Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

144. Kinh Giáo Giới Chana

19/05/202011:37(Xem: 9885)
144. Kinh Giáo Giới Chana

TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO

TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRUNG BỘ KINH

( Majhima  Nikàya )


Tập IV
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli

Chuyển thể Thơ :

Giới Lạc  MAI LẠC HỒNG  tự TUỆ NGHIÊM

 ( Huynh Trưởng Cấp Tấn  - GĐPTVN tại Hoa Kỳ )

Email : [email protected]


144. Kinh GIÁO GIỚI CHANNA

( Channovàda sutta )

 

Như vậy, tôi nghe :

 

          Một thời, Đức Thế Tôn Giác Giả

          Trú Vương-Xá – Ra-Chá-Ga-Ha  (1)

              Tinh Xá Vê-Lu-Va-Na  (1)

      (Trúc Lâm Tinh Xá cũng là nơi đây)

          Gần nơi này nuôi nhiều sóc lạ

         (Ka-Lanh-Đá-Ka-Ní-Vá-Pa).  (2)  

 

              Tôn-giả Sa-Ri-Pút-Ta  (3)  

       Lúc ấy cùng với Săng-Ga, như là

          Đại Chu-Na (Ma Ha Chun-Đá)  (3)

          Hay Tôn-giả Chanh-Ná (Xiển-Đà)  (3)

              Cùng trú Ghít-Chá-Ku-Ta  (4)

      (Linh Sơn & Linh Thứu cũng là nơi đây).

 

          Tại nơi này, Tôn-giả Chanh-Ná  

          Bị bệnh nặng và quá đớn đau.

 

              Nghe tin vị Pháp-hữu đau

       Ngài Xá-Lợi-Phất ngay sau tọa thiền 

          Vào buổi chiều, ngài liền đứng dậy                          

    ___________________________

 

(1) : Thành Vương Xá – Rajagaha – thuộc vương quốc Magadha

      của vua Bình Sa Vương hay Tần-Bà-Sa-La (Bimbisara). Tại

      đây Vua đã dâng cúng Đức Phật ngự viên Trúc Lâm để thành

      lập Trúc Lâm Tinh Xá (Veluvanavihàra).

(2) : Chỗ nuôi dưỡng sóc  Kalandakanivapa.

(3) : Các Tôn-giả Sariputta – Xá-Lợi-Phất;    MahàCunda – Đại

      Chu-Na;  Channa  – Xiển-Đà.

(4) : Núi Linh Thứu hay Kỳ-Xà-Quật – Gijjhakuta.  

 

          Rồi đi lại nơi vị tên là

              Tôn-giả Ma-Ha-Chun-Đa

       Rủ vị Tôn-giả đi qua cùng mình

          Thăm bệnh tình Chanh-Na Tôn-giả,

          Vị ấy đã đồng ý đi qua.

 

              Sau khi gặp vị Chanh-Na

       Nói lên lời chúc an hòa mến thân

          Rồi ân cần một bên ngồi kế.

          Vị trí tuệ Sa-Rí-Pút-Ta

              Nói với Tôn-giả Chanh-Na :

 

 – “ Pháp-hữu Hiền-giả Chanh-Na ! Mong là  

          Hiền-giả hãy vượt qua bệnh nặng,

          Hãy kham nhẫn, chịu đựng cơn nguy.

              Mong rằng khổ thọ giảm đi,

       Không gia tăng nữa, chuyển di cấp kỳ ”.

 

    – “ Thưa Tôn-giả Sa-Ri-Pút-Tá !    

          Cơn trọng bệnh hành hạ âm thầm 

              Không thể chịu đựng, nhẫn kham

       Sự thống khổ ấy biết làm chi đây ?

          Gia tăng hoài, không hề giảm thiểu

          Không thể chịu đựng nỗi cơn đau,

              Tôi muốn đem một con dao

       Tôi không thiết sống, muốn mau chết liền ”.

 

    – “ Này Hiền-giả ! Chớ nên nghĩ thế

          Hãy tiếp tục sống để tu hành 

              Nếu thiếu mọi món ăn lành

       Tôi sẽ tìm kiếm và dành cho Sư.

          Còn nếu như không có dược liệu

          Tốt lành, tôi sẽ liệu tìm ra

              Dành cho Tôn-giả Chanh-Na.   

       Nếu không có thị-giả mà đỡ nương,

          Tôi sẽ thường hầu hạ Tôn-giả.

          Vậy Tôn-giả chớ có nghĩ là

              Đem lại dao bén sáng lòa

       Để tìm chết. Hãy vượt qua hãi hùng

          Hãy tiếp tục sống cùng Pháp-lữ.

