não, đưa ngay Niết Bàn’.

          Ta ban đêm miên man suy nghĩ,

          Quán sát kỹ ly-dục-tầm ngay      

              Không phải từ nhân duyên đây

       Ta thấy sợ hãi việc này, nguy thay !

          Nếu ban ngày hay ngày-đêm khác

          Ta suy tư, quán sát gần xa

              Về ly-dục-tầm trải qua

       Không từ nhân duyên ấy, Ta sợ liền.

          Do liên miên suy tư, quán sát      

          Thân phờ phạc, mỏi mệt mơ màng

              Khiến tâm dao động, bất an

       Tâm khóđịnh tĩnh khi hằng động tâm

          Biết như vậy, Ta thầm quyết định

          Trấn an tâm, trấn tịnh tâm liền

              Khiến đạt được nhất-tâm chuyên

       Nên thành định tĩnh, ưu phiền lánh xa  

          Vì sao vậy ? Tâm ta không động.

 

          Khi Ta sống không phóng dật nào

              Nhiệt tâm, tinh cần, không nao

       Vô-sân & vô-hại-tầm vào khởi lên

          Ta tuệ tri móng nền sự việc

          Và Ta biết : Vô-sân-tâm này

              Cùng với vô-hại-tầm đây

  Không khiến tự hại, không gây hại người

          Và đồng thời , cả hai không hại

          Tăng trí tuệ, đánh bại não phiền

Trung Bộ  (Tập 1)  Kinh 19 : SONG TẦM          *   MLH  – 276

 

Đưa đến Niết Bàn mãn viên

       Không thể sai khác, đi liền nhân duyên

          Nếu sự việc biến thiên sai bậy

          Không từ nhân duyên ấy mà ra

              Khi Ta quán sát, nghĩ xa

       Ban ngày, đêm tối hay là ngày-đêm

Chư Tỷ Kheo ! Êm đềm tự tỉnh

          Tự trấn-an, trấn-tịnh-tâm Ta

              Khiến được nhất tâm, an hòa

       Khiến thành định tĩnh, tâm ta thuần từ.

          Nếu Tỷ Kheo suy tư, quán sát

          Ly-dục-tầm, sẽđạt điều chi ?

              Từ bỏ dục-tầm tức thì.

       Vịấy khuynh hướng về ly-dục-tầm

          Nếu quán sát vô-sân-tầm đó

          Tỷ Kheo có quán sát, suy thầm

              Có khuynh hướng vô-sân-tầm

       Sau khi từ bỏ sân-tầm khư khư

          Hoặc Tỷ Kheo suy tư, quán rõ

          Vô-hại-tầm, từ bỏ hại-tầm

              Khuynh hướng về vô-hại-tầm

       Vì đặt nặng vô-hại-tầm thanh cao.

 

Chư Tỷ Kheo ! Như vào cuối hạ

          Khi tất cả lúa đã gặt xong

Đã đập, phơi lúa, lường đong

       Cất vào kho thóc, hài lòng chủ nông.

          Người mục đồng chăn bòở ruộng

Ngồi gốc cây hay chuộng ngoài trời

              Lòng không còn lo, thảnh thơi

       Chỉ nghĩ công việc ở nơi chăn bò

Trung Bộ  (Tập 1)  Kinh 19 : SONG TẦM          *   MLH  – 277

 

         ‘Đây là những con bò’ ta giữ.

Chư Tỷ Kheo ! Tương tự Ta đây

              Có việc cần phải làm ngay

      ‘Đây là những pháp’, như vầy ý Ta

          Ta phát tâm thật là dũng mãnh

          Tiêu cực tránh, tinh tấn, sẵn sàng

              Niệm không tán loạn, trú an

       Không có cuồng nhiệt, tâm toàn khinh an

          Được nhất tâm, tâm đang định tĩnh

Chư Tỷ Kheo ! Thanh tịnh trong Ta

          –  Ly dục , ác pháp ly xa

       Ly bất thiện pháp, thật là an nhiên

          Chứng và trú vào Thiền đệ nhất

          Tâm hỷ lạc do ly dục sanh

              Có tầm, có tứđành rành.

   –  Diệt tầm, diệt tứ, chứng nhanh, trú vào

          Thiền thứ hai, đạt mau trạng thái

          Do định sanh, hỷ lạc vô ngần

Ởđây không tứ, không tầm

Đạt được nội tĩnh nhất tâm tức thì.

 

    –  Hỷ trú xảđã ly ; mặt khác  

        Có chánh niệm, tỉnh giác, an nhiên

            Thân cảm sự lạc thọ liền

      ‘Xả niệm lạc trú’, Thánh hiền gọi tên,

          Chứng và trú Tam Thiền tại chỗ.   

