Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

87. Kinh Ái Sanh

19/05/202010:53(Xem: 9936)
87. Kinh Ái Sanh

TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO

TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRUNG BỘ KINH

( Majhima  Nikàya )


Tập III
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli

Chuyển thể Thơ :

Giới Lạc  MAI LẠC HỒNG  tự TUỆ NGHIÊM

 ( Huynh Trưởng Cấp Tấn  - GĐPTVN tại Hoa Kỳ )

Email : [email protected]


87. Kinh ÁI SANH

( Piyajàtika sutta )

 

Như vậy, tôi nghe :

 

          Một thời, Đức Thế Tôn Thiện Thệ

          Trú Xá Vệ, Chê-Tá-Va-Na

            ( Tinh Xá Kỳ Viên cũng là )

       A-Na-Thá-Pin-Đi-Ka cúng dường

         ( Người gọi thường là Cấp-Cô-Độc ).

 

          Lúc bấy giờ, con một gia đình

              Cậu bé khả ái, thông minh

       Bỗng bị bệnh chết. Do tình mến thương

          Người cha dường như không chịu nổi

          Suốt sáng tối chẳng ăn uống chi

              Không còn muốn làm việc gì

       Cứ ra nghĩa địa, ai bi khóc sầu :

 

    – “ Con ở đâu ? Hỡi con yêu dấu

          Đứa con một, lương hảo của ta ! ”.

 

              Thế rồi ông ấy ghé qua

       Chùa Kỳ Viên, gặp Phật Đà tại đây

          Đảnh lễ Ngài xong ngồi xuống kế

          Bên Thiện Thệ, nét mặt bần thần.

              Phật liền hỏi : “ Này thiện nhân !

       Tự tâm ông trú các căn hằng ngày

          Có phải các căn nay đổi khác ? ”.

 

    – “ Bạch Thế Tôn ! Đổi khác đúng thôi !

              Làm sao không đổi khác rồi !

       Khi đứa con một qua đời đáng thương

          Một đứa con dễ thương hết sức

Trung Bộ (Tập 3) Kinh 87 : ÁI SANH  (Piyajàtika)  * MLH –  224

 

          Con yêu quý, rất mực cưng chiều

              Nhưng bỗng một sớm một chiều

       Chết đi, để lại muôn điều xót xa.

          Con cứ ra nghĩa địa than khóc :

         ‘Con ở đâu ? Con độc nhất ơi ! ”.

 

        – “ Sự thật là như vậy rồi !   

       Vì rằng Gia chủ hiện thời sầu, bi,

          Khổ, ưu, não  do vì chữ Ái,

          Từ nơi Ái hiện hữu, Ái sinh ”.

 

        – “ Bạch Phật !Với ai, sự tình      

       Sẽ như vậy : ‘Do Ái sinh khổ, sầu,

          Bi, ưu, não – Ái nào hiện hữu ?’

          Vì hỷ lạc hiện hữu từ nơi   

              Ái kia. Do Ái sinh thôi ”.

 

       Rồi người gia-chủ đang ngồi nơi đây

          Đứng dậy ngay, không hoan hỷ mấy,

          Cũng không chống báng lại, đi ra .

 

              Lúc ấy, cách đó không xa

       Một nhóm đánh bạc đang la, reo hò

          Họ chơi trò chơi đổ nhất lục.

          Người gia-chủ buồn bực ghé đây

              Nói với những người nơi này

       Về câu chuyện với Phật Ngài vừa qua

          Ý Phật Đà với mình trái nghịch,

          Ngài giải thích : ‘Do Ái sinh ra,

              Hiện hữu từ nơiÁi – là

       Sầu, bi, não hại, ưu và khổ thôi.

          Nhưng theo tôi, hỷ-lạc được tả

        ( A-Nan-Đa-Sô-Má-Nát-Sa )   (Anandasomanassa)

              Mới là do Ái sinh ra,    

Trung Bộ (Tập 3) Kinh 87 : ÁI SANH  (Piyajàtika)  * MLH –  225

 

       Hiện hữu từ nơi Ái, là đúng thôi’.

