Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

67. Kinh Càtumà

19/05/202010:31(Xem: 9512)
67. Kinh Càtumà

TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO

TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRUNG BỘ KINH

( Majhima  Nikàya )


Tập II
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli

Chuyển thể Thơ :

Giới Lạc  MAI LẠC HỒNG  tự TUỆ NGHIÊM

 ( Huynh Trưởng Cấp Tấn  - GĐPTVN tại Hoa Kỳ )

Email : [email protected]



67. Kinh CÀTUMÀ
( Càtumà  sutta )
 
Như vậy, tôi nghe :
 
          Một thời, Đấng Thế Tôn du hóa,
          Địa phương Cha-Tu-Má (1) dừng chân
              Rừng cây Mi-Rô-Ba-Lăng  (2)
       Trú tại đó với Chúng Tăng tịnh, hòa.
 
          Ngài Sa-Ri-Pút-Ta (3) Tôn-giả
        ( Hay ngài Xá-Lợi-Phất cũng là )
              Cùng ngài Mốc-Gá-La-Na  (4)
     ( Mục-Kiền-Liên cũng chính là ngài đây )
Lúc bấy giờ, hai ngài Thượng thủ
          Dẫn năm trăm Phích-Khú, cùng qua
              Đến tịnh địa Cha-Tu-Ma
       Để được yết kiến Phật Đà tại đây.
 
          Các Tỷ Kheo nơi này chào đón 
Các vị đến. Rồi dọn sàng tòa,
Các y bát được cất qua,
       Nên tiếng náo động khởi ra ồn ào.
 
          Đức Thế Tôn hướng vào Tôn-giả      
A-Nan-Đa, hỏi đã xảy ra
              Chuyện gì náo động như là
       Tiếng phường đánh cá trải qua tranh dành
    ______________________________
 
  ( ) :  Địa phương tên  Càtumà .
  (2) :  Rừng cây Myrobalam  ( Kha-lưu-lạc ) .
  (3) :  Tôn giả Sariputta  ( Xá-Lợi-Phất ) được Phật tuyên bố là
         Đại-đệ-tử tay mặt của Ngài , vị Trí Tuệ đệ nhất .
  (4) :  Tôn giả Moggallana  ( Mục-Kiền-Liên ) là Đại-đệ-tử tay
        trái của Phật , vị Thần thông đệ nhất .
Trung Bộ  (Tập 2)    Kinh 67 :  CÀTUMÀ             *   MLH –  426
 
          Khi thuyền về, tranh dành chia cá ?
          A-Nan-Đa Tôn-giả thưa qua
Nguyên nhân sự việc xảy ra.
       Thế Tôn liền bảo ngài A-Nan-Đà :
 
    – “ Nhân danh Ta, hãy đi tìm họ   
          Bảo Đạo Sư gọi họ gặp Ngài ”. 
 
        – “ Bạch Thế Tôn ! Con đi ngay ”.
 
       Rồi Tôn-giả chuyển lời Ngài y theo.
          Tất cả vị Tỷ Kheo mới đến
          Cùng đi đến hương thất Thế Tôn,
              Chí thành đảnh lễ Thế Tôn
       Một bên ngồi xuống nhu ôn cạnh Ngài.
 
          Đấng Như Lai liền lên tiếng hỏi  
          Hướng về mọi Tỷ Kheo ngồi gần :
 
        – “ Các Tỷ Kheo ! Có nghĩ chăng
       Có tiếng náo động như hàng ngư dân
          Tranh dành cá vang rân náo động ? ”.
 
     – “ Bạch Thế Tôn ! Náo động do là
              Năm trăm Tỷ Kheo từ xa
       Vừa đến tại Cha-Tu-Ma nơi này
          Do hai ngài : Sa-Ri-Pút-Tá
          Và Mốc-Ga-La-Ná  dẫn đầu
              Chư Tăng tại đây đón chào
       Dọn sàng tọa, y bát mau cất vào,
          Nên có tiếng ồn ào như vậy ”.
 
