Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

139. Kinh Vô Tránh Phân Biệt

19/05/202011:36(Xem: 10885)
139. Kinh Vô Tránh Phân Biệt

TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO

TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRUNG BỘ KINH

( Majhima  Nikàya )


Tập IV
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli

Chuyển thể Thơ :

Giới Lạc  MAI LẠC HỒNG  tự TUỆ NGHIÊM

 ( Huynh Trưởng Cấp Tấn  - GĐPTVN tại Hoa Kỳ )

Email : [email protected]


139. Kinh VÔ TRÁNH PHÂN BIỆT

( Aranavibhanga sutta )

 

                     Như vậy, tôi nghe :                     

 

                  Một thời, Đức Thế Tôn Thiện Thệ

          Sa-Vát-Thí – Xá-Vệ – trú qua        

              Tinh Xá Chê-Tá-Va-Na             

       A-Na-Thá-Pin-Đi-Ka cúng dường.    

          Tại đây, đấng Pháp Vương cho gọi

          Chúng Tỷ Kheo rồi nói như vầy :

 

        – “ Các Tỷ Kheo ! Hãy nghe đây ! ”.

 

       Chúng Tăng vâng đáp lời Ngài truyền ra.  

 

          Đức Phật Đà trang nghiêm thuyết giảng :  

 

    – “ Các Tỷ Kheo ! Ta giảng giải đây

             ‘Vô Tránh Phân Biệt’ pháp này

       Các ông hãy lắng nghe vầy, nghiệm suy ”.

 

    – “ Bạch đấng Chánh Biến Tri ! Vâng ạ ! ”.

          Chúng Tăng đã vâng đáp lời Ngài.  

              Thế Tôn liền thuyết giảng ngay :

 

 – “ Chớ hành trì dục lạc đầy dẫy ra

          Hạ liệt, phàm phu và đê tiện

          Không xứng bậc hiền thiện Thánh nhân,

              Không liên hệ mục đích cần.

       Và cũng chớ có tự thân hành trì

          Sự cực kỳ khổ hạnh, đau khổ  

          Không xứng chỗ bậc Thánh chánh chân 

              Không liên hệ mục đích cần,

 

       Hai cực đoan ấy phải cần bỏ đi.

          Có con đường Tám Chi Trung Đạo

          Đã được Ta hoàn hảo chứng tri

              Tác thành mắt & trí tức thì 

       Đưa đến an tịnh, liễu tri Niết bàn,

          Thắng tri và hoàn toàn giác ngộ,

          Nên biết chỗ chỉ trích, tán dương.

 

              Sau khi đã biết tán dương,

       Đã biết chỉ trích, nên thường hiểu thông

          Không tán thán và không chỉ trích

          Chỉ nên thích thuyết pháp thẳng ngay,

              Nên biết phán xét lạc này,

       Khi biết phán xét lạc này, chú tâm

          Vào nội lạc thâm trầm mọi mặt

          Không nói lời bí mật, dông dài

              Khi mặt đối mặt với ai,

       Không nên nói khiến cho ai mất lòng,

          Khi nói, không vội vàng, từng bước

          Chớ chấp trước ngôn ngữ địa phương,

              Chớ xa ngôn ngữ dùng thường,

       Đó là tổng thuyết Ta đương nói về

          Trong vấn đề ‘Vô tránh phân biệt’.

 

          Khi nói đến hạ liệt, phàm phu,

              Dục lạc, đê tiện, si ngu,

       Chớ hành trì đến cho dù ở đâu,

          Không xứng bậc thanh cao Thánh tuệ

          Không liên hệ mục đích, cũng như

              Không nên hành trì khư khư

       Tự kỷ khổ hạnh, phạm trù khổ đau,

          Không xứng vào bậc Thánh, mục đích…

          Do duyên gì chắc nịch nói vầy ?

              Phàm lạc gì liên hệ ngay

       Với dục, nhưng đam mê đầy trải qua

          Loại hỷ là hạ liệt, đê tiện

          Không xứng bậc Thánh hiển thanh cao,

              Pháp như vậy là khổ đau,

       Ưu não, nhiệt não, phiền lao, đạo tà

          Phàm lạc gì kết qua với dục

          Nhưng không chút đam mê trầm phù,

              Loại hỷ hạ liệt, phàm phu,

       Đê tiện, không xứng thuần từ Thánh nhân,

          Không liên hệ đến phần mục đích,

          Pháp như vậy không thích khổ đau,

              Không có ưu não, phiền lao,

       Vô não – chánh đạo thuộc vào lạc đây.