          Nên tôi từ chỗ ngồi đứng dậy

          Không hoan hỷ lời dạy của Ngài,

              Cũng không chống báng lại Ngài,

       Ra về, rồi ghé vào đây như vầy.   

 

          Gia chủ này ! Sự thật là vậy !

          Hỷ lạc ấy do Ái sinh vầy,

              Hiện hữu từ nơi Ái đây ”.

 

       Người gia-chủ ấy nghĩ ngay  ý là :

         ‘Giữa ta và những người đánh bạc,

          Sự đồng thuận tương tác xảy ra’.

              Nghĩ rồi, ông bỏ đi ra.

 

       Cuộc đối thoại ấy dần dà lan nhanh 

          Khắp kinh thành lan truyền như thế

          Tận nội cung Pa-Sế-Na-Đi

              Vua Kô-Sa-La – tức thì

       Truyền gọi Hoàng-hậu Man-Li-Ka liền,

          Rồi bảo bà : “ Đây nguyên lời nói

          Vị Sa-Môn tên gọi Thích Ca :

             ‘Sầu, bi, ưu, não – cùng là

       Khổ đau do Ái sinh ra trên đời,

          Và hiện hữu từ nơi Ái đó ”.

 

    – “ Tâu Đại Vương ! Nếu có lời này  

              Do đức Thế Tôn giảng bày

       Thì sự việc là như vầy, chẳng sai ”.

 

    – “ Man-Li-Ka ! Dở hay chẳng kể

          Điều gì hễ vị Gô-Ta-Ma

              Nói ra, thì Man-Li-Ka              ( Mallika )

       Cũng nói theo hệt như là Đạo Sư.

Trung Bộ (Tập 3) Kinh 87 : ÁI SANH  (Piyajàtika)  * MLH –  226

 

          Vì nàng vốn khư khư tin tưởng,

          Quá hoan hỷ, kính ngưỡng Đạo Sư.

              Đệ tử khi nghe Đạo Sư 

       Liền thưa : ‘Sự thật là như vậy rồi !’

          Man-Li-Ka nay thời cũng thế

          Nên nói : ‘Đấng Thiện Thệ nói vầy

              Thời sự việc là như vầy’.

       Thôi Hoàng-hậu hãy đi ngay ra ngoài ”.

-------------------

          Hoàng-hậu liền cho đòi một vị  

          Tên Na-Lí-Chăn-Gá  Bàn-môn

 

              Bảo rằng : “ Này Bà-la-môn ! 

       Ông hãy đến chỗ Thế Tôn Phật Đà   

          Khi đến, nhân danh ta đảnh lễ

          Dưới chân đấng Thiện Thệ, thưa là :

            ‘Vị Hoàng-hậu Man-Li-Ka

       Sai con đến gặp để mà vấn an

          Thế Tôn có khinh an, ít não ?

          Ít bệnh và an hảo hay không ?

              Khí lực sung mãn, tiêu thông ?

       Có lạc trú ?  Rồi hỏi trong ý rằng :

         ‘Có phải chăng Thế Tôn đã nói :

          Tất cả mọi ưu, não, bi, sầu,

              Và khổ … do Ái sinh mau ?

       Hiện hữu từ nơi Ái lâu chẳng cùng’.

          Nếu Thế Tôn bao dung giải thích

          Và phân tích ý nghĩa tròn đầy,

              Ông khéo nắm giữ ý Ngài

       Trở về nói lại ta hay tức thì ”.

 

    – “ Vâng, thần sẽ thực thi ý chỉ ”.

 

          Sau đó vị Na-Lí-Chăn-Ga           ( Nalijangha )

Trung Bộ (Tập 3) Kinh 87 : ÁI SANH  (Piyajàtika)  * MLH –  227

 

              Vâng lệnh bà Man-Li-Ka

       Nhắm trú xứ của Phật Đà đến nơi.

          Sau khi đến, nói lời chào hỏi,

          Lời thăm viếng thuộc loại xã giao

              Đoạn ông một bên ngồi vào

       Hướng Phật, Phạm Chí trước sau chuyển lời

          Của Hoàng-hậu từ nơi cung khuyết

          Mọi chi tiết nhờ hỏi Phật Đà

              Vị Bàn-môn đều nêu ra.

