Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

41. Kinh Sàleỳaka

19/05/202010:20(Xem: 9191)
41. Kinh Sàleỳaka

TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO

TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRUNG BỘ KINH

( Majjhima  Nikàya )


Tập II
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli

Chuyển thể Thơ :

Giới Lạc  MAI LẠC HỒNG  tự TUỆ NGHIÊM

 ( Huynh Trưởng Cấp Tấn  - GĐPTVN tại Hoa Kỳ )

Email : [email protected]



41. Kinh SÀLEYYAKA
( Sàleyyaka sutta )
 
Như vậy, tôi nghe :
 
Một thời, đức Thế Tôn Giác Giả
          Kô-Sa-Lá nước ấy du hành
              Cùng với Đại Chúng tịnh thanh
Sa-La làng nọ an lành trú đây.
 
          Các Gia Chủ làng này, Phạm-chí  (1)
Nghe đến vị Giác Giả, nói là :
             “ Vị Sa-Môn Gô-Ta-Ma
       Chính là Thích Tử (2) xuất gia, lìa nhà
          Từ gia tộc Sắc-Gia thuở trước
          Đang du hành trong nước chúng ta
            ( Kô-Sa-La – Kiều-Tất-La )
       Tỷ Kheo Đại Chúng tịnh hòa đáng tôn.
          Những tiếng đồn lan xa từ đó :
          Sát-Đế-Lỵ  giòng họ Thích Ca
Xuất thân vương tộc, xuất gia
       Thành đạt đạo quả cao xa nhiệm mầu.
 
          Mười tôn hiệu cao sâu diệu ngữ :
Thế Gian Giải, Điều Ngự Trượng Phu,
Phật, Thế Tôn, Thiên Nhân Sư,
Chánh Đẳng Chánh Giác đại từ uy linh
Vô Thượng Sĩ  hay Minh Hạnh Túc,
Bậc Thiện Thệ, Ứng Cúng, Như Lai,
             Do sự chứng ngộ tự Ngài
    _______________________________
 
    (1) :  Bàn-môn hay Phạm Chí   tức là Bà-La-Môn . 
    (2) : Người con giòng Thích-Ca .
Trung Bộ (Tập 2)   Kinh 41 :  SÀLEYYAKA      *  MLH  – 074
 
So với Thiên giới, Ma loài, Phạm Thiên
Với các chúng chư Thiên, Nhân loại
          Bà-la-môn với lại Sa-môn
Hiển thị mọi loài, tuyên ngôn
       Rồi lại tuyên thuyết Pháp môn nhiệm mầu
Thuyết Sơ Thiện, rồi sau Trung Thiện
Thuyết Hậu Thiện, văn nghĩa đủ đầy
             Trình bày Phạm hạnh từ đây
       Pháp thân thanh tịnh, bậc Thầy Nhân Thiên.
          Thật đáng quý nếu tìm yết kiến
Đại La-Hán thị hiện cõi đời.
 
             Rồi thì Gia chủ các nơi
       Bàn-môn các vị đồng thời hợp nhau
          Họ lũ lượt đi mau hướng tới
          Nơi địa giới đang tịnh thanh này
             Mong được yết kiến tại đây
       Thích Ca Tôn Giả trí tài tuyệt luân.
 
          Các Bàn-môn khi cùng đi đến
          Nói những lời thân mến xã giao    
             Thân thiện chúc tụng, đón chào
       Rồi các vị ấy ngồi vào một bên
          Bà-la-môn, tuổi tên Gia chủ
          Có người thì khể thủ Sa-Môn
             Có người chúc tụng nói dồn
       Có người chỉ vái Sa-Môn rồi ngồi
          Cũng có kẻ nói trôi tên họ
Cũng có kẻ chỉ ngó, lặng yên.
              Sau khi ngồi xuống một bên
       Các vị Phạm-chí liền lên tiếng là :
 
    – “ Tôn-giả Gô-Ta-Ma ! Xin hỏi
Trung Bộ (Tập 2)   Kinh 41 :  SÀLEYYAKA     *  MLH  –   075
 
          Nhân, duyên gì có loại hữu tình
Sau khi thân hoại, phải sinh
       Đọa xứ, địa ngục hãi kinh nơi này
          Hay sinh ngay cõi dữ, ác thú ?
 