 

          Tự kỷ khổ hạnh đầy đau khổ 

          Không xứng chỗ bậc Thánh thanh cao,

              Không liên hệ mục đích nào,

       Hành trì pháp ấy khổ đau mọi bề,

          Ưu & nhiệt não, thuộc về tà đạo.

          Khổ hạnh nào khổ não hành trì

              Không xứng bậc Thánh nghiêm uy.

 

       Không liên hệ mục đích gì ở đây  

          Pháp như vầy không có đau khổ

          Không ưu não, nhiệt não, phiền lao

              Pháp ấy chánh đạo thuộc vào.

 

       Khi nói đến : ‘Chớ dấn sâu hành trì

          Dục lạc gì hạ liệt, đê tiện,

          Không xứng bậc Thánh hiển thanh cao,

              Không liên hệ mục đích nào.

       Cũng không nên tự dấn sâu hành trì

           Tự kỷ khổ hạnh chi, đau khổ

           Không xứng chỗ bậc Thánh thanh cao,

               Không liên hệ mục đích nào’.

       Do duyên ấy, được nói vào như trên.  

 

          Khi nói lên : ‘Hai cực đoan đó

          Phải từ bỏ, vì có con đường

              Trung Đạo – đã được Pháp Vương &

       Thế Tôn giác ngộ, đảm đương tác thành

          Về mắt và tác thành về trí,

          Đưa đến sự đình chỉ, tịnh an,

              Thượng trí, giác ngộ, Niết bàn,

       Duyên gì được nói liên quan như vầy ?

          Đường Thánh này tám ngành diễn tiến :

          Chánh tri kiến rồi chánh tư duy,

              Chánh ngữ, chánh nghiệp đồng thì

       Chánh mạng, chánh tinh tấn tri hành thường,

          Chánh niệm, chánh định – đường chánh đó.

 

          Khi nói đến : ‘Từ bỏ cả hai

              Cực đoan ấy’, vì có ngay

       Con đường Trung Đạo Như Lai đã hành,

          Đã giác ngộ, tác thành mắt, trí

          Đưa đến sự đình chỉ, tịnh an,

              Thượng trí, giác ngộ, Niết bàn.

       Do duyên ấy, được rõ ràng nói ra.  

 

          Khi nói là : ‘Nên biết tán thán,

          Biết chỉ trích’. Biết tán thán rồi

              Và khi biết chỉ trích rồi

       Thì không chỉ trích, không lời tán dương,

          Chỉ nên thường thuyết pháp có lợi,

          Do duyên gì nói tới như vầy ?

              Ở đây, các Tỷ Kheo này !

       Thế nào là tán thán đầy hân hoan ?

 

          Sao nói sang chỉ trích điều đó

          Nhưng không có thuyết pháp mọi thời ?

             Vị ấy chỉ trích số người

       Bảo : ‘Những ai tìm thấy nơi lạc này,

          Liên hệ ngay với dục, mê mẩn

          Loại hỷ dẫn hạ liệt, phàm phu,

              Đê tiện, không xứng Thánh từ,

      Không liên hệ mục đích’, như vậy thời

         Tất cả người như vậy đau khổ,

         Có ưu não, nhiệt não, phiền lao

             Như vậy tà đạo thuộc vào.

 

       Trái lại, không đam mê sâu đường tà

          Hạ liệt, đê tiện và phàm tục,

          Không xứng bực Thánh hiền vân… vân…

              Không liên hệ mục đích cần

       Thì không đau khổ, không phần phiền lao

          Không ưu não, thuộc vào chánh đạo’.

 

          Hoặc nhiên hậu vị ấy ở đây  

              Chỉ trích một số người vầy :

      ‘Những ai mê đắm, thường hay hành trì

          Tự kỷ khổ hạnh, thì không xứng

          Bậc Thánh, không tương ứng liên quan

              Mục đích. Tất cả họ toàn

       Có sự đau khổ, mọi đàng phiền lao,

          Có ưu não, thuộc vào tà đạo.