          Đức Điều Ngự và cả Tăng Già

              Mong Sư tiếp tục sống, và

       Hãy tiếp tục sống, trải qua tu trì ”.

 

    – “ Thưa Tôn-giả Sa-Ri-Pút-Tá ! 

          Không phải là tôi đã thiếu chi

              Các món ăn tốt lành gì.

       Không phải thiếu dược phẩm chi mọi thời

          Cũng không phải thiếu người thị-giả. 

 

          Thưa Tôn-giả ! Một thời dài lâu  

              Tôi đã diễm phúc được hầu

       Bậc Đạo Sư có ân sâu vô lường,

          Tôi đã thường khiến Ngài đẹp ý,

          Không phải không vừa ý hầu Ngài.

              Thưa Tôn-giả ! Thật lành thay !

       Thật là thích đáng cho ai duyện lành

          Được hầu hạ Cha Lành Thiện Thệ,

          Hầu hạ để được phước thanh cao.

              Tôi có đem lại con dao

       Cũng không là phạm tội vào điều chi.

 

          Thưa Tôn-giả Sa-Ri-Pút-Tá !     

          Xin hãy biết, đại xá cho tôi ”.

 

        – “ Hiền-giả Chanh-Na ! Vậy thời  

       Chúng tôi muốn hỏi ở nơi Sư, về

          Một vấn đề đặc biệt, như thế 

          Thì Hiền-giả có thể thuận không ? ”.

 

        – “ Tôn-giả ! Xin hãy hỏi thông 

       Khi nghe, tôi biết ý trong là gì ”. 

 

    – “ Nếu vậy thì Hiền-giả nghe rõ

          Hiền-giả có xem con mắt, và 

              Nhãn thức, các pháp do qua

       Con mắt nhận thức ngay ra : ‘Cái này

          Là của tôi’ – ‘Nó là tôi’ cả

         ‘Cái này là tự ngã của tôi’.

 

              Hiền giả Chanh-Na ! Đồng thời   

       Có xem tai, mũi, lưỡi rồi ý, thân;

          Xem nhĩ & tỷ & thiệt & thân & ý thức 

         ‘Là của tôi’ ; ‘đích thực là tôi’

             ‘Chính là tự ngã của tôi ?”.

 

 – “ Thưa với Tôn-giả ! Ở nơi điều này  

          Tôi xem con mắt đây, nhãn thức,

          Pháp do mắt nhận thức, thực ra :

             ‘Cái này không phải của ta’,

      ‘Cái này không phải là ta’, cùng là

         ‘Nó không là của ta tự ngã’.

 

          Thưa Tôn-giả Sa-Rí-Pút-Ta !

              Tôi cũng quán sát sâu xa

       Xem tai, nhĩ thức – Mũi và lưỡi, nhân

          Tỷ thức, thiệt thức – thân, thân thức

          Ý, ý thức – Các pháp đều là :

             ‘Cái này không phải của ta’,

      ‘Cái này không phải là ta’, cùng là

         ‘Nó không phải của ta tự ngã ”.

 

     – “ Này Hiền-giả Chanh-Ná ! Thấy gì        

              Cái gì Sư đã chứng tri

       Trong mắt, trong nhãn thức khi lúc này

          Trong các pháp mắt đây nhận thức

          Mà xem mắt, nhãn thức, cùng là

              Các pháp mắt nhận thức ra :

      ‘Cái này không phải của ta’, hay là

         ‘Nó không phải là ta’, hoặc giả

         ‘Nó không phải tự ngã của ta’.

 

              Và này Hiền-giả Chanh-Na !  

       Tương tự như thế, trải qua tức thì   

          Thấy cái gì ? Chứng tri gì thực ?

          Trong tai, trong nhĩ thức, hay là

              Trong mũi, trong tỷ thức, và

       Trong lưỡi, trong thiệt thức và trong thân,

          Trong thân thức – Trong ý, ý thức.

          Trong các pháp sáu thức nhận ra

              Mà Hiền-giả nhận thức là :

      ‘Cái này không phải của ta’, hay là

         ‘Nó không phải là ta’, hoặc giả

         ‘Nó không phải tự ngã của ta ? ”.

 

        – “ Thưa ngài Sa-Rí-Pút-Ta !  

       Vì sự diệt (Ni-Rô-Thà), chính tôi     (Nigrotha)

          Đã thấy rồi chứng tri diệt ấy

          Trong mắt thấy, trong nhãn thức, và

              Trong pháp mắt nhận thức ra,

       Nên tôi đã nhận thức ra điều là :

         ‘Nó không phải của ta’, phủ định

         ‘Cái này chính không phải là ta’,

            ‘Không phải tự ngã của ta’.

