Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

58. Kinh Vương Tử Vô Úy

19/05/202010:26(Xem: 10887)
58. Kinh Vương Tử Vô Úy

TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO

TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRUNG BỘ KINH

( Majhima  Nikàya )


Tập II
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli

Chuyển thể Thơ :

Giới Lạc  MAI LẠC HỒNG  tự TUỆ NGHIÊM

 ( Huynh Trưởng Cấp Tấn  - GĐPTVN tại Hoa Kỳ )

Email : [email protected]



58. Kinh VƯƠNG TỬ VÔ ÚY
( Abhayaràjakumàra sutta )
 
Như vậy, tôi nghe :
 
          Một thời, Đức Thế Tôn Giác Giả
          Trú Vương Xá – Rá-Chá-Ga-Ha  (1)
              Trúc Lâm – Vê-Lú-Va-Na  (1)
     ( Được dâng cúng bởi Tần-Bà-Sa-La )   
          Ka-Lanh-Đa-Ka-Ni-Va-Pá  (2)
       ( Chỗ vốn đã nuôi sóc hằng hà ) 
              Vương-tử tên A-Pha-Da  (3)
       Tức là Vô Úy – liền qua đến nhà
          Ni-Ganh-Tha Na-Ta-Pút-Tá  (4)
          Giáo Trưởng Ni-Ganh-Thá phái này.
              Đến nơi liền đảnh lễ Thầy
       Một bên, vương-tử ngồi ngay an hòa.
 
          Ni-Ganh-Tha Na-Ta-Pút-Tá
          Nói với A-Pha-Dá như vầy :
 
        – “ Này Vương-tử ! Hãy đi ngay
       Đến tìm, luận chiến với thầy Sa-Môn
          Gô-Ta-Ma – Tiếng đồn lập tức
          Lan truyền xa : ‘Thần lực cùng là
    __________________________________  
 
(1) : Ràjagaha ( Vương-Xá ) là thủ phủ của vương quốc Magadha 
    – Ma-Kiệt-Đà của vua Tần-Bà-Sa-La và sau là vua A-Xà-Thế .
Tại nơi đây, Vua Bimbisara đã dâng cúng Đức Phật khu rừng trúc của ông để thành lập Trúc Lâm Tinh Xá ( Veluvana Vihàra ).
(2) : Chỗ nuôi sóc Kalandakanivapa .        (3) : Abhaya - Vô Úy .
(4) : Vị Giáo Trưởng của Ni-Kiền-Tử :  Nataputta .
Trung Bộ (Tập 2) Kinh 58 : VƯƠNG TỬ VÔ ÚY   * MLH  –  298
 
              Uy lực ông Gô-Ta-Ma     
       Mà đã bị Vương-tử này công khai
          Luận chiến thật ngang tài ngang sức
          Vương-tử này quả thực tài cao ”.
 
        – “ Thưa Tôn-giả ! Làm thế nào
       Có thể luận chiến nhằm vào ông ta ?
          Sa-môn Gô-Ta-Ma đích thực
          Đầy thần lực, uy lực như vầy ? ”.
 
        – “ Này Vương-tử ! Hãy đi ngay
       Đến Sa-môn đó trình bày sâu xa
          Nêu lên Gô-Ta-Ma câu hỏi : 
         ‘Thế Tôn có thể nói lời mà
              Khi những lời ấy thốt ra
       Khiến những người khác nghe qua, tức thì
          Không ưa gì, lại vừa không thích?’. 
          Nếu Sa-môn họ Thích Ca này
              Đáp : ‘Có thể có như vầy
       Có người không thích lời này của Ta’.
          Hãy vặn lại vị Sa-môn đó :
         ‘Nếu mà có xử sự như vầy
              Có gì sai khác ở đây
       Giữa Thế Tôn với kẻ đầy phàm phu ?
          Kẻ phàm phu nói lời gì đó
Thì cũng có người khác không ưa’.     
 