          Hoặc ví dụ có loại hữu tình
Sau khi thân hoại, được sinh
       Thiện thú, Thiên giới hoặc sinh đời này ? ”.
 
    – “ Các Gia Chủ ! Như vầy phải biết
          Do oan nghiệt phi pháp thực hành
              Hay phi chánh đạo thực hành
       Loài hữu tình đó phải đành đọa sinh
          Vào cõi dữ hoặc sinh đọa xứ
Hay ác thú, địa ngục đọa sanh.
 
              Do nhân hành đúng pháp lành
       Hành đúng chánh đạo tịnh thanh vô cùng,
           Hữu tình này mạng chung, sinh tới
           Cõi Thiên giới, thiện thú, đời này ”.
 
         – “ Tôn-giả giảng giải như vầy
       Thật quá vắn tắt, xin Ngài giảng thêm
          Để chúng con hiểu thêm rộng rãi
          Lành thay ! Nếu giảng lại nguồn cơn
              Để hiểu đầy đủ, chánh chơn
       Pháp vắn tắt, nay rõ hơn vấn đề ”.
 
    – “ Các Gia chủ ! Hãy nghe, tác ý
          Ta sẽ giảng tỉ mỉ điều này ”.   
 
        – “ Thưa Tôn-giả ! Xin vâng Ngài ”.
 
       Bàn-môn Gia chủ tại đây thuận lời.
 
          Bậc Thầy cả Trời, Người liền nói :
Trung Bộ (Tập 2)   Kinh 41 :  SÀLEYYAKA     *  MLH  –   076
 
    – “ Các Gia chủ ! Ba loại thân hành
              Và có bốn loại khẩu hành
       Cộng với ba loại ý hành thực thi
Đều phi pháp và phi chánh đạo.
 
        * Ba thân hành Ta bảo tội nhiều :
 
           –  Có người sát sanh đủ điều
       Bàn tay đẫm máu, sớm chiều đả thương
          Tâm tàn nhẫn không thương, không xót
          Thường giết chóc chẳng sót nhỏ to.
 
           –  Hoặc người lấy của không cho
       Tất cả tài sản, đều do người làm
          Khởi lòng tham, cướp hay trộm cắp
          Tại thôn làng hay khắp phố phường.
 
           –  Hoặc người tà hạnh bất lương
       Tìm cách giao cấu do thường dục tâm
          Các nữ nhân mẹ cha che chở,
          Có quyến thuộc che chở, nom trông,
              Hoặc là nữ đã có chồng,
Luật pháp bảo vệ, hoặc không thuận tình.
 
          Ba thân hành bất minh, tội báo 
Phi chánh đạo, phi pháp là đây.
 
          *  Bốn loại khẩu hành chẳng ngay :
 
   –  Có người vọng ngữ, thường hay dối lời,
          Chỗ tập hội hay nơi chúng hội,
          Giữa thân tộc hay tới cửa quan
              Người ấy hay làm chứng gian
       Khi được hỏi đến, nói càn nói điêu
          Có biết mà nói liều không biết,
          Điều không biết nói biết mọi đàng,
Trung Bộ (Tập 2)   Kinh 41 :  SÀLEYYAKA     *  MLH  –  077
 
              Không thấy nói thấy rõ ràng,
       Thấy nói không thấy, tâm gian dối đầy.
          Lời người này trở thành cố ý
          Nói dối do tự kỷ & tha nhân,
Hay vì quyền lợi họ cần.
 
