Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

122. Kinh Đại Không

19/05/202011:31(Xem: 9118)
122. Kinh Đại Không

TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO

TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRUNG BỘ KINH

( Majhima  Nikàya )


Tập IV
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli

Chuyển thể Thơ :

Giới Lạc  MAI LẠC HỒNG  tự TUỆ NGHIÊM

 ( Huynh Trưởng Cấp Tấn  - GĐPTVN tại Hoa Kỳ )

Email : [email protected]


122. Kinh ĐẠI KHÔNG

( Mahàsunnata sutta )

 

Như vậy, tôi nghe :

 

          Một thời, đức Thế Tôn Giác Giả              

          Giữa dòng họ Sắc-Dá – Thích-Ca  (1)

              Ca-Tỳ-La-Vệ trú qua

      (Ka-Pi-La-Vát-Thú) là kinh đô  (1)

          Ở tu viện Ni-Rô-Thá đó

         (Tức Ni-Câu-Luật Thọ-Viên môn). (1)

 

              Vào buổi sáng, đức Thế Tôn

       Đắp y mang bát vào trong Thành là

          Ka-Pi-La-Vát-Thú khất thực.

          Sau khi đã khất thực xong rồi 

              Chọn một gốc cây, Ngài ngồi

       Thọ thực trong khoảng ngọ thời, uy nghi.

 

          Trên đường đi trở về trú xứ     

          Đấng Điều Ngự ghé lại nơi nhà

              Của Ka-Lá-Khê-Ma-Ka  (2)

       Cũng thuộc dòng họ Thích-Ca với Ngài.

          Tại nơi này, Thế Tôn nhìn thấy

          Nhiều sàng tọa đặt đấy từ lâu.

              Thế Tôn không hiểu vì sao

       Có nhiều sàng tọa đặt vào nơi đây.

          Ngài nghĩ ngay : ‘Tại sao lại có  

          Nhiều sàng tòa đây đó sắp ra

    _______________________

 

(1) : Kinh đô Kapilavatthu (Ca-Tỳ-La-Vệ) của dòng họ Thích-Ca

      ( Sakya ), có Tu viện Nigrodha (Ni-câu-luật Thọ Viên).

(2) : Một người thuộc họ Thích-Ca tên Kalakhemaka.

 

              Tại nhà của vị Thích-Ca

       Là Ka-Lá-Khê-Ma-La như vầy ?

          Không biết là ở đây quy tụ

          Nhiều Phích-Khú chọn để trú qua ? ”.

 

              Lúc ấy, ngài A-Nan-Đa    

       Cùng nhiều Phích-Khú họp mà làm y

         (Tức là Chi-Va-Ra-Kam-Má)    ( Civarakamma )

          Tại nhà Ga-Ta-Dá Thích-Ca. 

              Thế Tôn vào buổi chiều tà

       Xuất định đứng dậy đi qua đến nhà

         Của ông Ga-Ta-Da Sắc-Dá,            ( Ghataya )

         Ngài ngồi vào chỗ đã soạn riêng 

             Thế Tôn khi đã ngồi yên

       Liền hỏi Tôn-giả nhu hiền A-Nan :

 

     – “ Này A-Nan ! Rất nhiều sàng tọa 

          Tại trú xứ Hiền-giả Thích-Ca

              Tên Ka-Lá-Khê-Ma-Ka

       Không biết Phích-Khú trú là bao nhiêu ? ”.

 

    – “ Bạch Thế Tôn ! Rất nhiều Phích-Khú

          Đã an trú nơi ấy mọi thì

              Nay thời chúng con làm y ”.

 

 – “ Này A-Nan-Đá ! Một Tỳ-Kheo Tăng

          Không chói sáng nếu hằng thích thú

          Trong hội-chúng quy tụ của mình

              Hân hoan trong hội-chúng mình

       Hoan hỷ trong hội-chúng mình vui tươi.

 

          Trong hội-chúng của người, thích thú.

          Hay Phích-Khú hoan hỷ, vui hòa

              Vui trong hội-chúng người ta,

       Mà được chứng đắc tùy qua ý rằng

          Chứng đắc không khó khăn, mệt nhọc,

          Viễn ly, độc cư lạc, tịnh an,

              Chánh giác lạc – thì hoàn toàn

       Sự kiện như vậy không hằng xảy ra.