              Còn nếu khi Vương-tử thưa
       Mà Sa-Môn lại dây dưa nói là :
‘Vương-tử ! Ta đây không thể nói
   Do lời nói, kẻ khác không ưa’.
              Thì Vương-tử hãy nên thưa :
     ‘Nếu xử sự như Ngài vừa nói ra,
Trung Bộ (Tập 2) Kinh 58 : VƯƠNG TỬ VÔ ÚY  * MLH  –  299
 
          Sao Ngài bảo Đê-Va-Đát-Tá  (1)
          Phải bị đọa đọa-xứ khổ đau
              Một kiếp địa ngục phải vào
       Không thể cứu độ, khổ sầu hằng sa
          Khiến Đề-Bà-Đạt-Đa (1) phẫn nộ
          Không ưa thích, nên cố hại Ngài ?’.
 
              Khi Vương-tử hỏi câu này
       Như hai cái móc, móc ngay họng rồi !
          Nuốt không trôi, nhả ra chẳng được.
          Này Vương-tước ! Ông Gô-Ta-Ma
              Từ hai câu hỏi nêu ra
       Như bị móc, khó nhả ra nuốt vào ! ”.
 
          Bị Giáo Trưởng khích vào tự ngã
          A-Pha-Dá – Vô Úy, vâng lời
              Đứng dậy từ chỗ đã ngồi
       Đảnh lễ Giáo Trưởng, đoạn rời nơi đây.
 
          Đi đến ngay chỗ Phật an trú 
          Đảnh lễ đấng Điều Ngự hiện tiền
    __________________________________  
 
(1) : Devadatta  tức Đề-Bà-Đạt-Đa , hay còn được gọi tắt là Điều-
   Đạt , cũng là vương-tử dòng họ Sakya (Thích Ca ), anh của Tôn
   giả Ananda . Sau khi Phật thành đạo, trở về Thành Ca-Tỳ-La-Vệ
   tế độ bảy vị vương-tử xuất gia, trong đó có Devadatta và Ananda
            Trong 12 năm đầu, ông tu hành rất nghiêm túc và đắc thần
  thông phàm . Nhưng sau đó khi được vua A-Xà-Thế trọng vọng,
  cung dưỡng mọi nhu cầu, ông trở nên ngã mạn và có ý muốn thay
  Phật để lãnh đạo Giáo đoàn .Bị Phật quở trách, ông ôm lòng oán
  hận , nên đã yêu cầu Phật chấp thuận 5 cấm giới do ông đề nghị..
  Đức Phật không chấp nhận , nên ông đã  tách riêng  và dẫn theo
  một  số Tỷ Kheo mới tu thành lập phái riêng . Ông cũng nhiều lần
  tìm mọi cách để hại Phật nhưng không thành.Ông phạm vào“ngũ
  nghịch đại tội” với 2 tội danh : Phá hòa hợp Tăng (chia rẽ Tăng  
Chúng) và làm thân Phật chảy máu . 
Trung Bộ (Tập 2) Kinh 58 : VƯƠNG TỬ VÔ ÚY  * MLH  –  300
 
              Một bên, vương-tử ngồi yên
       Nhưng vương-tử bỗng nhìn lên mặt trời,
          Suy nghĩ : “ Không phải thời luận chiến,
          Thời gian này không tiện cho ta
              Tranh luận cùng Gô-Ta-Ma
       Ngày mai, luận chiến tại nhà của ta ! ”.
 
          Liền bạch với Phật Đà được rõ :  
 
    – “ Bạch Thế Tôn ! Vào ngọ ngày mai
              Mời đến nhà con thọ trai
       Với ba Phích-Khú (1) cùng Ngài quang lâm ”.      
          Phật im lặng, ý thầm chấp thuận,
          Biết Thế Tôn đã nhận lời rồi  
              Vương-tử liền từ chỗ ngồi
       Đứng dậy đảnh lễ, hướng nơi Phật Đà
   Hữu nhiễu và cáo từ, lui gót.
 