 

       Đức Phật liền bảo : “ Này Bà-la-môn !

          Đây là một pháp môn tiêu biểu,

          Cần phải hiểu : ‘Ưu, não mọi thời,

              Sầu, bi, đau khổ trên đời

       Do Ái sinh cả, Ái thời có ra.

 

          Này Bàn-môn ! Thuở xa xưa đó 

          Sa-Vát-Thi hằng có xảy ra

              Người anh, người chồng, người cha,

       Người em, người chị hoặc là người con,

          Là con trai hay con gái ruột

          Của một bà, mệnh một ( chết đi )

              Nhất là người chồng tương tri

       Bỗng dưng bị chết, ai bi tận cùng

          Người đàn bà điên cuồng phát tán   

          Tâm tư thật hỗn loạn, thê lương

              Lang thang khắp các nẽo đường

       Gặp ai cũng hỏi chỉ thường một câu :

         ‘Chồng của tôi ở đâu, có thấy ?

          Người có thấy chồng tôi đâu không ?’.

 

              Hay người con hiếu đau lòng  

       Khi người mẹ chẳng còn trong cõi đời

Trung Bộ (Tập 3) Kinh 87 : ÁI SANH  (Piyajàtika)  * MLH –  228

 

          Phát điên cuồng nên người hiếu tử

          Chạy đi khắp, bất cứ nơi nào

              Gặp ai cũng hỏi một câu :

      ‘Người ơi ! Có thấy nơi nào mẹ tôi ?

          Người có thấy mẹ tôi không hả ?’.

 

          Nói chung lại, tất cả người thương 

              Chẳng ai thoát khỏi vô thường,

       Đối diện cái chết, đau thương khổ sầu.

 

          Này Bàn-môn ! Thuở lâu xưa đó  

          Xá Vệ có trường hợp đau lòng :

              Một người đàn bà có chồng

       Về thăm gia quyến. Số đông họ hàng

          Vốn không ưa gì chàng rễ đó

          Nên bọn họ buộc người đàn bà

              Phải đoạn tuyệt chồng cô ta,

       Để gã cho một người xa lạ nào.

          Người vợ ấy kêu gào không chịu,

          Nhắn người chồng hãy liệu cứu mình.

              Chàng ta hết lời biện minh

       Không thuyết phục được gia đình vợ đây,

          Quá tuyệt vọng, người này giết chết

          Vợ mình, rồi tự kết liễu mình    

              Với lời nguyện ước ba sinh

       Kiếp sau gặp lại, đượm tình sắt son.

 

          Này Phạm Chí ! Pháp môn phải hiểu : 

          Do từ Ái hiện hữu, sinh ra

              Sầu, bi, khổ, não, xót xa ”.

 

       Phạm-chí Na-Lí-Chăn-Ga bấy giờ

          Nghe Thế Tôn khế cơ giảng kỹ

          Rất hoan hỷ tín thọ lời Ngài,

Trung Bộ (Tập 3) Kinh 87 : ÁI SANH  (Piyajàtika)  * MLH –  229

 

              Rồi ông đứng dậy đi ngay

       Về trình bày lại việc đây rõ ràng.

          Hoàng-hậu Man-Li-Ka nghe thế

          Gặp Quốc Vương  Pa-Sế-Na-Đi

              Thưa rằng : “ Ngài có yêu vì

       Đến công chúa Va-Chi-Rì hay chăng ?

          Con chúng ta muôn phần nhu thuận ”.

 

    – “ Man-Li-Ka ! Bất luận là chi

              Ta rất thương Va-Chi-Ri ”.              ( Vajiri )

 

 – “ Đại Vương ! Nếu có điều gì xảy ra

          Khi con ta chịu điều biến dịch

          Như mất tích hay bệnh trầm kha,

              Sự chết cũng có thể là,

       Tâm trạng ngài sẽ trải qua thế nào ? 

          Có ưu, sầu, bi thương, khổ, não ? ”.