      –  Xả lạc và xả khổ, diệt ngay

              Hỷưu cảm thọ trước đây,

       Tứ Thiền chứng, trú, không rày khổ, vui

          Vàêm xuôi xả niệm thanh tịnh.

 

          Tâm định tĩnh như vậy trải qua

Trung Bộ  (Tập 1)  Kinh 19 : SONG TẦM          *   MLH  – 278

 

              Ta đạt được Minh thứ ba

       Mà Ta đã chứng canh ba đêm tàn .

          Vô minh được hoàn toàn dứt khỏi

          Minh sanh khởi, bóng tối mất tăm

Ánh sáng sanh khởi cao thâm

       Khi không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần.         

 

Chư Tỷ Kheo ! Lại nhân ví dụ

          Trong khu rừng, cổ thụ rậm cao

              Có một hồ nước lớn, sâu

       Bầy nai đông đảo từ lâu sống gần

          Một kẻ tánh bất nhân, gặp chúng

          Không muốn chúng lợi ích, vui an

              Không muốn cho cả bầy đàn

       Thảnh thơi, hạnh phúc, nhưđang sống này.

          Kẻác này chận đường, rào cản

          Lùa đàn nai khiến hoảng chạy càn

              Chúng phải chạy vào con đàng

       Đầy sự nguy hiểm, bất an sẵn dành

          Người chẳng lành đặt con mồi đực

          Và mồi cái thường trực tại đây

              Để dụđàn nai cả bầy

       Vào đường định sẵn dẫy đầy hiểm nguy

          Với ác tâm, thực thi bất hảo

          Cả bầy nai đông đảo ngày nào

Đã gặp ách nạn biết bao

       Hao mòn, giảm sút, còn đâu đông vầy !

          Trường hợp khác, có ngay một vị

          Đến nơi này, hoan hỷ phát sanh

              Thấy đàn nai đông, hiền lành

       Muốn chúng lợi ích, được dành vui an

Trung Bộ  (Tập 1)  Kinh 19 : SONG TẦM          *   MLH  – 279

 

          Muốn cảđàn sum vầy hạnh phúc

          Khỏi ách nạn thằng thúc, khổđau

              Người ấy phát dọn đường nào

       Có sự nguy hiểm nhắm vào đàn nai

          Rồi thả ngay con mồi đực, cái

          Mở rộng đường, phải trái phát quang

              Con đường yên ổn, an toàn

       Như vậy, sau một thời gian mởđàng

Đàn nai đó lại càng tăng trưởng

          Càng hưng thịnh, an hưởng sum vầy.

 

Chư Tỷ Kheo ! Ví dụđây

       Để giải thích ý nghĩa này như sau :

          Hồ nước lớn thâm sâu, để chỉ

          Cho các dục, đồi trụy bất minh

Đàn nai là các hữu tình.

       Người ác muốn hại sinh linh, chẳng lành

          Không muốn chúng an lành, hạnh phúc

          Không tiếp tục lợi ích, yêu thương

              Chỉ cho Ác Ma – Ma Vương.

       Con đường nguy hiểm sẵn dương bẫy mồi

          Là chỉ nơi con đường tàđạo

          Rất bất hảo, có đến tám chi

              Tà tri kiến, tà tư duy

       Tà ngữ, tà nghiệp đồng thì kể ra

          Rồi tà mạng cùng tà tinh tấn

          Tà niệm dẫn tà định cùng làm.

              Con mồi đực chỉ hỷ, tham

       Mồi cái để chỉ buộc giàm vô minh.

 

Chư Tỷ Kheo ! Người minh-trí tới   

          Muốn đàn nai được lợi ích thường

Trung Bộ  (Tập 1)  Kinh 19 : SONG TẦM          *   MLH  – 280

 

              Muốn chúng hạnh phúc, yêu thương

       Khỏi các ách nạn, bẫy dươngtrên đường

          Để chỉ đấng Pháp Vương, Toàn Giác

          A-La-Hán an lạc, Phật Đà.

              Con đường yên ổn, hiền hòa

Đưa đến hoan hỷ, trải qua an lành

          Chỉ con đường tám ngành Thánh Đạo

          Đường an hảo, thấm đượm Từ bi :

              Chánh tri kiến, chánh tư duy

      Chánh ngữ, chánh nghiệp đồng thì kể ra

         Chánh mạng và chánh chân tinh tấn

         Chánh niệm dẫn chánh định thanh cao.

Chư Tỷ Kheo ! Ta lúc nào

       Cũng mở đường chánh thâm sâu sáng lòa

Đóng con đường ác tà nguy khó

          Ta từ bỏ cả hỷ và tham

              Diệt trừ Vô minh tối tăm

       VịĐạo Sư phải hành thâm như vầy,

          Vì thương tưởng, chỉ bày đệ tử

          Con đường giữđúng hướng thẳng ngay

Đây các chỗ trống, gốc cây

       Tinh cần Thiền-định đêm ngày đừng nao

          Chớ phóng dật, về sau đừng tiếc

          Lởi giáo huấn cao khiết của Ta ”.                            