          Mãn canh chót, lộ ánh triêu dương
              Theo lời thỉnh, đấng Pháp Vương
       Đắp y, mang bát an tường, uy nghi
          Ba Tỷ Kheo cùng đi, trực chỉ
          Đến nhà của Vô Úy thọ trai,
              Phật ngồi trên chỗ sẵn bày,
       Vương-tử Vô Úy tự tay dâng liền
          Món thượng vị loại mềm và cứng
          Gia nhân đứng phục vụ ngoài trong.
              Sau khi Thế Tôn dùng xong
       Tay rời khỏi bát. Vui lòng chủ gia
          A-Pha-Da liền ngồi nghiêm cẩn
          Trên ghế thấp kê sẵn một bên
    __________________________________  
 
(1) : Bhikkhu : Tỳ-Khưu  hay  Tỷ-Kheo , nghĩa là vị Khất-sĩ .
Trung Bộ (Tập 2) Kinh 58 : VƯƠNG TỬ VÔ ÚY  * MLH  –  301
 
              Rồi vương-tử ấy thưa liền :
 – “ Bạch Phật ! Ngài có nói lên những lời
          Do lời ấy, nhiều người không thích,
          Không ưa, nên đối nghịch với Ngài ? ”.
 
        – “ Vương-tử ! Phải chăng ở đây
       Câu hỏi dụng ý hỏi ngay một chiều ? ”.
 
    – “ Bạch Phật ! Điều mà Ngài đáp lại
          Ni-Ganh-Tha họ bại mất rồi ! ”.   
 
        – “ Vương-tử ! Không thể nói chơi ! 
       Vì sao ông nói những lời như trên ? ”.  
 
    – “ Bạch Thế Tôn ! Nêu lên như thế
          Con xin kể cớ sự xảy ra :
              Giáo Trưởng Na-Tá-Pút-Ta
       Bảo con đến gặp Gô-Ta-Ma Ngài
          Để luận chiến với Ngài một trận
          Con ngần ngại, nói thẳng ý mình :
             ‘Sa-Môn Kiều-Đàm cao minh
       Thần lực, uy lực thật tình rất cao
          Làm thế nào mà tôi luận chiến ?’.
 
          Giáo Trưởng bảo thực hiện dễ thôi !     
              Khi gặp vị Kiều-Đàm rồi
       Nêu hai câu hỏi hai thời khác nhau.
          Câu hỏi đầu như con vừa hỏi,
          Nếu Ngài nói rằng có như vầy
              Thì sẽ hỏi vặn lại ngay :
      ‘Xử sự như vậy cũng tày phàm phu,
          Kẻ phàm phu nói lời nào đó
          Thì cũng có người chẳng thích, ưa’. 
              Nếu với câu hỏi con thưa
       Mà câu Ngài đáp thật vừa ý ông
Trung Bộ (Tập 2) Kinh 58 : VƯƠNG TỬ VÔ ÚY  * MLH  –  302
 
          Là Thế Tôn Ngài không thể nói
          Những lời nói người khác ghét ngay,
              Thì con phải vặn lại vầy :
      ‘Nếu mà xử sự như Ngài nói ra
          Sao Ngài bảo Đê-Va-Đát-Tá   
          Phải bị đọa đọa-xứ khổ đau
              Một kiếp địa ngục phải vào
       Không thể cứu độ, khổ sầu hằng sa
          Khiến Đề-Bà-Đạt-Đa phẫn nộ
          Không ưa thích, nên cố hại Ngài ?’.
 
              Khi Sa-Môn bị hỏi vầy
       Như hai cái móc, móc ngay họng rồi !
          Nuốt không trôi, nhả ra chẳng được.
          Đó chính là mưu chước bày ra
              Của ông Na-Tá-Pút-Ta
       Bảo con luận chiến trải qua với Ngài
          Rồi từ hai câu con hỏi đó
          Như bị móc móc cổ họng ngay ”.
 