       Rồi tôi thấy ‘sự diệt’ và chứng tri.      

          Sự diệt ni trong tai, nhĩ thức;

          Trong mũi, trong tỷ thức – cùng là

              Trong lưỡi, trong thiệt thức, và

       Trong thân, trong thân thức qua thuận dòng

          Trong ý, trong ý thức – và tận

          Các pháp sáu căn nhận thức mà

              Tôi xem sáu căn & thức và 

       Các pháp do sáu căn mà nhận ra :

         ‘Nó không là của ta’, cũng vậy

         ‘Nó không phải là ta’, cùng là

             ‘Không phải tự ngã của ta ”.

 

       Tôn-giả Ma-Ha Chun-Đà nghe qua

          Liền nói với Chanh-Na Tôn-giả :

 

        – “ Do vậy, này Hiền-giả Chanh-Na !

              Lời dạy này của Phật Đà

       Phải được thường trực gẫm qua hằng ngày :

         “Có chấp trước, có ngay dao động,

          Không chấp trước, dao động diệt tan,

              Không dao động, có khinh an,

       Hy cầu mất khi khinh an tức thì

          Khi hy cầu (Na-Ti) không có

          Thời không có khứ lai loanh quanh,

              Không khứ lai, dứt tử sanh

       Đời này không có khi sanh tử này

          Đã dứt ngay. Đời sau không có,

          Cũng không có giữa hai đời nào

              Đó là đoạn tận khổ đau ”.

 

       Hai vị Tôn-giả này sau giáo thời

          Liền đứng dậy và rời nơi đấy.

          Tôn-giả Chanh-Na ấy không lâu

              Liền bỏ thân tứ đại mau

      (Trong nghĩa đem lại con dao cho mình).

 

              Vị Tôn-giả hiền minh đại trí 

              Là Sa-Rí-Pút-Tá – đi qua

                  Hương thất của đức Phật Đà

       Đảnh lễ Đức Phật, ngồi qua bên Ngài,

          Rồi Tôn-giả đem ngay sự việc

          Của Chanh-Na, chi tiết thưa ra :

 

        – “ Bạch Phật ! Tôn-giả Chanh-Na

       Bị bệnh nặng, không vượt qua bệnh tình

          Đã viên tịch. Nơi sinh xứ mới

          Của Tôn-giả ấy tới là gì ?

              Đời sống tương lai là gì ? ”.

 

 – “ Xá-Lợi-Phất ! Có phải khi Chanh-Nà

          Trước mặt ông nói ra tuyên bố

          Là không có sự phạm tội chi ? ”.

 

        – “ Bạch Phật ! Theo con nhớ thì

       Có ngôi làng tộc Vách-Chi (1)  mọi thì

          Thuộc dòng họ hộ trì Tôn-giả

          Tên ngôi làng : Búp-Bá-Chi-Ra  (1)

              Tại đó có những tín gia,

       Gia đình, thân hữu hoặc là đồng hương

          Hộ trì thường Tôn-giả Chanh-Ná

          Là nơi mà Tôn giả cần thăm ”.

 

        – “ Này Xá-Lợi-Phất ! Trọng tâm

       Sự kiện Chanh-Ná cần thăm viếng, vì 

          Những gia đình hộ trì, thân hữu

    ________________________

 

(1) : Làng Pubbajira của dòng họ thuộc dân Nước Cộng Hòa Vajji

      (Bạt-Kỳ). 

 

          Ta không nói Phích-Khú Chanh-Na

              Có sự phạm tội xảy ra.    

       Và này Sa-Rí-Pút-Tà ! Những ai

          Đã đối với thân này quăng rũ

          Và chấp thủ thân khác, như vầy

              Ta nói y có phạm tội ngay.

       Tỷ Kheo Chanh-Ná không rày chấp chi,

          Không chấp thủ, nên vì như vậy

          Sự đem lại con dao cho mình

              Không có phạm tội phát sinh ”.