   –  Hoặc nói hai lưỡi muôn phần hiểm nguy
          Để chia rẽ, phân ly người khác
          Sao cho đạt mục đích chẳng ngay.
              Đến kia nói xấu người này,
       Đến đây nói xấu phơi bày kẻ kia,
          Để kết cuộc phân chia tán loạn,
          Thích ly gián những kẻ hợp hòa,
              Thích thú phá hoại người ta
       Đưa đến tan nát cửa nhà, tình thân.
 
      –  Rồi đến phần nói lời độc ác
          Khiến người ta tan nát, khổ đau 
              Khiến người tức giận, buồn rầu,
       Liên hệ đến phẫn nộ sâu vô vàn,
          Không đưa đến tịnh an Thiền-định,
          Người ấy tính thô ác nói ra.
 
        – “ Những lời phù phiếm, ba hoa
       Nói lời vô ích, nói ra phi thời     
          Lời phi chơn và lời phi pháp
          Lời phi luật, phức tạp thế tình,
              Không có thuận lý, bất minh,
       Lại không mạch lạc, đáng gìn giữ chi !
 
          Các Gia-chủ ! Trải đi nghiệp tạo  
      *  Ý-hành phi chánh đạo thế nào ?
              Ý-hành phi pháp là sao ?
   –  Người có tham ái, tham cầu, tham lam
Trung Bộ (Tập 2)   Kinh 41 :  SÀLEYYAKA     *  MLH  –  078
 
Tài vật kẻ khác làm, nghĩ quấy :
         ‘Mong hết thảy tài vật mọi người
              Trở thành của mình ta thôi !’
       Tâm tham đủ thứ mọi thời, mọi nơi.
 
      –  Lại có người đầy lòng sân hận
          Khởi hại-tâm, nghĩ quẩn thế này :
             ‘Mong rằng những hữu tình đây
       Bị giết, bị tàn sát đầy điêu linh,
          Bị tiêu diệt, hung tinh tàn hại,
          Mong chúng không tồn tại trên đời’.
 
          –  Lại người tà kiến chẳng dời
Có tưởng điên đảo, nói lời si mê :
         ‘Không có gì thuộc về bố thí,
          Không kết quả bố thí là thường,
              Không có tế lễ, cúng dường,
       Hành vi thiện ác cũng dường như không,
          Mà cũng không kết quả dị thục
          Không đời này, không lúc đời sau,
              Cũng không có mẹ cha nào,
       Hóa sanh các loại cũng nào có đâu ?
          Trong đời này có đâu Phạm-chí ? 
          Không Sa-môn các vị danh tri
              Trải qua tinh tấn hành trì
       Chân chánh thành tựu, sau khi tự mình
Tự tri, chứng, quang minh tuyên bố
          Ở đời này, ở chỗ đời sau’.
 
              Các Gia-chủ ! Hãy hiểu sâu    
       Về thân, khẩu, ý-hành vào hiểm nguy
          Hành phi pháp, hành phi chánh đạo
Các hữu tình quả báo theo sau,
Trung Bộ (Tập 2)   Kinh 41 :  SÀLEYYAKA     *  MLH  –   079
 
              Còn thân, khẩu, ý-hành nào
       Thực hành đúng pháp, đúng vào chánh chân,
          Ngược lại phần thực hành phi pháp,
          Phi chánh đạo giải đáp trên đây,
              Do nhân hành đúng pháp này
Hành đúng chánh đạo. Lành thay vô cùng !
 
          Khi thân hoại mạng chung, sinh tới
          Cõi Thiên giới, thiện thú, đời này.
              Nếu hành đúng pháp đủ đầy
       Vị ấy mong ước : ‘Mong ngay tức thì
          Ngay sau khi mạng chung, ta được
          Sinh vào nơi vương tước, phú gia’.
              Sự kiện có thể xảy ra
       Sau khi chết, đại phú gia sinh vào,
          Hay sinh vào giòng Sát-Đế-Lỵ.
          Vì sao vậy ? Vì vị này hành
              Đúng pháp, hành đúng đường lành.
 