          Bằng trái lại, chánh đạo thuộc về.

              Trài ngược với các vấn đề     

       Ở trên nói đến mọi bề khác đi.

          Hoặc vị ấy một thì chỉ trích

          Một số người, nói khích bác là :

             ‘Những ai chưa đoạn tận qua

       Hữu kiết sử, họ đều là khổ đau,

          Có phiền lao, ưu não, nhiệt não,

          Thuộc tà đạo. Hoặc là vị đây

              Tán thán một số người vầy :

      ‘Những ai đã đoạn tận rày cho xong

          Hữu kiết sử, họ không đau khổ,

          Không phiền lao, hết chỗ não ưu,

              Thuộc chánh đạo. Các Tỳ-Khưu !

       Là có chỉ trích, có điều tán dương,

          Nhưng không có tận tường thuyết pháp.

 

          Thế nào có thuyết pháp, nhưng mà  

              Không có tán thán cùng là

       Không có chỉ trích ? Nói ra như vầy :

         ‘Bất cứ ai tìm thấy lạc đó,

          Liên hệ với dục, có mê say,

              Hỷ hạ liệt, đê tiện này

       Phàm phu, không xứng bậc Thầy Thánh nhân,

          Không liên hệ về phần mục đích,

          Những vị ấy trầm nịch, khổ đau

              Có ưu não, có phiền lao

       Thuộc tà đạo’. Vị ấy mau thuyết về :

         ‘Sự đam mê là pháp đau khổ

          Có phiền lao, ưu não, đạo tà’.

 

              Vị ấy cũng thuyết pháp ra : 

      ‘Không đam mê cũng chính là pháp duyên

          Không đau khổ, không phiền, nhiệt não, 

          Không ưu não, chánh đạo thuộc nơi’.

              Vị ấy không nói mọi thời :

      ‘Tự kỷ khổ hạnh những người đam mê

          Là không hề xứng bậc Thánh thế !

          Không liên hệ mục đích, khổ đau,

              Ưu não, nhiệt não, phiền lao,

       Thuộc tà đạo. Chỉ trước sau thuyết là

         ‘Sự đam mê chính là tà loại’.

 

          Và ngược lại, không nói vấn đề 

             ‘Những ai không có đam mê…

       Không khổ, chánh đạo thuộc về ở đây’.

          Và vị này chỉ thuyết pháp, bảo :

         ‘Sự an hảo không đam mê này

              Là không đau khổ dằng dai

       Không ưu & nhiệt não, không rày phiền lao,

          Thuộc chánh đạo’. Rồi sau vị ấy  

          Không có nói đại loại như vầy :

 

             ‘Những ai chưa đoạn tận ngay

       Hữu kiết sử, những vị này đều qua

          Sự khổ đau, có ra ưu não,

          Có nhiệt não và có phiền lao’.

 

              Chỉ thuyết pháp, nói như sau : 

      ‘Khi hữu kiết sử chưa mau diệt trừ

          Thì hữu chưa đoạn trừ, diệt tận’.

          Vị ấy vẫn không nói : ‘Những ai

              Đã diệt hữu kiết sử này,

       Họ không đau khổ, không rày phiền lao’…

          Vị ấy thuyết pháp vào điều ấy :

         ‘Hữu kiết sử cả thảy diệt rồi,

               Hữu được đoạn tận tức thời’.

       Các Tỷ Kheo ! Như vậy nơi điều này

          Là không khen, không hay chỉ trích,

          Chỉ thuyết pháp nêu ích lợi ra.

 

              Khi nói : ‘Biết tán thán, và  

       Nên biết chỉ trích’, chỉ là thuyết thôi.

          Chính do duyên này thời nói vậy.

          Khi nói : ‘Phải biết phán xét thầm

              Về lạc, thì nên chú tâm

       Vào nội lạc. Duyên gì nhằm nói đây ?

 

          Chúng Tăng này ! Năm dục trưởng dưỡng.

          Vậy năm dục trưởng dưỡng là gì ?

              Các sắc pháp do mắt ni

       Nhận thức khả ái, mọi thì đáng yêu

          Liên hệ điều dục và hấp dẫn.