 

       Thế Tôn giảng giải, thuyết minh mọi phần 

          Vị ‘Tướng quân Chánh Pháp’ Tôn-giả

          Là Sa-Ri-Pút-Tá, hân hoan

              Tâm thành tín thọ lời vàng

       Của đấng Điều Ngự, Từ hàng Thế Tôn ./- 

 

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật  ( 3 L )

 

*

*  *

 

(  Chấm dứt Kinh số 144 :  GIÁO GIỚI CHANNA  –  CHANNOVÀDA  Sutta  )  

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
16/11/2016(Xem: 11661)
Mục đích của giải thưởng là khuyến khích việc sáng tác cá nhân, xuất phát từ nguồn cảm xúc đối với các hiện tượng thiên nhiên và đời sống xã hội, được miêu tả, bằng nhận thức, lý giải và thái độ sống động qua những lời dạy của Đức Phật. Bài tham dự có thể trình bày dưới nhiều hình thức như tác phẩm nghệ thuật, truyện ký, truyện ngắn, tạp bút, thơ… Người viết hoàn toàn tự do chọn đề tài, miễn có liên quan đến tư tưởng Đạo Phật và nội dung có thể chuyển tải được giáo lý thâm sâu, vi diệu mà rất gần gũi, giản dị của đức Phật trong đời sống hàng ngày.
19/10/2016(Xem: 15967)
Tại phiên bế mạc Đại hội Liên minh Bưu chính Thế giới (UPU) lần thứ 26 tại Istanbul - Thổ Nhĩ Kỳ vừa diễn ra, em Nguyễn Thị Thu Trang học sinh lớp 9B trường THCS Nguyễn Trãi, huyện Nam Sách, Hải Dương (năm học 2015-2016) đã đọc bức thư hay nhất thế giới do em viết trước đại diện 190 quốc gia.
07/10/2016(Xem: 10917)
Vào Thu đọc thơ Nguyễn Du: Hai bài thơ mang tên Thăng Long của Nguyễn Du Một phần nghiên cứu dịch văn bản thơ chữ Hán Nguyễn Du qua bài Thăng Long 昇龍 [1] Tản mạn nhận diện Quốc hiệu Việt Nam trong ý thơ của bài thơ Thăng Long Khái niệm lịch sử của Thăng Long Thăng Long, là kinh thành - kinh đô của đất nước Đại Việt, từ vương triều Lý , (gọi là nhà Lý hoặc Lý triều, 1009-1225) cho đến triều đại nhà Lê Trung Hưng (1533-1789), tổng cộng 564 năm[2]. Thăng Long cũng được hiểu và được biết đến trong lịch sử vốn là địa danh tên cũ của Hà Nội hiện nay. Thăng Long nghĩa là “rồng bay lên” theo nghĩa Hán-Việt, hay 昇隆[4] nghĩa là “thịnh vượng”. Từ Thăng Long: “昇隆” là từ đồng âm với tên “昇龍: Thăng Long”, nhưng mang nghĩa khác với “昇龍”.
27/09/2016(Xem: 7379)
Không bíết từ bao giờ những chú chim đã quây quần về đây càng ngày càng đông, nhảy nhót ca vang trên cành cây bên cạnh nhà mỗi ngày khi mặt trời chưa ló dạng. Nằm nướng vào những ngày cuối tuần, hay những hôm trời mưa rỉ rã, lúc trời đất giao mùa nghe chúng riú rít gọi nhau đi tìm mồi mình cũng thấy vui vui.
22/09/2016(Xem: 19596)
Đã có nhiều người nói và viết về nhạc sĩ Hằng Vang . Phần nhiều là những bài viết trong sáng, chân thực. Thiết tưởng không cần bàn cãi, bổ khuyết . Viết về anh, nhạc sĩ Hằng Vang, tôi chỉ muốn phác một tiền đề tổng hợp cốt tủy tinh hoa tư tưởng, sự nghiệp sáng tác của anh ; rằng : Anh là một nhạc sĩ viết rất nhiều ca khúc cho nền âm nhạc Phật Giáo Việt Nam, anh là một thành phần chủ đạo trong dòng chảy âm nhạc nầy ngay từ khi khởi nghiệp sáng tác thời phong trào chấn hưng Phật giáo, xuyên suốt qua nhiều biến động lịch sử trọng đại của PGVN cho đến tận bây giờ, anh vẫn miệt mài, bền bĩ cảm xúc, sáng tạo trong dòng chảy suối nguồn từ bi trí tuệ đạo Phật.
29/08/2016(Xem: 4316)