 

          Nhưng này A-Nan-Đa ! Ngược lại

          Tỷ Kheo ấy thường sống một mình

              Xa lánh tụ hội linh tinh

       Thời có hy vọng tự mình chứng qua

          Tùy ý mà mình ước muốn đó,

          Chứng đắc không gian khó, mệt nhoài,

              Viễn ly lạc, an tịnh đầy,

       Độc cư lạc – Sự kiện này khả thi. 

 

          Này A-Nan ! Nếu Tỳ-Kheo ấy

          Thích thú mãi hội-chúng của mình,

              Hân hoan trong hội chúng mình.

       Thích thú trong hội chúng tinh của người,

          Trong hội chúng của người hoan hỷ,

          Mà tự nghĩ sẽ chứng đắc toàn

              Với tâm giải thoát, trú an

       Được thoải mái và trải sang hạn kỳ

          Hay không có hạn kỳ, bất động

          Sự kiện giống như vậy thật là

              Không thể nào mà xảy ra.

 

       Lại nữa, này A-Nan-Đa ! Sự tình

          Tỷ Kheo nào một mình an lạc

          Xa lánh các tụ hội linh tinh

              Giữ tâm định tĩnh, an bình

       Thời có hy vọng tự mình chứng qua

          Theo ý mà mình đã muốn đó,     

          Chứng đắc không gian khó, mệt nhoài,

              Viễn ly lạc, an tịnh đầy

       Độc cư lạc – Sự kiện này khả thi.

          A-Nan ! Ta không suy quán thấy

          Sắc pháp nào trong ấy có ra

              Hân hoan, hỷ lạc nào mà

       Chịu sự biến dịch, trải qua đổi dời

          Mà đồng thời không khởi sầu, khổ,

          Ưu, bi, não mọi chỗ bất an.

              A-Nan ! Nhưng sự trú an

       Được Ta giác ngộ hoàn toàn viên thông,

          Tức là sau khi không tác ý

          Với tất cả tướng dĩ ngoài trong

              Chứng đắc, an trú nơi ‘không’.

 

       A-Nan-Đa ! Nếu như trong khi mà

          Ta an trú trong an trú đó

          Nếu mà có Tỷ Kheo hay Ni,  (1)

              Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di,  (1)

       Quốc vương, Thái-tử, các vì Đại quan,

          Hay các hàng ngoại đạo… cả thảy

          Đến yết kiến, khi ấy Ta thì

              Với tâm hướng đến viễn ly 

       Thiên về, chú trọng viễn ly hoàn toàn,

          Độc cư, hoan hỷ trong ly dục

          Khiến đoạn tận về mục pháp đang  

    _____________________________

 

(1) : Bốn Chúng đệ tử của Đức Phật : 2 hạng xuất gia là Tỷ Kheo

    hay Tỳ-Khưu ( Bhikkhu ) và Tỷ-Kheo-Ni ( Bhikkhuni ). 2 chúng

    tại gia cư sĩ là  Upasiko ( Ưu-Bà-Tắc - Cận-sự Nam hay Thiện

    Nam ) và Upasikà ( Ưu-Bà-Di - Cận-sự Nữ hay Tín Nữ). Vì tập

    tục Ấn Độ người Tại Gia thường mặc đồ trắng  nên các Cư-sĩ

    được gọi là hàng Bạch Y  hay người áo trắng ).

 

              Dựa trên lậu hoặc trú an

       Nói lên tại chỗ ấy toàn lời ngay

          Lời thuần túy với đầy khích lệ.

          Do như thế, này A-Nan-Đa !

              Nếu Tỷ Kheo  ước vọng là :

      ‘Khi chứng đạt ‘nội không’, ta trú liền’.

          Tỷ Kheo đó phải chuyên chỉ tịnh,

          Chuyên nhất và an định nội tâm.

 

              Thế nào Tỷ Kheo đạt nhằm

       Chuyên nhất, an định nội tâm như vầy ?

          A-Nan-Đa ! Ở đây Phích-Khú

          Sống ly dục, bất thiện pháp ly,

              Chứng đạt, an trú tức thì

       Sơ Thiền – hỷ lạc do ly dục thành,

          Trạng thái này sẵn dành tầm, tứ.