          Các tiếng dẫn nhận thức do tai

              Hương do mũi nhận thức ngay,

       Vị do lưỡi nhận thức đầy thích tăng,

          Xúc do thân cảm giác, khả hỷ,

          Khả ái và khả ý, liên quan

              Đến dục, hấp dẫn vô vàn,

       Năm dục trưởng dưỡng mọi đàng là đây.

 

          Tỷ Kheo này ! Do duyên năm dục

          Trưởng dưỡng ấy tiếp tục khởi lên

              Lạc và hỷ được gọi tên

       Là dục & uế lạc tạo nên mọi thì

          Phàm-phu-lạc hay phi-thánh-lạc.

          Như Lai nói loại lạc như vầy

              Không nên thực hành hằng ngày

       Không nên tu tập, chớ rày mãn sung,

          Nên sợ hãi vô cùng lạc đó.

          Chúng Tăng ! Có tinh tấn hành trì 

              Ly dục, bất thiện pháp ly,

       Chứng đạt, an trú vào chi Nhất Thiền

          Một trạng thái an nhiên hỷ lạc

          Ly dục sanh, có các tứ, tầm.

              Rồi đình chỉ tứ và tầm

       Chứng, trú Đệ nhị Thiền tâm an lành,

          Một trạng thái định sanh vui thực,

          Tầm & tứ dứt, nội tĩnh nhất tâm

              Chứng, trú Đệ tam Thiền tâm,

       Rồi Thiền đệ tứ chứng tầm, trú an.

          Gọi rõ ràng là xuất-ly-lạc,

          Viễn-ly-lạc, an-tịnh-lạc, và 

              Giác-ngộ-lạc. Thì Như Lai

       Bảo thực hành loại lạc này cần chuyên,

          Nên tu tập, khiến nên sung mãn,

          Không sợ hãi. Hoặc khoản nói về :

             ‘Phải nên biết phán xét về

       Lạc ấy’. Khi phán xét về lạc xong

          Chú tâm trong nội lạc ở đấy

          Chính do duyên như vậy nói điều

              Phán xét về lạc sớm chiều

       Không khiếp vía, không sợ nhiều trải qua.

 

          Khi nói là : ‘Không nên có tật 

          Nói lên lời bí mật với ai,

              Khi mặt đối mặt với ai

       Không nói lời lẽ khiến ai mất lòng.

 

          Do duyên gì nói trong ý đó ?

          Các Tỷ Kheo ! Khi có biết qua

              Một lời bí mật nói ra

       Không thực, hư vọng. Cùng là điều đây

          Không liên hệ đến ngay mục đích

          Để lợi ích, chớ có nói lời

              Bí mật ấy ở mọi thời.

       Nếu lời bí mật là lời thực chân

          Không hư vọng, nhưng phần đáng kể

          Không liên hệ mục đích, thì nên

              Đừng nói lời bí mật trên.

       Còn nếu là thực, có liên hệ rồi

          Đến mục đích, tùy thời mà nói.

 

          Cũng như vậy, khi nói với ai 

              Một lời mất lòng, xét soi

       Để không nói hoặc tùy thời nói lên.

 

          Khi nói đến : ‘Hãy nên chậm rãi 

          Nói từ từ, đừng mãi vội vàng’.

              Do duyên gì được nói sang ?

       Ở đây, nếu nói vội vàng, thì thân

          Bị mệt mỏi, tâm thần tổn hại,

          Tiếng tổn hại, cổ họng đau khan,

              Lời nói một người vội vàng

       Không được hiểu, không rõ ràng nêu lên.

 

          Khi nói đến : ‘Chớ nên chấp trước

          Địa-phương-ngữ khi được nghe qua,

              Nhưng cũng chớ đi quá xa

       Ngôn ngữ thường nhật chúng ta hay dùng.

          Do duyên gì nói chung như thế ?

          Thế nào kể chấp trước ở đây

              Về địa phương ngữ như vầy

       Quá xa ngôn ngữ ta hay dùng nhiều ?

          Các Tỷ Kheo ! Trong nhiều quốc độ

          Người ta có tiếng nói khác nhau,

              Chữ viết cũng lại khác nhau.