              Lúc bấy giờ, tại nơi này
       Có đứa con nít thơ ngây, hồng hào
          Nằm dựa vào đầu gối vương-tử
          Phật bèn hỏi vương-tử như sau :
 
        – “ Này Vương-tử ! Nghĩ thế nào
       Nếu hài-nhi đó, do vào vô tâm
          Của Vương-tử, hoặc nhằm người vú
          Do vô ý nên chú bé này
              Tự thọc vào miệng que dài
       Hay cầm hòn sỏi nuốt ngay vào mồm,
          Vậy Vương-tử đang ôm đứa nhỏ
          Phải làm gì lúc đó tức thì ? ”.
Trung Bộ (Tập 2) Kinh 58 : VƯƠNG TỬ VÔ ÚY  * MLH  –  303
 
        – “ Bạch Ngài ! Con ôm hài-nhi
       Đưa tay vào miệng, kiên trì móc ra
          Nếu không thể móc ra tức khắc
          Thì tay mặt làm như móc câu
              Tay trái giữ chặt lấy đầu
       Móc cho kỳ được, cho dầu máu ra ”.
 
    – “ Vương-tử ! Lời nói Ta cũng vậy !
 
      *  Như Lai biết lời ấy thuộc phần    
              Không như thật, không như chân
       Không tương ứng mục đích cần nói ra,
          Lời nói khiến người ta không thích
          Sẽ công kích hoặc bất mãn ngay
      Thời Ta không nói lời này.   
 
   *  Lời nào Ta biết có đầy như chân
          Cùng như thật, nhưng phần chứa đựng
          Không tương ứng mục đích cần đưa
              Khiến cho nhiều người không ưa
       Ta không nói, không dây dưa chuyện này.
 
      *  Lời nói nào Như Lai biết rõ
          Là vốn có như thật, như chân
              Tương ứng với mục đích cần
       Dù lời nói đó mọi phần chánh chân
          Nhưng người khác nhiều phần không thích
          Ta biết thời giải thích lời này.
 
          *  Lời không như thật, chẳng ngay
       Không như chân cũng không rày thanh cao
          Không tương ứng nhằm vào mục đích
          Nhiều người không ưa thích, cau mày 
      Thời Ta không nói lời này.
  *  Lời nào Ta biết vốn đầy như chân
Trung Bộ (Tập 2) Kinh 58 : VƯƠNG TỬ VÔ ÚY  * MLH  –  304
 
          Và như thật, nhưng phần chứa đựng
          Không tương ứng mục đích cần đưa
              Dù những người khác thích, ưa
       Thời Ta không nói và chừa điều đây.
 
      *  Lời biết ngay như chân, như thật
          Mục đích rất tương ứng ở trong
              Khiến nhiều người thích, hài lòng,
       Ta biết giải thích cho thông, hợp thời.
          Vì sao vậy ? Do nơi thương tưởng
          Đối với những hữu tình nơi nơi ”.
 
        – “ Bạch Thế Tôn ! Với những người
       Giòng Sát-Đế-Lỵ, đồng thời Bàn-môn,
          Những Sa-môn, Gia Chủ các vị
          Đều là người có trí, có tài
              Sau khi chuẩn bị sẵn ngay
       Những câu hỏi, đến gặp Ngài hỏi ra :
       “ Bạch Phật Đà ! Chúng con muốn biết
          Ngài có thiệt suy nghĩ trước là :
             ‘Nếu có những ai đến Ta,
       Hỏi Ta điều ấy thì Ta trả lời
 Đúng như điều mà Ta nghĩ trước’,
          Hay câu hỏi đó được trả lời
              Tại chỗ, một cách thảnh thơi ? ”.
 