       Hoặc nếu có vị thực hành chánh chân 
          Hành đúng pháp, đúng phần chánh đạo,
Mong ước với thiện báo, sinh qua
              Bà-La-Môn đại phú gia
Hoặc sinh Thiên giới, như là các nơi :
 
          Tứ Thiên Vương hoặc Trời Đao Lợi, (1)
          Hay sinh tới cõi Trời Dạ-Ma,  (1)
              Tới Thiên giới Đâu-Suất-Đà,  (1)
Cõi Trời Hóa Lạc, hay là sinh qua
          Tới Thiên tòa Tha-Hóa-Tự-Tại,  (1)
          Trời Phạm Chúng hay tại Quang-Thiên,  (1)
     ___________________________
 
    (1) : Xem chú thích trang  082  .
Trung Bộ (Tập 2)   Kinh 41 :  SÀLEYYAKA     *  MLH  –   080
 
              Hoặc cõi Trời Thiểu-Quang Thiên,  (1)
       Thiên giới Vô-Lượng-Quang Thiên (1) sinh liền,
          Quang-Âm Thiên, Tịnh-Thiên, Thiểu-Tịnh, (1)
Vô-Lượng-Tịnh, Biến-Tịnh (1) tới nơi,
Quảng-Quả, Vô-Phiền(1) cõi Trời,
Vô-Nhiệt, Thiện-Hiện(1) cũng thời Chư Thiên,
          Thiện-Kiến-Thiên, Trời Sắc-Cứu-Kính, (1)
Không-Vô-Biên-Xứ(1) chính sinh Thiên,
              Hoặc Thức-Vô-Biên-Xứ Thiên,  (1)
       Hoặc Vô-Sở-Hữu-Xứ Thiên (1) sinh liền
          Hoặc Phi-Tưởng-Phi-Phi-Tưởng-Xứ, (1)
Làm thân-hữu Thiên Tử gần xa.
 
              Sự kiện này sẽ xảy ra :
       Sau khi thân hoại, sinh qua tức thì
          Các cõi Trời, làm vì thân-hữu
Với Chư Thiên tề tựu đông vầy.
              Vì sao vậy ? Vì vị này
       Đã hành đúng pháp, đường ngay thực hành.
 
          Các Gia-chủ ! Lòng thành mong ước
          Của một vị hành được chánh chân :
             ‘Mong rằng với sự tinh cần
       Đoạn trừ lậu-hoặc nhiễm trần triền miên,
          Với thắng trí, ta liền chứng ngộ,
          Chứng đạt và có chỗ trú an,
              Đạt tâm giải thoát rỡ ràng,
       Vô lậu tuệ giải thoát, toàn hảo thay !’.
 
          Sự việc này xảy ra như nguyện 
          Vì sao vậy ? Vì chuyện thực hành
     ___________________________
 
    (1) : Xem chú thích trang  082  .
Trung Bộ (Tập 2)   Kinh 41 :  SÀLEYYAKA     *  MLH  –   081
 
              Đúng chánh đạo, đúng pháp lành
       Cho nên vị ấy đạt thành ước mong ”.
 
          Khi nghe Phật giảng xong pháp đó,
          Các Gia Chủ giòng họ Bàn-môn
              Ở Sa-La  –  bạch Thế Tôn :
 
    “ Thật là vi diệu Pháp tôn quý này !
          Hy hữu thay ! Kiều-Đàm Tôn Giả !
          Với lý nghĩa thật quả tròn đầy !
              Thưa Tôn Giả ! Vi diệu thay !
       Như người dựng vật lăn quay ngã nằm
         Chỉ hướng kẻ sai lầm lạc lối
          Đem đèn sáng vào tối như bưng
              Để ai có mắt mở bừng
       Có thể thấy được sáng trưng sắc màu
Cũng như thế, nhiệm mầu Chánh Pháp
          Được Tôn Giả giải đáp, trình bày
Chúng con quy ngưỡng từ nay
       Quy y Đức Phật, nương ngay Pháp mầu
Quy y Tăng, thanh cao đức cả
          Nối tiếp nhau hoằng hóa Pháp môn
Mong Ngài nhận cho chúng con
Được làm đệ tử, vun tròn thiện duyên
          Xin phát nguyện vẹn tuyền ngưỡng phục
          Kể từ nay đến lúc mạng chung ”.
 