 

    – “ Man-Li-Ka ! Nếu bảo rằng là

              Những sự như nàng kể qua

       Đến với công chúa con ta như vầy

          Thì trẫm đây khởi lên sầu, khổ,

          Bi, ưu, não đốn đổ trẫm ngay ”.

 

        – “ Chính liên hệ sự tình này 

       Mà Thế Tôn – bậc sâu dày Kiến, Tri,

          Chánh Biến Tri, Đại A-La-Hán

          Đã thuyết giảng về Ái sinh ra .

 

              Còn với nàng Va-Sa-Pha        ( Vàsabha  (1)

       Nữ Sát-Đế-Lỵ thướt tha yêu kiều

          Đại Vương có thương yêu nàng ấy ?

          Ngài cảm thấy tâm trạng ra sao

              Nếu có biến dịch về sau

Trung Bộ (Tập 3) Kinh 87 : ÁI SANH  (Piyajàtika)  * MLH –  230

 

       Với Va-Sa-Phá – Ngài sầu, khổ không ?

          Hoặc là trong trường hợp tương tự

          Về Tướng-quân Vi-Đú-Đa-Pha  (1)

            ( Hay Tỳ-Lưu-Ly cũng là )

       Nếu có mệnh hệ xảy ra đau lòng

          Với vương tử, thì trong việc ấy

          Ngài cảm thấy như thế nào đây ? ”.

        – “ Man-Li-Ka ! Với việc này

       Ta thương, yêu quý cả hai người này

          Vương tử đây Vi-Đu-Đá-Phá

          Và nàng Va-Sa-Phá thứ phi

              Nếu họ bất hạnh đến thì,

       Ta rất ưu, não, sầu, bi, khổ nhiều ”.

      _____________________________

 

( ) : Vương tử Vidudabha  – Tỳ-Lưu-Ly là con của vua Ba-Tư-Nặc

      ( Pasenadi ) và một nữ tỳ của dòng họ Thích Ca ( Sakya ).

    Nguyên từ khi kính ngưỡng, quy y với Đức Phật, vua Pasenadi 

   muốn kết thân với dòng họ Thích Ca của Phật, nên cầu hôn với

    một công chúa dòng họ này .  Nhưng dòng Sakya rất ngã mạn,

    không muốn gã người của dòng họ Thích Ca nên mới đem một

    công chúa xinh đẹp con vua Mahànàma  với một nữ tỳ gã cho

    vua Ba-Tư-Nặc ( đó là nàng Vàsabha Khattiya ) . Sau khi lớn

   khôn, Thái tử đòi về thăm họ ngoại, và đã bịmột sự sỉ nhục vì là

   con một nữ tỳ, nên liền kết oan trái oán thù và nuôi hận trong

   lòng, quyết sẽ tận diệt dòng họ Thích Ca.Sau  này ông nổi loạn

   chống lại vua cha, và chính vì điều này Vua Pasenadi đã trải qua

   một cái chết bi thảm. Về sau, khi đoạt được vương quyền lên làm

   vua, ông đã xua quân tàn sát Ca-Tỳ-La-Vệ. Đức Phật đã ba lần  

  ngăn cản và Vidudabha vì kính trọng Phật nên lui binh. Nhưng

  đến lần thứ tư thì Ngài quán thấy dòng họ Thích Ca phải trả một

  tiền nghiệp lớn nên Ngài không ngăn cản nữa. Dòng họ Sakya bị

  tru diệt hầu như gần hết, chỉ một số trốn thoát và thiên di đến tại

  Xứ Gandhara. Sau trận tàn sát, Vidudabha trên đường về, hạ trại

  nghỉ đêm bên bờ sông và một trận cuồng phong nước lũ đã cuốn

  phăng cả đoàn quân kể cả ông nhấn chìm vào biển cả.     

Trung Bộ (Tập 3) Kinh 87 : ÁI SANH  (Piyajàtika)  * MLH –  231

 

 

    – “ Chính liên hệ với điều như thế

          Đấng Thiện Thệ. Kiến giả, Toàn tri,

              A-La-Hán, Chánh Biến Tri

       Đã thuyết giảng về những gì Ái sanh.