    – “ Các Tỷ Kheo ! Mau hãy đi đi !
Ta đuổi các ông phải đi.
Chớ gần Ta. Hãy cấp kỳ đi ra ! ”.
    – “ Bạch Phật Đà ! Xin vâng lời dạy ”.
Trung Bộ  (Tập 2)    Kinh 67 :  CÀTUMÀ             *   MLH –  427
 
          Các Tỷ Kheo đứng dậy tức thì
              Đảnh lễ đấng Chánh Biến Tri
       Hữu nhiễu quanh Phật rồi thì đi ra.
          Dọn dẹp lại sàng tòa như cũ
Lấy y bát, ủ rủ đi ra.
              Lúc ấy, Thích-tử Thích Ca
       Các vị tạm trú tại Cha-Tu-Mà,
          Đang hội họp bàn qua công vụ
          Tại giảng đường đang trú nơi đây.
              Bỗng thấy các Tỷ Kheo này
Từ xa đi đến, mặt mày buồn hiu.
          Các Thích-tử thấy điều như vậy
          Hòi các Tỷ Kheo ấy như sau :
        – “ Nay chư Tôn-giả đi đâu ? ”.    
 – “ Chư Huynh ! Cả bọn phạm vào điều sai,
          Bị Như Lai đuổi đi như vậy ”.
 
    – “ Chư vị hãy ngồi lại nơi này 
              Chúng tôi sẽ xin với Ngài ”.
 – “ Thưa vâng, xin các Huynh đài giúp cho ”.
 
          Các Thích-tử này do sốt sắng
          Đến, đảnh lễ Chánh Đẳng Như Lai,
Rồi ngồi xuống một bên Ngài.
     ( Các vị Thích-tử ở đây chính là
          Sát-Đế-Lỵ Thích Ca tộc hệ  (1)
          Thuộc Ca-Tỳ-La-Vệ (1) nước này )
              Các Thích-tử bạch Phật ngay :  
     ____________________________
 
(1) : Bộ tộc Sakya  – Thích Ca thuộc giai cấp Khattiya (Sát-Đế-
      Lỵ ) thuộc Tiểu quốc Kapilavatthu  ( Ca-Tỳ-La-Vệ ) lúc ấy
    dưới sư trị vì của Vua Tịnh Phạn (Suddhodana – là cha của
    Thái Tử Sĩ-Đạt-Ta , tức Đức Phật ) . 
Trung Bộ  (Tập 2)    Kinh 67 :  CÀTUMÀ             *   MLH –  428
 
– “ Bạch đấng Thiện Thệ ! Xin Ngài thứ tha,
          Xin Phật Đà từ bi hoan hỷ
Với các vị Tỷ Kheo lỗi lầm.      
              Trước kia, Ngài với từ tâm  
Tiếp độ, hướng dẫn họ tầm đường tu
          Nay xin giúp Phích-Khu (1) các vị 
          Trong số họ, có vị mới tu
              Thân tâm chưa được hòa nhu
       Xuất gia mới mẻ, công phu chưa nhiều,
Pháp và Luật họ đều sơ lược.
          Nếu không được yết kiến Phật Đà
              Có thể họ đổi khác ra,
Có thể biến chất hoặc là lầm đi.
          Bạch Thế Tôn ! Giống y hạt giống
          Không tưới nước, sức sống sẽ suy
              Có thể chúng biến dạng đi
       Hoặc chúng đổi khác, còn tùy xảy ra.
          Bạch Phật Đà ! Bê con được ví
          Với nó, chỉ có mẹ mà thôi,
              Nếu bò mẹ bị tách rời
       Có thể bê biến dạng rồi đổi thay.
          Cũng như vậy, xin Ngài hoan hỷ
Lượng thứ cho các vị Tỷ Kheo.
              Đây có những tân Tỷ Kheo
       Xuất gia mới mẻ, chưa theo Luật điều.
          Nếu Thế Tôn dùng nhiều cách phạt,
          Họ có thể đổi khác, càng sai,    
              Xin Phật tiếp đón Chúng này
       Xin hãy hoan hỷ, xin Ngài từ bi ”.
    _______________________________
 