              Gia Chủ Phạm-Chí đi cùng
       Liền đảnh lễ Đấng Đại Hùng, rồi lui ./-
 
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật  (3L )
 
(  Chấm dứt  Kinh số 41  : SÀLEYYAKA  –
SÀLEYYAKA  Sutta  )
Trung Bộ (Tập 2)   Kinh 41 :  SÀLEYYAKA     *  MLH  –   082
 
Chú thích :      (1) : Các cõi Trởi trong Tam Giới :
 
A * Dục Giới :   1)  Tứ Thiên Vương ( Cattumahàràjikà devà  ),
 2) Đao Lợi ( Tàvatimsa deva ), 3) Dạ Ma Thiên ( Yàmà devà ),
 4) Đâu Suất  ( Tusità devà ),  (5) Hóa Lạc ( Nimmànaratì devà ),
 6) Tha Hóa Tự Tại ( Paranimmita-vasavattì devà ).
 
B * Sắc Giới :                 [a] Sơ Thiền :
 7) Phạm Chúng (Brahma-Parisajjà devà ), 8) Phạm Phụ (Brahma-
   Purohità devà ),   9) Đại Phạm Thiên ( Mahà Brahmà devà ) .
 
[b] Nhị Thiền :
10) Thiểu Quang Thiên ( Parittabhà ), 11) Vô Lượng Quang Thiên
 ( Appamànabhà devà ),   12) Quang Âm Thiên ( Àbhassarà devà ),
 
[c] Tam Thiền :
13) Thiểu Tịnh Thiên ( Parittasubhà ),   14) Vô Lượng Tịnh Thiên
( Appamànasubhà devà ), 15) Biến Tịnh Thiên (Subhakinnà devà ).
 
[d] Tứ Thiền :
16) Quảng Quả Thiên ( Vehapphalà ), 17) Vô Tưởng (Vô Phiền – 
 Assannàsatta devà ), 18) Vô Đọa ( Vô Nhiệt Thiên – Avihà devà ),
19) Thanh Tịnh Thiên ( Atappà devà ),  20) Thiện Hiện (Sudassà ),
21) Thiện Kiến ( Sudassì devà ),     22) Vô Song ( Sắc Cứu Kính –
                                                                              Akanitthà devà ).
C * Vô Sắc Giới :
 