 – “ Này Vương-tử ! Nghĩ sao nơi chuyện này :
          Nếu có người gặp ngay Vương-tử
          Hỏi Vương-tử quanh chuyện về xe :
             ‘Bộ phận này của cái xe
       Tên gọi của nó trong xe là gì ?’,
          Không hiểu ông có suy nghĩ trước
          Câu trả lời đã được tính rồi ?
Trung Bộ (Tập 2) Kinh 58 : VƯƠNG TỬ VÔ ÚY  * MLH  –  305
 
              Hay trả lời ngay tức thời ?” .
 
 – “ Bạch Phật ! Con trả lời ngay tức thì
          Điều đó, vì con đây nổi tiếng
          Đánh xe giỏi, phân biện rành về
              Các bộ phận trong cái xe ”.
 
 – “ Cũng vậy, Vương-tử ! Nói về Bàn-môn,
          Sát-Đế-Lỵ, Sa-môn, Gia -chủ,
          Đều có đủ trí tuệ, có tài
              Soạn sẵn câu hỏi như vầy
       Đến Như Lai để hỏi ngay điều này
   Thời Như Lai trả lời tại chỗ.
          Vì sao vậy ? Vì có phạm trù
            ‘Pháp giới’ – Tham-Ma-Tha-Tu  (1)
       Được Ta khéo biết đặc thù sâu xa ”.  
 
          Nghe Phật Đà trình bày tuần tự  
          A-Pha-Da vương-tử thưa ngay :
       – “ Bạch Thế Tôn ! Vi diệu thay ! 
       Như người dựng vật lăn quay ngã nằm
          Chỉ hướng kẻ sai lầm lạc lối
          Đem đèn sáng vào tối như bưng
              Để ai có mắt mở bừng
       Có thể thấy được sáng trưng sắc màu.
          Cũng như thế, nhiệm mầu Chánh Pháp
          Được Thế Tôn giải đáp, trình bày
              Con xin quy ngưỡng từ nay
       Quy y Đại Giác, nương ngay Pháp mầu,
          Quy y Tăng thanh cao đức cả
          Nối tiếp nhau hoằng hóa Pháp môn
    __________________________________  
 
   (1) :  Pháp giới : Dhammadhatu .
Trung Bộ (Tập 2) Kinh 58 : VƯƠNG TỬ VÔ ÚY  * MLH  –  306
 
            Mong Thế Tôn nhận cho con
       Được làm đệ tử, vun tròn thiện duyên
          Xin phát nguyện vẹn tuyền ngưỡng phục
          Kể từ nay đến lúc mạng chung
              Tín thành nương đấng Đại Hùng
       Thực hành Giáo Pháp muôn trùng cao thâm./-
 
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật  ( 3 L )
 
 
*  *  *
 
 
 