 (1) : Bhikkhu – Tỳ-Khưu hay Tỷ-Kheo , có nghĩa là Khất-sĩ .
Trung Bộ  (Tập 2)    Kinh 67 :  CÀTUMÀ             *   MLH –  429
 
Vị Sa-Hăm-Pá-Ti (1), thường trú
Cõi Phạm Thiên. Là chủ Ta-Bà,
              Với tâm của mình, biết qua
       Tâm của Đại Giác Phật Đà trí minh.
          Như lực sĩ tạo hình, dễ dãi
          Duỗi cánh tay co lại của mình,
              Phạm Thiên biến mất thình lình
       Khỏi Phạm-Thiên-giới, an bình hiện ra
          Trước mặt đức Phật Đà tự tại
          Đắp thượng y vai trái nghiêm trang
              Chắp tay hướng Phật, bạch rằng :
 – “ Bạch đức Điều Ngự ! Ngài hằng từ bi.
          Hãy hoan hỷ với Tỳ-Khưu Chúng,
          Hãy tiếp đón, gặp Chúng Tăng này.
              Ví như Thế Tôn trước đây
Tiếp độ, giúp họ, tâm đầy thương yêu.    
          Trong số họ, có nhiều Phích-Khú
          Mới xuất gia, chưa đủ oai nghi,
              Vừa đến trong Pháp & Luật ni,
       Không được yết kiến Phật thì buồn thay !
          Có thể vì điều này thối thất,
Rồi đổi khác, biến chất, lầm đi.
              Kính bạch đấng Chánh Biến Tri !
       Hạt giống thiếu nước sẽ suy yếu liền,
Như bê con tách riêng bò mẹ…
          Các Tỷ Kheo này sẽ lạc đường                 
              Bạch đấng Thiện Thệ Pháp Vương !
       Xin Ngài hoan hỷ, hãy thương Chúng này ”.
          Do trình bày thiết tha, tuần tự  
    ________________________________
 
(1) : Đại Phạm Thiên Sahampati   tại Cõi Trời Phạm Thiên .
Trung Bộ  (Tập 2)    Kinh 67 :  CÀTUMÀ             *   MLH –  430
 
          Các Thích-tử và Đại Phạm Thiên
Sá-Hăm-Pá-Tí, là duyên
       Để đấng Đại Giác bỏ phiền làm vui,
          Với ví dụ để nuôi hạt giống
Hay sự sống mất mẹ của bê.
              Khi đã giải quyết vấn đề
       Sá-Hăm-Pá-Tí trở về Phạm Cung
Các Thích-tử cũng cùng từ giã.
          Ngài Mốc-Ga-La-Ná bấy giờ  
              Bảo các Tỷ Kheo ngồi chờ :
 
 – “ Chư Hiền ! Đứng dậy ! Nhân cơ hội này
          Đại Phạm Thiên, các ngài Thích-tử
          Đã xin đấng Điều Ngự thứ tha,
           Phật đã vui lòng bỏ qua .
       Lấy y bát, hướng Phật Đà đến ngay ! ”.
          Các vị này vâng theo Tôn-giả 
          Từ chỗ ngồi đứng cả lên ngay
              Đến gặp Phật, đảnh lễ Ngài,
       Một bên ngồi xuống, lòng đầy hân hoan.
          Phật nhìn sang Sa-Ri-Pút-Tá ,
          Hỏi : “ Này Xá-Lợi-Phất ! Nghĩ gì
              Khi Ta đuổi bọn họ đi ? ”.
 
 – “ Bạch Phật ! Các Tỷ Kheo ni lỗi lầm
          Bị Ngài đuổi, con thầm nghĩ ngợi :
 ‘Vậy thuận lợi, ít bận rộn Ngài,
Trú an hiện-tại-lạc này.
       Chúng con cũng vậy, từ rày được an ”.
 