 

          Tâu Đại Vương ! Hãy thành thật nói

          Về câu hỏi : ‘Ngài thương thiếp không ?

              Nếu có biến dịch đau lòng

       Ngài có sầu, khổ hay không, thưa ngài ? ”.

 

    – “ Chính trẫm đây yêu thương rất mực

          Vị Hoàng-hậu hiền đức như nàng.

              Nếu có mệnh hệ trái ngang

       Ta khổ, sầu, não, vô vàn ưu, bi ”.

 

    – “ Tâu Đại Vương ! Chính vì như thế

          Đấng Thiện Thệ, Chánh Giác, Phật Đà

              Quan điểm như vậy thuyết ra.

 

       Đại Vương ! Dân chúng Kô-Sa-La này 

          Hay Ka-Si dân đây sinh sống

          Nếu có sự biến động ( can qua

              Dẫn đến chết chóc hằng sa )

       Ngài có khổ, não, sầu và ưu, bi ? ”.

 

    – “ Man-Li-Ka ! Ka-Si dân chúng

          Cùng dân chúng Kô-Sa-La này

              Nhờ sức mạnh của họ đây

       Ta mới có được hằng ngày tiện nghi,

          Gỗ chiên đàn Ka-Si cung cấp

          Các hương liệu, phấn sáp, tràng hoa…

              Cũng do từ họ mà ra,

       Có sự biến dịch, thật là khổ đau

          Từ thẳm sâu có sự thay đổi

Trung Bộ (Tập 3) Kinh 87 : ÁI SANH  (Piyajàtika)  * MLH –  232

 

          Xảy đến với mạng sống của ta

              Làm sao với việc xảy ra

       Lại không khởi tự tâm ta ưu, sầu,

          Bi, khổ, não  càng sâu hơn thế ”.

 

    – “ Đại Vương ! Chính liên hệ việc ni

              Nên đấng Chánh Giác, Toàn tri,

       Tri giả, Kiến giả – là vì Thế Tôn,

          Đại Sa-Môn, Đại A-La-Hán

          Đã thuyết giảng, khẳng định mọi thì :

             ‘Các khổ, sầu, não, ưu, bi

       Đều sinh từ Ái, chúng thì có ngay ”.

 

     – “ Vi diệu thay ! Này Man-Li-Ká !

          Hy hữu thay ! Giác Giả Phật Đà !

              Thể nhập trí tuệ sâu xa

       Nên Ngài đã biết, thấy ra như vầy.

          Man-Li-Ka ! Đến đây cùng trẫm

          Sửa soạn sắm nghi thức tẩy trần ”.

 

              Vua Ba-Tư-Nặc khởi thân

       Vai trái liền đắp vào phần thượng y,

          Chắp tay, hướng đến vì Điều Ngự

          Xá về Phật rồi tự nói ra

              Ba lần lời cảm hứng là :

    “ Thành kính đảnh lễ Phật Đà Thế Tôn  

          Đại Sa-Môn, Đại A-La-Hán,

          Chánh Đẳng Giác viên mãn Toàn Tri,

              Kính lễ đức Chánh Biến Tri

       Bậc Vô Thượng Sĩ trí bi vô lường ”./-     

        Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật  ( 3 L )

(  Chấm dứt  Kinh  số 87  :  Kinh  ÁI SANH   –

PIYAJÀTIKA  Sutta  )