Cứ thế, một ngày vụt qua, lững thững ra đi không lời ước hẹn, cứ vậy, mịt mùng trao đổi, thân phận dòng đời, chờ chực vây quanh, chạy quanh lối mộng. Chiều xuống, nỗi buồn miên man gởi bay theo gió, trên kia cơn nắng chói chang của mùa hạ còn vương lại đâu đây, lặng nhìn núi đồi hoa lá, từng ấy trong lòng, một cõi mù khơi. Những giọt mồ hôi uể oải, từng nỗi đớn đau lũ lượt đọng lại, từng cơn hiu hắt thấm vào hồn, bây giờ trở thành những đơm bông kết nụ, những đắng cay ngọt bùi. Đâu đó, một chút hương lạ, làn gió bất chợt nhẹ lay, điểm tô không gian lắng đọng phiêu bồng, những thinh âm cao vút tận trời không, những hằng sa bất tuyệt chốn không cùng.
21/08/2016(Xem: 4057)
So sánh cách đọc Hán Việt (HV) với các cách đọc từ vận thư ("chính thống") của Trung Quốc (TQ) cho ta nhiều kết quả thú vị. Có những trường hợp khác biệt đã xẩy ra và có thể do nhiều động lực khác nhau. Chính những khác biệt này là dữ kiện cần thiết để xem lại hệ thống ngữ âm Hán Việt và tiếng Việt để thêm phần chính xác. Bài viết nhỏ này chú trọng đến cách đọc tên nhà sư nổi tiếng của TQ, Huyền1 Trang (khoảng 602–664, viết tắt trong bài này là HT) 玄奘 hay Tam Tạng, có ảnh hưởng không nhỏ cho Phật Giáo TQ, Việt Nam, Nhật và Hàn Quốc. Sư HT đã dịch nhiều bộ kinh và luận Phật giáo từ tiếng Phạn qua tiếng Hán, đưa Phật giáo gần đến nguồn Ấn Độ nguyên thủy hơn so với nhiều kinh dịch sai sót nhưng rất phổ thông vào thời trước (và cho đến ngay cả bây giờ).
13/08/2016(Xem: 3507)
Đức Phật đã dạy: " Mọi chuyện đều khởi đi từ duyên; duyên còn còn hiện hữu, duyên tan mọi sự trở về với trống không." Thật vậy, tôi chưa từng quen biết với các anh em trong " Hội Xây Dựng Tượng Đài Tỵ Nạn Hamburg", vậy mà mới lần đầu gặp gỡ khi các anh kéo nhau về ở München, tôi đã bị lôi cuốn bởi vẻ linh hoạt của anh Huấn, dáng điệu khoan thai, trầm tĩnh đầy chất Huế của anh Phù Vân, sự hăng say nồng nhiệt của anh Dũng, lời lẽ hài hước của anh Thoảng và dáng vẻ hiền từ dễ thương của chú Dũng Scirocco. Như vậy tôi phải có duyên lành với các anh nên mới nhận lời nối tiếp công việc các anh đang làm từ phút giây gặp gỡ ban đầu. Hơn nữa, đây là một nghĩa cử cao đẹp đầy ý nghĩa và cũng là dịp để Cộng đồng Việt Nam tỏ lòng biết ơn con tàu CAP ANAMUR, biết ơn nhân dân Đức đã cưu mang chúng tôi; vì vậy tôi đã hăng hái bắt tay vào việc với
31/05/2016(Xem: 12973)
Chữ NHƯ được thông dụng rất phổ biến trong văn chương và lời nói thường nghiệm của các dân tộc trên thế giới và trong Phật Giáo . Trong văn chương, chữ Như được thấy ở một số trường hợp : Xác định, phủ định, tương tợ, không thực…(như ảo, như hóa) đối với các vật thể hiện thực. Lãnh vực văn chương ở lời nói và viết thành văn, thơ. Ta thường nghe dân Việt nói và viết lời xác định về chữ như : Trắng như tuyết, cứng như đá, mềm như bún, nóng như lửa đốt, lạnh như băng giá, lạnh như đồng, xưa như trái đất, xưa như Diễm, chua như chanh, nắng như lửa đổ, mặn như muối, lạc (nhạt) như nước lã, tối như đêm ba mươi, đen như mực tàu, ốm như ma trơi, bén như gươm, cao như bầu trời, rộng như biển cả, ốm như cây sậy, nhanh như chớp, lẹ như sóc, dữ như cọp, ngu như bò, ngang như cua, v.v…
24/05/2016(Xem: 2996)
Xin chào. Xin chào Việt Nam! Thank you. Thank you so much. Xin cám ơn Chính phủ và nhân dân Việt Nam đã dành cho tôi sự chào đón nồng ấm và cho tôi hưởng lòng hiếu khách của người Việt trong chuyến thăm này. Và cũng xin cảm ơn các bạn Việt Nam có mặt ở đây ngày hôm nay, những người đến từ khắp nơi trên đất nước tuyệt vời này, trong đó có rất nhiều người trẻ đại diện cho sự năng động, tài năng và niềm hy vọng của Việt Nam.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]