       Có người chấp thủ chấp vào điều đây, 

          Nói như vầy : ‘Ngôn ngữ, chữ viết

          Chỉ như vậy mới thiệt đúng rồi,

              Ngoài ra hư vọng mà thôi !

       Như thế, họ chấp trước nơi điều là

          Địa phương ngữ, quá xa ngôn ngữ

          Mà căn bản họ tự dùng thường.

 

              Thế nào không chấp trước thường

     Tiếng thường dùng, tiếng địa phương hằng ngày ?

          Các người này  biết các quốc độ

          Những tiếng có, chữ viết khác xa.

              Người không chấp thủ nói là :

      ‘Các vị ấy y cứ qua thế này,

          Đã giải thích như vầy’. Như thế

          Là không để chấp trước trói mình,

              Không xa ngôn ngữ thường tình,

       Chính điều đó là duyên sinh chấp trì.

 

          Ở đây, phàm lạc gì liên hệ

          Với dục để có hỷ đam mê 

              Hạ liệt, đê tiện đáng chê

       Không xứng bậc Thánh, không hề liên quan

          Đến mục đích. Pháp toàn đau khổ

          Có ưu não, nhiệt não, phiền lao,

              Pháp này tà đạo thuộc vào

       Là pháp hữu tránh, tránh mau tức thì.

 

          Còn trái lại, các Tỳ-Kheo Chúng !

          Phàm lạc gì mà chúng cận kề

              Với dục, nhưng không đam mê

       Loại hỷ hạ liệt và đê tiện này

          Phàm phu đầy, không xứng Thánh tịch,

          Có liên hệ mục đích trước sau,

              Pháp ấy không có khổ đau,

       Không có ưu não, phiền lao – thuộc về   

          Chánh đạo. Pháp thuộc về vô tránh.

 

          Phàm tự kỷ khổ hạnh hành trì, 

              Đau khổ, không xứng Thánh uy,

       Không liên hệ mục đích gì thanh cao

          Như vậy có phiền lao, ưu não,

          Thuộc tà đạo. Hữu tránh pháp này.

 

              Trái lại với những điều đây

       Thuộc pháp vô tránh, hành ngay pháp này.

 

          Các Tỷ Kheo ! Ở đây Trung đạo

          Được Phật Bảo giác ngộ, tác thành,

              Về mắt, về trí tác thành

       Đưa đến thắng trí, tịnh thanh, Niết bàn.

          Pháp hoàn toàn không có đau khổ

          Không ưu não, phiển não lầm sai

              Chánh đạo, vô tránh pháp này.

 

       Các Tỷ Kheo ! Còn ở đây nói về

          Pháp tán thán hoặc về chỉ trích

          Nhưng không thích thuyết pháp thanh cao,

              Pháp có ưu não, khổ đau

       Nhiệt não, tà đạo thuộc vào dạng đây,

          Nên pháp này là ‘pháp hữu tránh’.

 

          Trái lại, ‘pháp vô tránh’ hiểu tường :

              Pháp không chỉ trích, tán dương

       Chỉ có thuyết pháp, pháp thường vui an,

          Thuộc chánh đạo, mọi đàng không khổ.

 

          Còn pháp có dục lạc, chính là 

              Uế lạc, phàm phu lạc, và

       Phi thánh lạc, pháp toàn là khổ đau,

          Có ưu não, thuộc vào ‘hữu tránh’.

 

          Ngược lại, pháp ‘vô tránh’ này là  

              Xuất ly lạc, lạc rời xa,

       An tịnh lạc, chánh đạo là pháp đây.

 

          Chúng Tăng này ! Lời nói bí mật  

          Không chân thật, hư vọng, tào lao

              Không liên hệ mục đích nào

       Pháp có nhiệt não, khổ đau, đạo tà,

          Pháp này là ‘hữu tránh’ được gọi.

 

          Còn ngược lại, ‘vô tránh’ pháp này 

              Lời nói bí mật ở đây

       Chân thật, không vọng, không dây dưa gì

           Đến mục đích, pháp ni đau khổ,

           Thuộc tà đạo, ưu não, phiền lao.