    – “ Xá-Lợi-Phất ! Hãy khoan nói thế,
          Chớ có để tư tưởng như vầy
              Khởi lên từ nơi ông đây ”.
Trung Bộ  (Tập 2)    Kinh 67 :  CÀTUMÀ             *   MLH –  431
 
 
       Mục-Kiền-Liên lại được Ngài hỏi qua :
    – “ Này Mốc-Gá-La-Na ! Ông nghĩ
          Về các vị bị đuổi thế nào ? ”.
        – “ Bạch Thế Tôn ! Con nghĩ mau :
       Nay sự bận rộn, ồn ào mất đi,
          Hiện-tại-lạc Phật thì an trú,
          Từ nay tự con và Pháp-huynh
Sa-Ri-Pút-Tá, tận tình
       Lãnh đạo Tăng Chúng nghiêm minh, an lành ”.
    – “ Lành thay ! Này Mốc-Ga-La-Ná ! 
          Chỉ có Ta và cả hai là : 
              Tay mặt, Sa-Ri-Pút-Ta,
       Tay trái, Mốc-Gá-La-Na – tận tình
          Mới có thể nghiêm minh lãnh đạo
          Chúng Tỷ Kheo y giáo hành trì ”.
 
              Sau đó, đức Chánh Biến Tri
       Cho gọi Tăng Chúng tức thì vào ngay.
 
          Ngài thuyết giảng : “ Hỡi này Tăng Chúng !
          Bốn điều cũng đáng sợ như nhau
              Chờ đợi ai lội nước sâu.
       Thế nào là bốn ?  –  Sợ vào sóng to, 
–  Sợ và lo cá sấu làm hại,
      –  Sự sợ hãi nước xoáy giữa dòng,
–  Sợ hãi cá dữ tấn công.
       Bốn điều sợ hãi chẳng mong gặp này
Luôn chờ đợi những ai lội nước.
          Cũng vậy, bốn điều được nêu ra
              Chờ đợi những người xuất gia
       Luôn đáng sợ hãi, trải qua sớm chiều.
          Thế nào là bốn điều đáng sợ
Trung Bộ  (Tập 2)    Kinh 67 :  CÀTUMÀ             *   MLH –  432
 
          Cũng tương tợ : cá sấu, sóng to,
Nước xoáy, cá dữ đáng lo.
       Các ông ! Sợ hãi nguyên do thế nào ?
 
      *  Sự sợ hãi ra sao về sóng ?
          Các Tỷ Kheo ! Đang sống tại gia
              Một Thiện-nam-tử an hòa
       Vì lòng tin, đã xuất gia, lìa nhà,
Bỏ gia đình, tránh xa thế tục.
          Trong tỉnh thức, vị ấy nghĩ suy :
            “ Ta bị già, chết, sầu, bi,
Sanh, khổ, ưu, não… mọi thì chẳng buông,
Khổ áp bức, khổ luôn chi phối.
          Tuy vậy, ta mong đợi như vầy :        
              Dứt toàn bộ khổ uẩn này ”.
       Xuất gia, vị ấy đêm, ngày, ngoài, trong
          Được các vị là đồng-phạm-hạnh
          Giảng dạy điều chân chánh, khuyên bày :
 ‘Ông cần thực hiện hằng ngày :    
       Ngó tới như vậy, như vầy ngó quanh,
          Đi và về an lành như vậy,
          Co & duỗi tay cũng phải oai nghi.
              Phải mang Tăng-già-lê y,
       Mang bát như vậy, mọi thì hóa duyên’.
 
          Vị ấy liền nghĩ theo việc đó :
 ‘Trước kia, ta chưa có xuất gia,   
              Chính ta giảng dạy người ta,
       Khuyến giáo người khác thật là nhiều thay !
          Nay họ đây hãy còn ít tuổi
          Đáng vào tuổi con cháu của ta
              Lại muốn giảng dạy cho ta,
Trung Bộ  (Tập 2)    Kinh 67 :  CÀTUMÀ             *   MLH –  433
 
       Lên mặt khuyến giáo với ta đủ điều’.
 