23) Không Vô Biên Xứ ( Àhàsànanca-yatanùpà ),
24) Thức Vô Biên Xứ ( Vinnànanca-yatanùpagà devà ),
25) Vô Sở Hữu Xứ ( Àkincanna-yatanùpagà devà ), 
 26) Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ ( Nevassannà-nasannà-
                                                                         yatanùpagà devà ).
 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
19/11/2016(Xem: 5923)
Nhưng việc ra mắt sách chỉ là cái cớ, bởi bản thân dòng thông tin ngắn gọn rằng nhà sư Thích Phước An từ đồi Trại Thủy (Nha Trang) vào Sài Gòn đã có một sức quyến rũ đặc biệt đối với bạn bè, người đồng đạo và giới quan tâm.
16/11/2016(Xem: 12019)
Mục đích của giải thưởng là khuyến khích việc sáng tác cá nhân, xuất phát từ nguồn cảm xúc đối với các hiện tượng thiên nhiên và đời sống xã hội, được miêu tả, bằng nhận thức, lý giải và thái độ sống động qua những lời dạy của Đức Phật. Bài tham dự có thể trình bày dưới nhiều hình thức như tác phẩm nghệ thuật, truyện ký, truyện ngắn, tạp bút, thơ… Người viết hoàn toàn tự do chọn đề tài, miễn có liên quan đến tư tưởng Đạo Phật và nội dung có thể chuyển tải được giáo lý thâm sâu, vi diệu mà rất gần gũi, giản dị của đức Phật trong đời sống hàng ngày.
19/10/2016(Xem: 16329)
Tại phiên bế mạc Đại hội Liên minh Bưu chính Thế giới (UPU) lần thứ 26 tại Istanbul - Thổ Nhĩ Kỳ vừa diễn ra, em Nguyễn Thị Thu Trang học sinh lớp 9B trường THCS Nguyễn Trãi, huyện Nam Sách, Hải Dương (năm học 2015-2016) đã đọc bức thư hay nhất thế giới do em viết trước đại diện 190 quốc gia.
07/10/2016(Xem: 11304)
Vào Thu đọc thơ Nguyễn Du: Hai bài thơ mang tên Thăng Long của Nguyễn Du Một phần nghiên cứu dịch văn bản thơ chữ Hán Nguyễn Du qua bài Thăng Long 昇龍 [1] Tản mạn nhận diện Quốc hiệu Việt Nam trong ý thơ của bài thơ Thăng Long Khái niệm lịch sử của Thăng Long Thăng Long, là kinh thành - kinh đô của đất nước Đại Việt, từ vương triều Lý , (gọi là nhà Lý hoặc Lý triều, 1009-1225) cho đến triều đại nhà Lê Trung Hưng (1533-1789), tổng cộng 564 năm[2]. Thăng Long cũng được hiểu và được biết đến trong lịch sử vốn là địa danh tên cũ của Hà Nội hiện nay. Thăng Long nghĩa là “rồng bay lên” theo nghĩa Hán-Việt, hay 昇隆[4] nghĩa là “thịnh vượng”. Từ Thăng Long: “昇隆” là từ đồng âm với tên “昇龍: Thăng Long”, nhưng mang nghĩa khác với “昇龍”.
27/09/2016(Xem: 7482)
Không bíết từ bao giờ những chú chim đã quây quần về đây càng ngày càng đông, nhảy nhót ca vang trên cành cây bên cạnh nhà mỗi ngày khi mặt trời chưa ló dạng. Nằm nướng vào những ngày cuối tuần, hay những hôm trời mưa rỉ rã, lúc trời đất giao mùa nghe chúng riú rít gọi nhau đi tìm mồi mình cũng thấy vui vui.
22/09/2016(Xem: 20249)
Đã có nhiều người nói và viết về nhạc sĩ Hằng Vang . Phần nhiều là những bài viết trong sáng, chân thực. Thiết tưởng không cần bàn cãi, bổ khuyết . Viết về anh, nhạc sĩ Hằng Vang, tôi chỉ muốn phác một tiền đề tổng hợp cốt tủy tinh hoa tư tưởng, sự nghiệp sáng tác của anh ; rằng : Anh là một nhạc sĩ viết rất nhiều ca khúc cho nền âm nhạc Phật Giáo Việt Nam, anh là một thành phần chủ đạo trong dòng chảy âm nhạc nầy ngay từ khi khởi nghiệp sáng tác thời phong trào chấn hưng Phật giáo, xuyên suốt qua nhiều biến động lịch sử trọng đại của PGVN cho đến tận bây giờ, anh vẫn miệt mài, bền bĩ cảm xúc, sáng tạo trong dòng chảy suối nguồn từ bi trí tuệ đạo Phật.