               Còn lời nói mất lòng nào

       Khi mặt đối mặt, thuộc vào vọng ngôn,

          Không chân thật, ẩn tồn hư vọng

          Không liên hệ nhanh chóng mục tiêu,

              Có ưu não, đau khổ nhiều

       Là pháp ‘hữu tránh’, pháp nêu đạo tà.

 

          Ngược lại là pháp ‘vô tránh’ đó  

          Lời chân thật, không có khổ đau

              Thuộc chánh đạo, không phiền lao.

 

       Chúng Tăng ! Còn những lời nào nói ra   

          Một cách vội vàng và pháp đó                

          Có ưu não và có phiền lao

              Thuộc tà đạo, có khổ đau

       Là pháp ‘hữu tránh’ thuộc vào diện đây.

 

          Ngược điều này là pháp ‘vô tránh’

          Lời nói lên một cách từ từ

              Không đau khổ, không ưu tư,

       Thuộc chánh đạo, pháp an như thuận hòa.

 

          Các Tỷ Kheo ! Người mà chấp cự

          Địa phương ngữ và đi quá xa

              Ngôn ngữ nơi mà người ta

       Vẫn thường sử dụng trải qua hằng ngày.

          Và pháp này đau khổ, ưu não,

          Thuộc tà đạo, nhiệt não, phiền lao

              Là pháp ‘hữu tránh’ thuộc vào.

 

       Ngược lại, ‘vô tránh’ pháp nao thuộc về   

          Không chấp nê vào địa phương ngữ,

          Khi đi quá ngôn ngữ thường dùng,

              Không đau khổ, và nói chung

       Không có ưu não, vô cùng chánh chân

          Là pháp phần ‘vô tránh’ an lạc.

 

          Do vậy, các Phích-Khú ! Các ông

              Phải tự tu học, hiểu thông :

       Chúng ta phải biết nằm lòng tế thô

          Hữu tránh pháp cùng Vô tránh pháp,

          Sau  khi biết hai pháp này thì

              Chúng ta sẽ cố hành trì

       Về ‘Vô tránh đạo’ mọi thì trải qua.

 

          Các Tỷ Kheo ! Thiện gia nam tử

          Tu-Bồ-Đề tức Sú-Phú-Ti    (*) 

              Vô tránh pháp đã hành trì

       Một cách tinh tấn, mọi thì vui an ”.

 

          Đức Thế Tôn nghiêm trang thuyết giảng

          Pháp viên mãn, vi diệu lạc an

              Chư Tỷ Kheo trong đạo tràng

       Hoan hỷ tín thọ lởi vàng Thế Tôn ./- 

 

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật  ( 3 L )

 

*

*  *

 

(  Chấm dứt Kinh số 139 :   VÔ TRÁNH PHÂN BIỆT   

–  ARANAVIBHANGA  Sutta  )  

 

 

 

 ____________________________

 