***
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/01/2018(Xem: 3823)
Lễ Trao Giải Viết Về đạo Phật Ananda Viet Awards Lần Đầu, 3 Giải Chính, 5 Giải Khuyến Khích Tổng Trị Giá Các Giải Là 7000 MK
13/01/2018(Xem: 4077)
Đọc Thơ Tuyển của Cư sỹ Đào Văn Bình, Tình cờ chúng tôi có được tập sách Tổ Ấm Cuối Cùng, Thơ tuyển và Kịch bản, của cư sỹ Đào Văn Bình xuất bản năm 1987, gởi tặng cố Hòa thượng Thích Thiện Trì, chùa Kim Quang tại thủ phủ Sacramento, CA. Tập sách có hai phần: Phần 1 là Thơ tuyển mà tác giả cho biết là "Sáng tác ròng rã qua 9 năm lưu đày tù ngục và 1 năm phiêu linh qua các trại tỵ nạn". Phần 2 là Kịch bản Tổ Ấm Cuối Cùng (Sáng tác từ tại tỵ nạn Sungei Besi). Ở đây tôi chỉ viết cảm hứng của mình khi đọc vài bài thơ trong lúc bị tù đày của một cư sỹ lão thành luôn có tâm với đạo pháp và dân tộc.
12/01/2018(Xem: 4687)
Nhớ lại 3 năm trước, tôi đến Seattle vào một chiều Thu cuối tháng Mười. Vừa rời khỏi sân bay, cảm nhận đầu tiên của tôi đối với đô thị xa hoa có nhịp sống bận rộn này là cái se se lạnh của tiết trời đang độ giữa Thu. Trong tôi lúc đó vẫn còn nỗi bồn chồn lo lắng, tâm trạng của một người vừa xa quê, bước chân vào một đất nước xa lạ. Sự mát lạnh của khí trời như xoa dịu phần nào nỗi lo lắng trong tôi. Có lẽ đó là lý do vì sao tôi vẫn nhớ như in cảm xúc đầu tiên ấy, và dần dần, tôi nhận ra mình có cảm tình với mùa Thu ở Washington.
15/12/2017(Xem: 6408)
Hương Lúa Chùa Quê" Bản Tình Ca Quê Hương của nhị vị Hòa Thượng Thích Bảo Lạc và Thích Như Điển. Sau khi đọc tác phẩm “Hương Lúa Chùa Quê” chúng con không dám mong ước giới thiệu sự nghiệp văn học, văn hóa cả đạo lẫn đời của nhị vị Hòa Thượng. Vì công trình tạo dựng sự nghiệp của các bậc xuất sĩ không nằm trong “nguồn văn chương sáng tác”. Vì xuyên qua mấy chục năm hành đạo và giúp đời, nhị vị đã xây dựng nhiều cơ sở Phật giáo đồ sộ trên nhiều quốc độ khác nhau như: chùa Pháp Bảo tại nước Úc; chùa Viên Giác và Tu viện Viên Đức tại nước Đức. Nhị vị cũng đã mang ánh Đạo vàng đến khắp muôn nơi, soi sáng cho bước chân “người cùng tử” được trở về dưới mái nhà xưa, để thấy lại “bóng hình chân nguyên”; dẫn đường cho những người chưa thể “tự mình thắp đuốc lên mà đi” được tìm lại “bản lai diện mục”. Đó mới gọi là “sự nghiệp” của bậc xuât sĩ. Điều nầy đã có lịch sử ghi nhận từ mạch nguồn công đức biểu hiện và lưu truyền.
15/12/2017(Xem: 87996)
Trải hơn 25 thế kỷ, Chánh Pháp của Phật vẫn được tuyên dương và lưu truyền bởi hàng đệ tử xuất gia lẫn tại gia, đem lại giải thoát và giác ngộ cho những ai học hỏi và thực hành đúng đắn. Chánh Pháp ấy là thuốc hay, nhưng bệnh mà không uống thì chẳng phải là lỗi của thuốc. Trong kinh Di Giáo, đức Phật cũng ân cần huấn thị lần chót bằng những lời cảm động như sau: “Thể hiện lòng đại bi, Như Lai đã nói Chánh Pháp ích lợi một cách cứu cánh. Các thầy chỉ còn nỗ lực mà thực hành… Hãy tự cố gắng một cách thường trực, tinh tiến mà tu tập, đừng để đời mình trôi qua một cách vô ích, và sau này sẽ phải lo sợ hối hận.” Báo Chánh Pháp có mặt để góp phần giới thiệu đạo Phật đến với mọi người. Ước mong giáo pháp của Phật sẽ được lưu chuyển qua những trang báo nhỏ này, mỗi người sẽ tùy theo căn tánh và nhân duyên mà tiếp nhận hương vị.
15/12/2017(Xem: 138360)