          Do tâm tư có nhiều bất mãn
Vị ấy nản, hoàn tục, về nhà.
              Các Tỷ Kheo ! Như vậy là 
       Vị ấy từ bỏ, lánh xa tu hành.
          Gọi đích danh là người sợ hãi
Sự sợ hãi về sóng tấn công.
              Các Tỷ Kheo ! Phải hiểu thông :
       Sợ hãi sóng – phẫn não : đồng nghĩa nhau.
 
      *  Còn thế nào sợ hãi cá sấu ?
          Thấy phiền não đời sống tại gia,
              Một Thiện-nam-tử trải qua
       Lòng tin sâu nặng, xuất gia tu hành,
Tâm chí thành muốn trừ dứt khổ.
          Nhưng tại chỗ trú xứ, hằng ngày
              Được đồng-phạm-hạnh các ngài
       Giảng dạy, khuyến giáo vị đây ân cần :
 
       “ Ông không nên nhai, ăn cái đó !
          Không nên có cách nếm, uống này !
              Nên nhai, ăn, nếm như vầy !
       Nên uống như vậy ! Phải đầy oai nghi.
          Ông nên ăn những gì cho phép,
          Không cho phép thì chẳng nên ăn ! 
              Nhai, nếm hay uống cũng hằng
       Theo sự cho phép & cấm ngăn giới này.
          Phải đúng thời nếm, nhai, ăn, uống,
          Không nếm, nhai, ăn, uống phi thời ”.
 
             Vị ấy suy nghĩ tức thời :     
      ‘Trước kia khi sống cuộc đời tại gia
          Cái gì muốn thì ta thực hiện,
Trung Bộ  (Tập 2)    Kinh 67 :  CÀTUMÀ             *   MLH –  434
 
          Nếu không muốn, ta miễn làm ngay,
              Sự ăn, uống, nếm, nhai này
       Đúng thời, ta uống, ăn, nhai đã đành
Phi thời cũng thực hành điều đó.
 
          Như nay có gia-chủ tín thành
              Cúng dường món ăn ngon lành,
       Hình như bị chận tại vành miệng ta ! ”. 
          Bất mãn do chỉ là vật thực
     Y lập tức hoàn tục, về nhà.  
              Các Tỷ Kheo ! Như vậy là 
   Vị ấy từ bỏ, lánh xa tu hành.
          Gọi đích danh là người sợ hãi
      Sự sợ hãi cá sấu tấn công.
              Các Tỷ Kheo ! Phải hiểu thông :
       Tham ăn – sợ cá sấu : đồng nghĩa nhau.
 
      *  Còn thế nào sợ hãi nước xoáy ?
          Thiện nam ấy chán đời tại gia
              Từ bỏ gia đình, xuất gia
       Do nghĩ : ‘Khổ áp bức ta mọi thời,
          Khổ chi phối cuộc đời ta mãi,
          Ta mong phải dứt khổ uẩn này’.
              Sống đời xuất gia, hằng ngày
       Với đồng-phạm-hạnh các ngài tại đây.
          Khi vị này đắp y mang bát
          Vào thị trấn hoặc các thôn làng
              Khất thực ; nhưng y hoàn toàn
       Thân không phòng hộ, mọi đàng dễ duôi,
          Không phòng hộ, dễ duôi lời nói,
          Không có mọi niệm-an-trú cần,
      Lại không chế ngự các căn.
Trung Bộ  (Tập 2)    Kinh 67 :  CÀTUMÀ             *   MLH –  435
 