 

              Nghe thuyết giảng của Phật Đà

       Chư Tăng hoan hỷ, tin và vâng theo ./-

 

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật  ( 3 L )

------

 (  Chấm dứt  Kinh số 19  :  SONG TẦM  –

DVEDHAVITAKKA Sutta  )

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
16/11/2016(Xem: 11660)
Mục đích của giải thưởng là khuyến khích việc sáng tác cá nhân, xuất phát từ nguồn cảm xúc đối với các hiện tượng thiên nhiên và đời sống xã hội, được miêu tả, bằng nhận thức, lý giải và thái độ sống động qua những lời dạy của Đức Phật. Bài tham dự có thể trình bày dưới nhiều hình thức như tác phẩm nghệ thuật, truyện ký, truyện ngắn, tạp bút, thơ… Người viết hoàn toàn tự do chọn đề tài, miễn có liên quan đến tư tưởng Đạo Phật và nội dung có thể chuyển tải được giáo lý thâm sâu, vi diệu mà rất gần gũi, giản dị của đức Phật trong đời sống hàng ngày.
19/10/2016(Xem: 15966)
Tại phiên bế mạc Đại hội Liên minh Bưu chính Thế giới (UPU) lần thứ 26 tại Istanbul - Thổ Nhĩ Kỳ vừa diễn ra, em Nguyễn Thị Thu Trang học sinh lớp 9B trường THCS Nguyễn Trãi, huyện Nam Sách, Hải Dương (năm học 2015-2016) đã đọc bức thư hay nhất thế giới do em viết trước đại diện 190 quốc gia.
07/10/2016(Xem: 10917)
Vào Thu đọc thơ Nguyễn Du: Hai bài thơ mang tên Thăng Long của Nguyễn Du Một phần nghiên cứu dịch văn bản thơ chữ Hán Nguyễn Du qua bài Thăng Long 昇龍 [1] Tản mạn nhận diện Quốc hiệu Việt Nam trong ý thơ của bài thơ Thăng Long Khái niệm lịch sử của Thăng Long Thăng Long, là kinh thành - kinh đô của đất nước Đại Việt, từ vương triều Lý , (gọi là nhà Lý hoặc Lý triều, 1009-1225) cho đến triều đại nhà Lê Trung Hưng (1533-1789), tổng cộng 564 năm[2]. Thăng Long cũng được hiểu và được biết đến trong lịch sử vốn là địa danh tên cũ của Hà Nội hiện nay. Thăng Long nghĩa là “rồng bay lên” theo nghĩa Hán-Việt, hay 昇隆[4] nghĩa là “thịnh vượng”. Từ Thăng Long: “昇隆” là từ đồng âm với tên “昇龍: Thăng Long”, nhưng mang nghĩa khác với “昇龍”.
27/09/2016(Xem: 7379)
Không bíết từ bao giờ những chú chim đã quây quần về đây càng ngày càng đông, nhảy nhót ca vang trên cành cây bên cạnh nhà mỗi ngày khi mặt trời chưa ló dạng. Nằm nướng vào những ngày cuối tuần, hay những hôm trời mưa rỉ rã, lúc trời đất giao mùa nghe chúng riú rít gọi nhau đi tìm mồi mình cũng thấy vui vui.
22/09/2016(Xem: 19596)
Đã có nhiều người nói và viết về nhạc sĩ Hằng Vang . Phần nhiều là những bài viết trong sáng, chân thực. Thiết tưởng không cần bàn cãi, bổ khuyết . Viết về anh, nhạc sĩ Hằng Vang, tôi chỉ muốn phác một tiền đề tổng hợp cốt tủy tinh hoa tư tưởng, sự nghiệp sáng tác của anh ; rằng : Anh là một nhạc sĩ viết rất nhiều ca khúc cho nền âm nhạc Phật Giáo Việt Nam, anh là một thành phần chủ đạo trong dòng chảy âm nhạc nầy ngay từ khi khởi nghiệp sáng tác thời phong trào chấn hưng Phật giáo, xuyên suốt qua nhiều biến động lịch sử trọng đại của PGVN cho đến tận bây giờ, anh vẫn miệt mài, bền bĩ cảm xúc, sáng tạo trong dòng chảy suối nguồn từ bi trí tuệ đạo Phật.
29/08/2016(Xem: 4316)