(  Chấm dứt  Kinh số 58  :VƯƠNG TỬ VÔ ÚY   –  
 ABHAYARÀJAKUMARA Sutta  )
 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
16/11/2016(Xem: 11664)
Mục đích của giải thưởng là khuyến khích việc sáng tác cá nhân, xuất phát từ nguồn cảm xúc đối với các hiện tượng thiên nhiên và đời sống xã hội, được miêu tả, bằng nhận thức, lý giải và thái độ sống động qua những lời dạy của Đức Phật. Bài tham dự có thể trình bày dưới nhiều hình thức như tác phẩm nghệ thuật, truyện ký, truyện ngắn, tạp bút, thơ… Người viết hoàn toàn tự do chọn đề tài, miễn có liên quan đến tư tưởng Đạo Phật và nội dung có thể chuyển tải được giáo lý thâm sâu, vi diệu mà rất gần gũi, giản dị của đức Phật trong đời sống hàng ngày.
19/10/2016(Xem: 15970)
Tại phiên bế mạc Đại hội Liên minh Bưu chính Thế giới (UPU) lần thứ 26 tại Istanbul - Thổ Nhĩ Kỳ vừa diễn ra, em Nguyễn Thị Thu Trang học sinh lớp 9B trường THCS Nguyễn Trãi, huyện Nam Sách, Hải Dương (năm học 2015-2016) đã đọc bức thư hay nhất thế giới do em viết trước đại diện 190 quốc gia.
07/10/2016(Xem: 10917)
Vào Thu đọc thơ Nguyễn Du: Hai bài thơ mang tên Thăng Long của Nguyễn Du Một phần nghiên cứu dịch văn bản thơ chữ Hán Nguyễn Du qua bài Thăng Long 昇龍 [1] Tản mạn nhận diện Quốc hiệu Việt Nam trong ý thơ của bài thơ Thăng Long Khái niệm lịch sử của Thăng Long Thăng Long, là kinh thành - kinh đô của đất nước Đại Việt, từ vương triều Lý , (gọi là nhà Lý hoặc Lý triều, 1009-1225) cho đến triều đại nhà Lê Trung Hưng (1533-1789), tổng cộng 564 năm[2]. Thăng Long cũng được hiểu và được biết đến trong lịch sử vốn là địa danh tên cũ của Hà Nội hiện nay. Thăng Long nghĩa là “rồng bay lên” theo nghĩa Hán-Việt, hay 昇隆[4] nghĩa là “thịnh vượng”. Từ Thăng Long: “昇隆” là từ đồng âm với tên “昇龍: Thăng Long”, nhưng mang nghĩa khác với “昇龍”.
27/09/2016(Xem: 7379)
Không bíết từ bao giờ những chú chim đã quây quần về đây càng ngày càng đông, nhảy nhót ca vang trên cành cây bên cạnh nhà mỗi ngày khi mặt trời chưa ló dạng. Nằm nướng vào những ngày cuối tuần, hay những hôm trời mưa rỉ rã, lúc trời đất giao mùa nghe chúng riú rít gọi nhau đi tìm mồi mình cũng thấy vui vui.
22/09/2016(Xem: 19596)
Đã có nhiều người nói và viết về nhạc sĩ Hằng Vang . Phần nhiều là những bài viết trong sáng, chân thực. Thiết tưởng không cần bàn cãi, bổ khuyết . Viết về anh, nhạc sĩ Hằng Vang, tôi chỉ muốn phác một tiền đề tổng hợp cốt tủy tinh hoa tư tưởng, sự nghiệp sáng tác của anh ; rằng : Anh là một nhạc sĩ viết rất nhiều ca khúc cho nền âm nhạc Phật Giáo Việt Nam, anh là một thành phần chủ đạo trong dòng chảy âm nhạc nầy ngay từ khi khởi nghiệp sáng tác thời phong trào chấn hưng Phật giáo, xuyên suốt qua nhiều biến động lịch sử trọng đại của PGVN cho đến tận bây giờ, anh vẫn miệt mài, bền bĩ cảm xúc, sáng tạo trong dòng chảy suối nguồn từ bi trí tuệ đạo Phật.
29/08/2016(Xem: 4316)
Cứ thế, một ngày vụt qua, lững thững ra đi không lời ước hẹn, cứ vậy, mịt mùng trao đổi, thân phận dòng đời, chờ chực vây quanh, chạy quanh lối mộng. Chiều xuống, nỗi buồn miên man gởi bay theo gió, trên kia cơn nắng chói chang của mùa hạ còn vương lại đâu đây, lặng nhìn núi đồi hoa lá, từng ấy trong lòng, một cõi mù khơi. Những giọt mồ hôi uể oải, từng nỗi đớn đau lũ lượt đọng lại, từng cơn hiu hắt thấm vào hồn, bây giờ trở thành những đơm bông kết nụ, những đắng cay ngọt bùi. Đâu đó, một chút hương lạ, làn gió bất chợt nhẹ lay, điểm tô không gian lắng đọng phiêu bồng, những thinh âm cao vút tận trời không, những hằng sa bất tuyệt chốn không cùng.