 (*) : Tôn-giả Tu-Bồ-Đề  –  Subhuti  – là vị trong Thập Đại Đệ Tử

         của Đức Phật, là bậc Giải Không đệ nhất. 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
13/01/2018(Xem: 3935)
Đọc Thơ Tuyển của Cư sỹ Đào Văn Bình, Tình cờ chúng tôi có được tập sách Tổ Ấm Cuối Cùng, Thơ tuyển và Kịch bản, của cư sỹ Đào Văn Bình xuất bản năm 1987, gởi tặng cố Hòa thượng Thích Thiện Trì, chùa Kim Quang tại thủ phủ Sacramento, CA. Tập sách có hai phần: Phần 1 là Thơ tuyển mà tác giả cho biết là "Sáng tác ròng rã qua 9 năm lưu đày tù ngục và 1 năm phiêu linh qua các trại tỵ nạn". Phần 2 là Kịch bản Tổ Ấm Cuối Cùng (Sáng tác từ tại tỵ nạn Sungei Besi). Ở đây tôi chỉ viết cảm hứng của mình khi đọc vài bài thơ trong lúc bị tù đày của một cư sỹ lão thành luôn có tâm với đạo pháp và dân tộc.
12/01/2018(Xem: 4600)
Nhớ lại 3 năm trước, tôi đến Seattle vào một chiều Thu cuối tháng Mười. Vừa rời khỏi sân bay, cảm nhận đầu tiên của tôi đối với đô thị xa hoa có nhịp sống bận rộn này là cái se se lạnh của tiết trời đang độ giữa Thu. Trong tôi lúc đó vẫn còn nỗi bồn chồn lo lắng, tâm trạng của một người vừa xa quê, bước chân vào một đất nước xa lạ. Sự mát lạnh của khí trời như xoa dịu phần nào nỗi lo lắng trong tôi. Có lẽ đó là lý do vì sao tôi vẫn nhớ như in cảm xúc đầu tiên ấy, và dần dần, tôi nhận ra mình có cảm tình với mùa Thu ở Washington.
15/12/2017(Xem: 6277)
Hương Lúa Chùa Quê" Bản Tình Ca Quê Hương của nhị vị Hòa Thượng Thích Bảo Lạc và Thích Như Điển. Sau khi đọc tác phẩm “Hương Lúa Chùa Quê” chúng con không dám mong ước giới thiệu sự nghiệp văn học, văn hóa cả đạo lẫn đời của nhị vị Hòa Thượng. Vì công trình tạo dựng sự nghiệp của các bậc xuất sĩ không nằm trong “nguồn văn chương sáng tác”. Vì xuyên qua mấy chục năm hành đạo và giúp đời, nhị vị đã xây dựng nhiều cơ sở Phật giáo đồ sộ trên nhiều quốc độ khác nhau như: chùa Pháp Bảo tại nước Úc; chùa Viên Giác và Tu viện Viên Đức tại nước Đức. Nhị vị cũng đã mang ánh Đạo vàng đến khắp muôn nơi, soi sáng cho bước chân “người cùng tử” được trở về dưới mái nhà xưa, để thấy lại “bóng hình chân nguyên”; dẫn đường cho những người chưa thể “tự mình thắp đuốc lên mà đi” được tìm lại “bản lai diện mục”. Đó mới gọi là “sự nghiệp” của bậc xuât sĩ. Điều nầy đã có lịch sử ghi nhận từ mạch nguồn công đức biểu hiện và lưu truyền.
15/12/2017(Xem: 86891)
Trải hơn 25 thế kỷ, Chánh Pháp của Phật vẫn được tuyên dương và lưu truyền bởi hàng đệ tử xuất gia lẫn tại gia, đem lại giải thoát và giác ngộ cho những ai học hỏi và thực hành đúng đắn. Chánh Pháp ấy là thuốc hay, nhưng bệnh mà không uống thì chẳng phải là lỗi của thuốc. Trong kinh Di Giáo, đức Phật cũng ân cần huấn thị lần chót bằng những lời cảm động như sau: “Thể hiện lòng đại bi, Như Lai đã nói Chánh Pháp ích lợi một cách cứu cánh. Các thầy chỉ còn nỗ lực mà thực hành… Hãy tự cố gắng một cách thường trực, tinh tiến mà tu tập, đừng để đời mình trôi qua một cách vô ích, và sau này sẽ phải lo sợ hối hận.” Báo Chánh Pháp có mặt để góp phần giới thiệu đạo Phật đến với mọi người. Ước mong giáo pháp của Phật sẽ được lưu chuyển qua những trang báo nhỏ này, mỗi người sẽ tùy theo căn tánh và nhân duyên mà tiếp nhận hương vị.
15/12/2017(Xem: 136695)