       Vị này thấy các chủ-nhân các nhà
          Đời sống họ thật là đầy đủ
          Được hưởng thụ năm dục tăng gia,
              Thấy hoan hỷ ; nên nghĩ là : 
      ‘Khi chưa nhập chúng thì ta cũng vầy
          Cũng hưởng thụ đủ đầy năm dục
Trong mọi lúc, hoan hỷ trải qua.
              Ta có tài sản trong nhà
       Có thể hưởng thụ với gia tài mình,
   Vừa có thể tự mình làm phước’.
 Rồi lui bước, hoàn tục, về nhà.
              Các Tỷ Kheo ! Như vậy là 
       Vị ấy từ bỏ, lánh xa tu hành.
          Gọi đích danh là người sợ hãi
  Sự sợ hãi nước xoáy mênh mông.
              Các Tỷ Kheo ! Phải hiểu thông :
       Năm dục tăng trưởng cũng đồng nghĩa đây
 Với nước xoáy người này sợ hãi.
      *  Còn sợ hãi cá dữ là sao ?
              Có một Thiện-nam-tử nào
       Vì lòng tin quá dồi dào, xuất gia
  Bỏ gia đình, tránh xa thế tục.
          Trong tỉnh thức, vị ấy nghĩ suy :
            “ Ta bị già, chết, sầu, bi,
       Sanh, khổ, ưu, não… mọi thì chẳng buông,
  Khổ áp bức, khổ luôn chi phối.
          Tuy vậy, ta mong đợi như vầy :        
              Dứt toàn bộ khổ uẩn này ”.
       Xuất gia nhập chúng, ngày ngày vui thay !
          Khi vị này đắp y mang bát
          Vào thị trấn hoặc các thôn làng
Trung Bộ  (Tập 2)    Kinh 67 :  CÀTUMÀ             *   MLH –  436
 
              Khất thực ; nhưng y hoàn toàn
       Thân không phòng hộ, mọi đàng dễ duôi,
          Không phòng hộ, dễ duôi lời nói,
          Không có mọi niệm-an-trú cần,
      Lại không chế ngự các căn.
 
       Vị này nhìn thấy nữ nhân các nàng
          Y phục họ hở hang phất phới
          Không đoan chánh, khiêu gợi dục tâm
              Khiến vị này khởi tà dâm
       Dục tình liền phá hoại tâm vị này.
          Do dục vọng xéo dày như vậy
     Nên vị ấy hoàn tục, về nhà.
              Các Tỷ Kheo ! Như vậy là 
   Vị ấy từ bỏ, lánh xa tu hành.
          Gọi đích danh là người sợ hãi
          Sự sợ hãi cá dữ tấn công.
              Các Tỷ Kheo ! Phải hiểu thông :
       Phụ nữ – sợ cá dữ : đồng nghĩa nhau.
 
          Bốn điều này trước sau Ta giảng 
          Cũng đều đáng sợ hãi, kinh hồn,
             Chờ người xuất gia, Sa-môn,
       Gia đình từ bỏ, bảo tồn đường tu
          Trong Pháp & Luật ; công phu chưa đạt  
        ( Luôn cảnh giác về bốn điều này ) ”.    
 