Văn Hóa Phật Giáo, số 242, ngày 01-02-2016 (Xuân Bính Thân) Văn Hóa Phật Giáo, số 244, ngày 01-03-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 245, ngày 15-03-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 246, ngày 01-04-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 247, ngày 15-04-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 248, ngày 01-05-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 249, ngày 15-05-2016 (Phật Đản PL 2560) Văn Hóa Phật Giáo, số 250, ngày 01-06-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 251, ngày 15-06-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 252, ngày 01-07-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 253, ngày 15-07-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 254, ngày 01-08-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 255, ngày 15-08-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 256, ngày 01-09-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 257, ngày 15-09-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 258, ngày 01-10-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 259, ngày 15-10-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 260, ngày 01-11-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 261, ngày 15-11-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 262, ngày 01-12-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 263, ngày 15-12-2016
08/12/2017(Xem: 4043)
Đọc “Trúc Lâm Thiền Phái tại Huế” của Thích Tín Nghĩa, Nhân dịp Nguyên Giác và tôi ra mắt sách ở Chùa Bát Nhã, Nam California, Hòa Thượng Thích Tín Nghĩa- Viện Chủ Từ Đàm Hải Ngoại Irving, Texas không về dự được nhưng đã có thư cáo lỗi. Từ việc làm hết sức cẩn trọng và khéo léo đó, tôi sinh lòng cảm mến và làm quen với hòa thượng qua điện thư và được hòa thượng ưu ái tặng cho bốn cuốn sách của chính hòa thượng, bao gồm:
07/11/2017(Xem: 3878)
Nhà thấp nhất trong xóm. Mái tole. Cửa gỗ. Sàn gác gỗ sao. Nó khiêm tốn lọt thỏm giữa những ngôi nhà cao tầng khang trang, kiên cố với beton cốt thép, cửa sắt, cửa kính chịu lực... Diện tích gian dưới của căn nhà cấp 4 này chỉ 24 mét vuông, chia thành hai gian, bếp và nhà vệ sinh chiếm hết gần một nửa, còn lại chừa cho gian phòng khách chật chội với bàn ghế, divan, tủ sách, chỗ để hai chiếc xe máy... Vậy mà vào lúc sáng sớm, khi cơn bão Damrey dữ tợn bắt đầu đổ bộ vào đất liền, hung hăng sấn vào lòng thành phố biển Nha Trang, căn nhà khiêm tốn trong hẻm nhỏ này là nhà duy nhất mở cửa để đón nhận 15 người khách lỡ đường chui vào nương trú để tránh bão. Duy nhất. Vì mọi nhà xung quanh đều đã cửa đóng then cài kín bít từ đầu tối hôm trước.
05/11/2017(Xem: 24913)
Cách Đọc Tên và Phát Âm 23 Chữ Cái, Hiện nay tại Việt Nam cách gọi tên và cách phát âm 23 mẫu tự tiếng Việt vô cùng lộn xộn. Thí dụ: Trên chương trình Thời Sự Quốc Phòng, thiết vận xa M.113 có cô đọc: em mờ 113. Có cô đọc mờ 113. -Chữ N có nơi đọc: en nờ (âm nờ hơi nhẹ). Có nơi đọc nờ.
12/10/2017(Xem: 11769)
Viết về anh Bùi Giáng là một việc làm cần lòng can đảm. Thậm chí cần rất nhiều can đảm, có khi phải nói nôm na là liều mạng mới dám viết. Những người có thời gần gũi và thương mến anh ai cũng có lần cảm nhận điều đó. Anh thích người ta đọc sách anh, thưởng thức thơ văn anh, nghiền ngẫm tư tưởng của anh. Nhưng ngược lại anh hay nổi nóng nếu ai hiểu sai ý anh. Anh rất giận khi có ai viết sai một chữ, kể cả sai một dấu phẩy, những câu thơ của anh. Có rất nhiều khi anh cho đó là một sự xuyên tạc có hậu ý. Dù sao, anh và tôi đã từng sống chung gần ba năm trời ở Vạn Hạnh chả lẽ không có gì để nói, lâu nay tuy rất muốn viết nhưng tôi vẫn cố tránh, cho đến khi có người nhắc.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]