Văn Hóa Phật Giáo, số 242, ngày 01-02-2016 (Xuân Bính Thân) Văn Hóa Phật Giáo, số 244, ngày 01-03-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 245, ngày 15-03-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 246, ngày 01-04-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 247, ngày 15-04-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 248, ngày 01-05-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 249, ngày 15-05-2016 (Phật Đản PL 2560) Văn Hóa Phật Giáo, số 250, ngày 01-06-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 251, ngày 15-06-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 252, ngày 01-07-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 253, ngày 15-07-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 254, ngày 01-08-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 255, ngày 15-08-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 256, ngày 01-09-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 257, ngày 15-09-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 258, ngày 01-10-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 259, ngày 15-10-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 260, ngày 01-11-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 261, ngày 15-11-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 262, ngày 01-12-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 263, ngày 15-12-2016
08/12/2017(Xem: 3985)
Đọc “Trúc Lâm Thiền Phái tại Huế” của Thích Tín Nghĩa, Nhân dịp Nguyên Giác và tôi ra mắt sách ở Chùa Bát Nhã, Nam California, Hòa Thượng Thích Tín Nghĩa- Viện Chủ Từ Đàm Hải Ngoại Irving, Texas không về dự được nhưng đã có thư cáo lỗi. Từ việc làm hết sức cẩn trọng và khéo léo đó, tôi sinh lòng cảm mến và làm quen với hòa thượng qua điện thư và được hòa thượng ưu ái tặng cho bốn cuốn sách của chính hòa thượng, bao gồm:
07/11/2017(Xem: 3694)
Nhà thấp nhất trong xóm. Mái tole. Cửa gỗ. Sàn gác gỗ sao. Nó khiêm tốn lọt thỏm giữa những ngôi nhà cao tầng khang trang, kiên cố với beton cốt thép, cửa sắt, cửa kính chịu lực... Diện tích gian dưới của căn nhà cấp 4 này chỉ 24 mét vuông, chia thành hai gian, bếp và nhà vệ sinh chiếm hết gần một nửa, còn lại chừa cho gian phòng khách chật chội với bàn ghế, divan, tủ sách, chỗ để hai chiếc xe máy... Vậy mà vào lúc sáng sớm, khi cơn bão Damrey dữ tợn bắt đầu đổ bộ vào đất liền, hung hăng sấn vào lòng thành phố biển Nha Trang, căn nhà khiêm tốn trong hẻm nhỏ này là nhà duy nhất mở cửa để đón nhận 15 người khách lỡ đường chui vào nương trú để tránh bão. Duy nhất. Vì mọi nhà xung quanh đều đã cửa đóng then cài kín bít từ đầu tối hôm trước.
05/11/2017(Xem: 24402)
Cách Đọc Tên và Phát Âm 23 Chữ Cái, Hiện nay tại Việt Nam cách gọi tên và cách phát âm 23 mẫu tự tiếng Việt vô cùng lộn xộn. Thí dụ: Trên chương trình Thời Sự Quốc Phòng, thiết vận xa M.113 có cô đọc: em mờ 113. Có cô đọc mờ 113. -Chữ N có nơi đọc: en nờ (âm nờ hơi nhẹ). Có nơi đọc nờ.
12/10/2017(Xem: 11448)
Viết về anh Bùi Giáng là một việc làm cần lòng can đảm. Thậm chí cần rất nhiều can đảm, có khi phải nói nôm na là liều mạng mới dám viết. Những người có thời gần gũi và thương mến anh ai cũng có lần cảm nhận điều đó. Anh thích người ta đọc sách anh, thưởng thức thơ văn anh, nghiền ngẫm tư tưởng của anh. Nhưng ngược lại anh hay nổi nóng nếu ai hiểu sai ý anh. Anh rất giận khi có ai viết sai một chữ, kể cả sai một dấu phẩy, những câu thơ của anh. Có rất nhiều khi anh cho đó là một sự xuyên tạc có hậu ý. Dù sao, anh và tôi đã từng sống chung gần ba năm trời ở Vạn Hạnh chả lẽ không có gì để nói, lâu nay tuy rất muốn viết nhưng tôi vẫn cố tránh, cho đến khi có người nhắc.
13/08/2017(Xem: 6594)
Cách đây ít lâu, một nhóm Phật tử tại Hà Nội sang Đài Loan đảnh lễ Pháp sư Tịnh Không, được ngài ban cho một bộ sách gồm 7 quyển, ân cần dặn dò nên tìm người dịch sang tiếng Việt để lưu hành rộng rãi. Bộ sách ấy có tên là Thánh học căn chi căn (聖學根之根), với ý nghĩa là những nền tảng căn bản nhất trong cái học được các bậc thánh nhân từ xưa truyền lại. Sách do cư sĩ Nhân Duyên Sinh tuyển soạn từ kinh sách của cả Nho giáo, Lão giáo và Phật giáo, nhằm mục đích hình thành một bộ sách giáo khoa thích hợp và bổ ích nhất cho các em ở độ tuổi thiếu niên, nhi đồng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]