Cứ thế, một ngày vụt qua, lững thững ra đi không lời ước hẹn, cứ vậy, mịt mùng trao đổi, thân phận dòng đời, chờ chực vây quanh, chạy quanh lối mộng. Chiều xuống, nỗi buồn miên man gởi bay theo gió, trên kia cơn nắng chói chang của mùa hạ còn vương lại đâu đây, lặng nhìn núi đồi hoa lá, từng ấy trong lòng, một cõi mù khơi. Những giọt mồ hôi uể oải, từng nỗi đớn đau lũ lượt đọng lại, từng cơn hiu hắt thấm vào hồn, bây giờ trở thành những đơm bông kết nụ, những đắng cay ngọt bùi. Đâu đó, một chút hương lạ, làn gió bất chợt nhẹ lay, điểm tô không gian lắng đọng phiêu bồng, những thinh âm cao vút tận trời không, những hằng sa bất tuyệt chốn không cùng.
21/08/2016(Xem: 4057)
So sánh cách đọc Hán Việt (HV) với các cách đọc từ vận thư ("chính thống") của Trung Quốc (TQ) cho ta nhiều kết quả thú vị. Có những trường hợp khác biệt đã xẩy ra và có thể do nhiều động lực khác nhau. Chính những khác biệt này là dữ kiện cần thiết để xem lại hệ thống ngữ âm Hán Việt và tiếng Việt để thêm phần chính xác. Bài viết nhỏ này chú trọng đến cách đọc tên nhà sư nổi tiếng của TQ, Huyền1 Trang (khoảng 602–664, viết tắt trong bài này là HT) 玄奘 hay Tam Tạng, có ảnh hưởng không nhỏ cho Phật Giáo TQ, Việt Nam, Nhật và Hàn Quốc. Sư HT đã dịch nhiều bộ kinh và luận Phật giáo từ tiếng Phạn qua tiếng Hán, đưa Phật giáo gần đến nguồn Ấn Độ nguyên thủy hơn so với nhiều kinh dịch sai sót nhưng rất phổ thông vào thời trước (và cho đến ngay cả bây giờ).
13/08/2016(Xem: 3507)
Đức Phật đã dạy: " Mọi chuyện đều khởi đi từ duyên; duyên còn còn hiện hữu, duyên tan mọi sự trở về với trống không." Thật vậy, tôi chưa từng quen biết với các anh em trong " Hội Xây Dựng Tượng Đài Tỵ Nạn Hamburg", vậy mà mới lần đầu gặp gỡ khi các anh kéo nhau về ở München, tôi đã bị lôi cuốn bởi vẻ linh hoạt của anh Huấn, dáng điệu khoan thai, trầm tĩnh đầy chất Huế của anh Phù Vân, sự hăng say nồng nhiệt của anh Dũng, lời lẽ hài hước của anh Thoảng và dáng vẻ hiền từ dễ thương của chú Dũng Scirocco. Như vậy tôi phải có duyên lành với các anh nên mới nhận lời nối tiếp công việc các anh đang làm từ phút giây gặp gỡ ban đầu. Hơn nữa, đây là một nghĩa cử cao đẹp đầy ý nghĩa và cũng là dịp để Cộng đồng Việt Nam tỏ lòng biết ơn con tàu CAP ANAMUR, biết ơn nhân dân Đức đã cưu mang chúng tôi; vì vậy tôi đã hăng hái bắt tay vào việc với
31/05/2016(Xem: 12973)
Chữ NHƯ được thông dụng rất phổ biến trong văn chương và lời nói thường nghiệm của các dân tộc trên thế giới và trong Phật Giáo . Trong văn chương, chữ Như được thấy ở một số trường hợp : Xác định, phủ định, tương tợ, không thực…(như ảo, như hóa) đối với các vật thể hiện thực. Lãnh vực văn chương ở lời nói và viết thành văn, thơ. Ta thường nghe dân Việt nói và viết lời xác định về chữ như : Trắng như tuyết, cứng như đá, mềm như bún, nóng như lửa đốt, lạnh như băng giá, lạnh như đồng, xưa như trái đất, xưa như Diễm, chua như chanh, nắng như lửa đổ, mặn như muối, lạc (nhạt) như nước lã, tối như đêm ba mươi, đen như mực tàu, ốm như ma trơi, bén như gươm, cao như bầu trời, rộng như biển cả, ốm như cây sậy, nhanh như chớp, lẹ như sóc, dữ như cọp, ngu như bò, ngang như cua, v.v…
24/05/2016(Xem: 2996)
Xin chào. Xin chào Việt Nam! Thank you. Thank you so much. Xin cám ơn Chính phủ và nhân dân Việt Nam đã dành cho tôi sự chào đón nồng ấm và cho tôi hưởng lòng hiếu khách của người Việt trong chuyến thăm này. Và cũng xin cảm ơn các bạn Việt Nam có mặt ở đây ngày hôm nay, những người đến từ khắp nơi trên đất nước tuyệt vời này, trong đó có rất nhiều người trẻ đại diện cho sự năng động, tài năng và niềm hy vọng của Việt Nam.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]