              Thế Tôn thuyết giảng như vầy,
       Chư Tăng tín thọ, lời Ngài khâm tuân ./-
 
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật  (3L )
*   *   *
 
(  Chấm dứt  Kinh số 67 :  CÀTUMÀ  –  CÀTUMÀ  Sutta  ) 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/01/2018(Xem: 3823)
Lễ Trao Giải Viết Về đạo Phật Ananda Viet Awards Lần Đầu, 3 Giải Chính, 5 Giải Khuyến Khích Tổng Trị Giá Các Giải Là 7000 MK
13/01/2018(Xem: 4077)
Đọc Thơ Tuyển của Cư sỹ Đào Văn Bình, Tình cờ chúng tôi có được tập sách Tổ Ấm Cuối Cùng, Thơ tuyển và Kịch bản, của cư sỹ Đào Văn Bình xuất bản năm 1987, gởi tặng cố Hòa thượng Thích Thiện Trì, chùa Kim Quang tại thủ phủ Sacramento, CA. Tập sách có hai phần: Phần 1 là Thơ tuyển mà tác giả cho biết là "Sáng tác ròng rã qua 9 năm lưu đày tù ngục và 1 năm phiêu linh qua các trại tỵ nạn". Phần 2 là Kịch bản Tổ Ấm Cuối Cùng (Sáng tác từ tại tỵ nạn Sungei Besi). Ở đây tôi chỉ viết cảm hứng của mình khi đọc vài bài thơ trong lúc bị tù đày của một cư sỹ lão thành luôn có tâm với đạo pháp và dân tộc.
12/01/2018(Xem: 4687)
Nhớ lại 3 năm trước, tôi đến Seattle vào một chiều Thu cuối tháng Mười. Vừa rời khỏi sân bay, cảm nhận đầu tiên của tôi đối với đô thị xa hoa có nhịp sống bận rộn này là cái se se lạnh của tiết trời đang độ giữa Thu. Trong tôi lúc đó vẫn còn nỗi bồn chồn lo lắng, tâm trạng của một người vừa xa quê, bước chân vào một đất nước xa lạ. Sự mát lạnh của khí trời như xoa dịu phần nào nỗi lo lắng trong tôi. Có lẽ đó là lý do vì sao tôi vẫn nhớ như in cảm xúc đầu tiên ấy, và dần dần, tôi nhận ra mình có cảm tình với mùa Thu ở Washington.
15/12/2017(Xem: 6408)
Hương Lúa Chùa Quê" Bản Tình Ca Quê Hương của nhị vị Hòa Thượng Thích Bảo Lạc và Thích Như Điển. Sau khi đọc tác phẩm “Hương Lúa Chùa Quê” chúng con không dám mong ước giới thiệu sự nghiệp văn học, văn hóa cả đạo lẫn đời của nhị vị Hòa Thượng. Vì công trình tạo dựng sự nghiệp của các bậc xuất sĩ không nằm trong “nguồn văn chương sáng tác”. Vì xuyên qua mấy chục năm hành đạo và giúp đời, nhị vị đã xây dựng nhiều cơ sở Phật giáo đồ sộ trên nhiều quốc độ khác nhau như: chùa Pháp Bảo tại nước Úc; chùa Viên Giác và Tu viện Viên Đức tại nước Đức. Nhị vị cũng đã mang ánh Đạo vàng đến khắp muôn nơi, soi sáng cho bước chân “người cùng tử” được trở về dưới mái nhà xưa, để thấy lại “bóng hình chân nguyên”; dẫn đường cho những người chưa thể “tự mình thắp đuốc lên mà đi” được tìm lại “bản lai diện mục”. Đó mới gọi là “sự nghiệp” của bậc xuât sĩ. Điều nầy đã có lịch sử ghi nhận từ mạch nguồn công đức biểu hiện và lưu truyền.
15/12/2017(Xem: 87996)
Trải hơn 25 thế kỷ, Chánh Pháp của Phật vẫn được tuyên dương và lưu truyền bởi hàng đệ tử xuất gia lẫn tại gia, đem lại giải thoát và giác ngộ cho những ai học hỏi và thực hành đúng đắn. Chánh Pháp ấy là thuốc hay, nhưng bệnh mà không uống thì chẳng phải là lỗi của thuốc. Trong kinh Di Giáo, đức Phật cũng ân cần huấn thị lần chót bằng những lời cảm động như sau: “Thể hiện lòng đại bi, Như Lai đã nói Chánh Pháp ích lợi một cách cứu cánh. Các thầy chỉ còn nỗ lực mà thực hành… Hãy tự cố gắng một cách thường trực, tinh tiến mà tu tập, đừng để đời mình trôi qua một cách vô ích, và sau này sẽ phải lo sợ hối hận.” Báo Chánh Pháp có mặt để góp phần giới thiệu đạo Phật đến với mọi người. Ước mong giáo pháp của Phật sẽ được lưu chuyển qua những trang báo nhỏ này, mỗi người sẽ tùy theo căn tánh và nhân duyên mà tiếp nhận hương vị.
15/12/2017(Xem: 138362)