21/08/2016(Xem: 4057)
So sánh cách đọc Hán Việt (HV) với các cách đọc từ vận thư ("chính thống") của Trung Quốc (TQ) cho ta nhiều kết quả thú vị. Có những trường hợp khác biệt đã xẩy ra và có thể do nhiều động lực khác nhau. Chính những khác biệt này là dữ kiện cần thiết để xem lại hệ thống ngữ âm Hán Việt và tiếng Việt để thêm phần chính xác. Bài viết nhỏ này chú trọng đến cách đọc tên nhà sư nổi tiếng của TQ, Huyền1 Trang (khoảng 602–664, viết tắt trong bài này là HT) 玄奘 hay Tam Tạng, có ảnh hưởng không nhỏ cho Phật Giáo TQ, Việt Nam, Nhật và Hàn Quốc. Sư HT đã dịch nhiều bộ kinh và luận Phật giáo từ tiếng Phạn qua tiếng Hán, đưa Phật giáo gần đến nguồn Ấn Độ nguyên thủy hơn so với nhiều kinh dịch sai sót nhưng rất phổ thông vào thời trước (và cho đến ngay cả bây giờ).
13/08/2016(Xem: 3507)
Đức Phật đã dạy: " Mọi chuyện đều khởi đi từ duyên; duyên còn còn hiện hữu, duyên tan mọi sự trở về với trống không." Thật vậy, tôi chưa từng quen biết với các anh em trong " Hội Xây Dựng Tượng Đài Tỵ Nạn Hamburg", vậy mà mới lần đầu gặp gỡ khi các anh kéo nhau về ở München, tôi đã bị lôi cuốn bởi vẻ linh hoạt của anh Huấn, dáng điệu khoan thai, trầm tĩnh đầy chất Huế của anh Phù Vân, sự hăng say nồng nhiệt của anh Dũng, lời lẽ hài hước của anh Thoảng và dáng vẻ hiền từ dễ thương của chú Dũng Scirocco. Như vậy tôi phải có duyên lành với các anh nên mới nhận lời nối tiếp công việc các anh đang làm từ phút giây gặp gỡ ban đầu. Hơn nữa, đây là một nghĩa cử cao đẹp đầy ý nghĩa và cũng là dịp để Cộng đồng Việt Nam tỏ lòng biết ơn con tàu CAP ANAMUR, biết ơn nhân dân Đức đã cưu mang chúng tôi; vì vậy tôi đã hăng hái bắt tay vào việc với
31/05/2016(Xem: 12973)
Chữ NHƯ được thông dụng rất phổ biến trong văn chương và lời nói thường nghiệm của các dân tộc trên thế giới và trong Phật Giáo . Trong văn chương, chữ Như được thấy ở một số trường hợp : Xác định, phủ định, tương tợ, không thực…(như ảo, như hóa) đối với các vật thể hiện thực. Lãnh vực văn chương ở lời nói và viết thành văn, thơ. Ta thường nghe dân Việt nói và viết lời xác định về chữ như : Trắng như tuyết, cứng như đá, mềm như bún, nóng như lửa đốt, lạnh như băng giá, lạnh như đồng, xưa như trái đất, xưa như Diễm, chua như chanh, nắng như lửa đổ, mặn như muối, lạc (nhạt) như nước lã, tối như đêm ba mươi, đen như mực tàu, ốm như ma trơi, bén như gươm, cao như bầu trời, rộng như biển cả, ốm như cây sậy, nhanh như chớp, lẹ như sóc, dữ như cọp, ngu như bò, ngang như cua, v.v…
24/05/2016(Xem: 2996)
Xin chào. Xin chào Việt Nam! Thank you. Thank you so much. Xin cám ơn Chính phủ và nhân dân Việt Nam đã dành cho tôi sự chào đón nồng ấm và cho tôi hưởng lòng hiếu khách của người Việt trong chuyến thăm này. Và cũng xin cảm ơn các bạn Việt Nam có mặt ở đây ngày hôm nay, những người đến từ khắp nơi trên đất nước tuyệt vời này, trong đó có rất nhiều người trẻ đại diện cho sự năng động, tài năng và niềm hy vọng của Việt Nam.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]