29/08/2016(Xem: 4384)
Cứ thế, một ngày vụt qua, lững thững ra đi không lời ước hẹn, cứ vậy, mịt mùng trao đổi, thân phận dòng đời, chờ chực vây quanh, chạy quanh lối mộng. Chiều xuống, nỗi buồn miên man gởi bay theo gió, trên kia cơn nắng chói chang của mùa hạ còn vương lại đâu đây, lặng nhìn núi đồi hoa lá, từng ấy trong lòng, một cõi mù khơi. Những giọt mồ hôi uể oải, từng nỗi đớn đau lũ lượt đọng lại, từng cơn hiu hắt thấm vào hồn, bây giờ trở thành những đơm bông kết nụ, những đắng cay ngọt bùi. Đâu đó, một chút hương lạ, làn gió bất chợt nhẹ lay, điểm tô không gian lắng đọng phiêu bồng, những thinh âm cao vút tận trời không, những hằng sa bất tuyệt chốn không cùng.
21/08/2016(Xem: 4127)
So sánh cách đọc Hán Việt (HV) với các cách đọc từ vận thư ("chính thống") của Trung Quốc (TQ) cho ta nhiều kết quả thú vị. Có những trường hợp khác biệt đã xẩy ra và có thể do nhiều động lực khác nhau. Chính những khác biệt này là dữ kiện cần thiết để xem lại hệ thống ngữ âm Hán Việt và tiếng Việt để thêm phần chính xác. Bài viết nhỏ này chú trọng đến cách đọc tên nhà sư nổi tiếng của TQ, Huyền1 Trang (khoảng 602–664, viết tắt trong bài này là HT) 玄奘 hay Tam Tạng, có ảnh hưởng không nhỏ cho Phật Giáo TQ, Việt Nam, Nhật và Hàn Quốc. Sư HT đã dịch nhiều bộ kinh và luận Phật giáo từ tiếng Phạn qua tiếng Hán, đưa Phật giáo gần đến nguồn Ấn Độ nguyên thủy hơn so với nhiều kinh dịch sai sót nhưng rất phổ thông vào thời trước (và cho đến ngay cả bây giờ).
13/08/2016(Xem: 3573)
Đức Phật đã dạy: " Mọi chuyện đều khởi đi từ duyên; duyên còn còn hiện hữu, duyên tan mọi sự trở về với trống không." Thật vậy, tôi chưa từng quen biết với các anh em trong " Hội Xây Dựng Tượng Đài Tỵ Nạn Hamburg", vậy mà mới lần đầu gặp gỡ khi các anh kéo nhau về ở München, tôi đã bị lôi cuốn bởi vẻ linh hoạt của anh Huấn, dáng điệu khoan thai, trầm tĩnh đầy chất Huế của anh Phù Vân, sự hăng say nồng nhiệt của anh Dũng, lời lẽ hài hước của anh Thoảng và dáng vẻ hiền từ dễ thương của chú Dũng Scirocco. Như vậy tôi phải có duyên lành với các anh nên mới nhận lời nối tiếp công việc các anh đang làm từ phút giây gặp gỡ ban đầu. Hơn nữa, đây là một nghĩa cử cao đẹp đầy ý nghĩa và cũng là dịp để Cộng đồng Việt Nam tỏ lòng biết ơn con tàu CAP ANAMUR, biết ơn nhân dân Đức đã cưu mang chúng tôi; vì vậy tôi đã hăng hái bắt tay vào việc với
31/05/2016(Xem: 13170)
Chữ NHƯ được thông dụng rất phổ biến trong văn chương và lời nói thường nghiệm của các dân tộc trên thế giới và trong Phật Giáo . Trong văn chương, chữ Như được thấy ở một số trường hợp : Xác định, phủ định, tương tợ, không thực…(như ảo, như hóa) đối với các vật thể hiện thực. Lãnh vực văn chương ở lời nói và viết thành văn, thơ. Ta thường nghe dân Việt nói và viết lời xác định về chữ như : Trắng như tuyết, cứng như đá, mềm như bún, nóng như lửa đốt, lạnh như băng giá, lạnh như đồng, xưa như trái đất, xưa như Diễm, chua như chanh, nắng như lửa đổ, mặn như muối, lạc (nhạt) như nước lã, tối như đêm ba mươi, đen như mực tàu, ốm như ma trơi, bén như gươm, cao như bầu trời, rộng như biển cả, ốm như cây sậy, nhanh như chớp, lẹ như sóc, dữ như cọp, ngu như bò, ngang như cua, v.v…
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]