Văn Hóa Phật Giáo, số 242, ngày 01-02-2016 (Xuân Bính Thân) Văn Hóa Phật Giáo, số 244, ngày 01-03-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 245, ngày 15-03-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 246, ngày 01-04-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 247, ngày 15-04-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 248, ngày 01-05-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 249, ngày 15-05-2016 (Phật Đản PL 2560) Văn Hóa Phật Giáo, số 250, ngày 01-06-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 251, ngày 15-06-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 252, ngày 01-07-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 253, ngày 15-07-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 254, ngày 01-08-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 255, ngày 15-08-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 256, ngày 01-09-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 257, ngày 15-09-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 258, ngày 01-10-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 259, ngày 15-10-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 260, ngày 01-11-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 261, ngày 15-11-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 262, ngày 01-12-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 263, ngày 15-12-2016
08/12/2017(Xem: 4043)
Đọc “Trúc Lâm Thiền Phái tại Huế” của Thích Tín Nghĩa, Nhân dịp Nguyên Giác và tôi ra mắt sách ở Chùa Bát Nhã, Nam California, Hòa Thượng Thích Tín Nghĩa- Viện Chủ Từ Đàm Hải Ngoại Irving, Texas không về dự được nhưng đã có thư cáo lỗi. Từ việc làm hết sức cẩn trọng và khéo léo đó, tôi sinh lòng cảm mến và làm quen với hòa thượng qua điện thư và được hòa thượng ưu ái tặng cho bốn cuốn sách của chính hòa thượng, bao gồm:
07/11/2017(Xem: 3878)
Nhà thấp nhất trong xóm. Mái tole. Cửa gỗ. Sàn gác gỗ sao. Nó khiêm tốn lọt thỏm giữa những ngôi nhà cao tầng khang trang, kiên cố với beton cốt thép, cửa sắt, cửa kính chịu lực... Diện tích gian dưới của căn nhà cấp 4 này chỉ 24 mét vuông, chia thành hai gian, bếp và nhà vệ sinh chiếm hết gần một nửa, còn lại chừa cho gian phòng khách chật chội với bàn ghế, divan, tủ sách, chỗ để hai chiếc xe máy... Vậy mà vào lúc sáng sớm, khi cơn bão Damrey dữ tợn bắt đầu đổ bộ vào đất liền, hung hăng sấn vào lòng thành phố biển Nha Trang, căn nhà khiêm tốn trong hẻm nhỏ này là nhà duy nhất mở cửa để đón nhận 15 người khách lỡ đường chui vào nương trú để tránh bão. Duy nhất. Vì mọi nhà xung quanh đều đã cửa đóng then cài kín bít từ đầu tối hôm trước.
05/11/2017(Xem: 24913)
Cách Đọc Tên và Phát Âm 23 Chữ Cái, Hiện nay tại Việt Nam cách gọi tên và cách phát âm 23 mẫu tự tiếng Việt vô cùng lộn xộn. Thí dụ: Trên chương trình Thời Sự Quốc Phòng, thiết vận xa M.113 có cô đọc: em mờ 113. Có cô đọc mờ 113. -Chữ N có nơi đọc: en nờ (âm nờ hơi nhẹ). Có nơi đọc nờ.
12/10/2017(Xem: 11769)
Viết về anh Bùi Giáng là một việc làm cần lòng can đảm. Thậm chí cần rất nhiều can đảm, có khi phải nói nôm na là liều mạng mới dám viết. Những người có thời gần gũi và thương mến anh ai cũng có lần cảm nhận điều đó. Anh thích người ta đọc sách anh, thưởng thức thơ văn anh, nghiền ngẫm tư tưởng của anh. Nhưng ngược lại anh hay nổi nóng nếu ai hiểu sai ý anh. Anh rất giận khi có ai viết sai một chữ, kể cả sai một dấu phẩy, những câu thơ của anh. Có rất nhiều khi anh cho đó là một sự xuyên tạc có hậu ý. Dù sao, anh và tôi đã từng sống chung gần ba năm trời ở Vạn Hạnh chả lẽ không có gì để nói, lâu nay tuy rất muốn viết nhưng tôi vẫn cố tránh, cho đến khi có người nhắc.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]