          Diệt tầm, tứ – chứng, trú Nhị Thiền

              Trạng thái hỷ lạc, an nhiên

       Định sanh, diệt hẳn về duyên tứ, tầm,

          Đạt nội tĩnh nhất tâm. Tiếp đó

          Tỷ Kheo nọ lần lượt chứng qua

              Tam Thiền, Tứ Thiền an hòa.

 

       A-Nan ! Vị Tỷ Kheo mà trải qua

          An chỉ và an tọa, chuyên nhất

          Rồi như thật an định tâm trong,

              Vị ấy tác ý ‘nội không’,  

       Trong khi vị ấy ‘nội không’ nghĩ về

          Tâm không hề thích thú, tin tưởng

          Không an trú, không hướng ‘nội không’

              Sự kiện là thế ! Phải thông

       Biết rằng : ‘Tác ý ‘nội không’ như vầy

          Ta không rày thích thú, tin tưởng,

          Không an trú, không hướng ‘nội không’.

              Vị ấy ý thức rõ thông

       Tiếp tục tác ý ‘ngoại không’ trong lòng

          Tác ý nội & ngoại không, bất động.

          Khi tác ý bất động, vị này

              Tâm không thích thú mảy may

       Cũng không an trú nơi đây hoàn toàn,

          Không tịnh tín, không màng hướng đến 

          Về bất động  – Sự kiện là vầy.

 

              Vị Tỷ Kheo, A-Nan này !

       Biết rằng : ‘Sự tác ý ngay điều là

          Bất động thì tâm ta không thích,

          Không tịnh tín, không trú hướng ngay

              Nội không – Sự kiện là vầy. 

       Vị ấy ý thức điều đây rõ ràng.

 

          Này A-Nan ! Vị ấy cần phải    

          An trú, chuyên nhất vậy, cùng là

              An định nội tâm trải qua

       Trên ‘định tưởng’ đã đề ra trước này.

 

          Rồi vị đây ‘nội không’ tác ý. 

          Khi vị ấy tác ý ‘nội không’

              Tịnh tín, an trú, vừa lòng

       Và tâm hướng đến nội không tức thì 

          A-Nan-Đa ! Sự kiện thì như vậy

          Và vị ấy biết rõ điều đây.

              Rồi tác ý ngoại không này

       Tác ý nội & ngoại không đây nhất tề

          Tác ý về bất động, tự nghĩ

          Khi tác ý bất động như vầy

              Tâm thích thú, tịnh tín đầy

       An trú, hướng bất động ngay dễ dàng

          Và rõ ràng ý thức như vậy.

 

          A-Nan ! Nếu vị ấy trú an     

              Trong sự an trú hoàn toàn

       Tâm vị ấy liền hướng sang kinh hành.

          Vị ấy đi kinh hành và nghĩ :    

         ‘Khi ta đang tịnh chỉ kinh hành  

              Các bất thiện pháp chẳng lành

       Tham, ưu… không có phát sanh, chẳng vào’.

 

          A-Nan ! Tỷ Kheo nào an trú

          Trong an trú, hướng đến đứng yên  

              Hay tâm hướng đến ngồi yên,

       Hoặc tâm vị ấy hướng lên sự nằm.

          Nghĩ rằng : ‘Ta ngồi, nằm, đi, đứng,

          Bốn oai nghi – thời những ưu, tham,    

              Các bất thiện pháp quý, tàm

       Không có chảy đến, không làm phát sinh’.

          Tỷ Kheo đó đinh ninh điều ấy

          Và ý thức như vậy rõ ràng.

 

              Trường hợp khác, này A-Nan !

       Khi an trú trong trú an, vị này

          Tâm hướng ngay đến vấn đề nói,

          Suy nghĩ : ‘Ta không nói chuyện gì

              Thuộc về hạ liệt bần di,

       Phàm phu, đê tiện, không quy kết về,

          Không liên hệ vấn đề Thánh tịch,

          Không liên hệ mục đích yểm ly,

              Ly dục, đoạn diệt tức thì

       An tịnh, thắng trí, giác tri Niết bàn,                

          Biết rõ ràng như Quốc-vương-luận,

          Đạo-tặc-luận, đại-thần-luận, hay

              Quân-luận, bố-úy-luận này

       Chiến-tranh & thực-vật-luận hay những gì

          Ẩm-liệu-luận cùng y-phục-luận,

          Ngọa-cụ & hương-liệu-luận đây

              Hoan-man-luận, thôn-luận này,

       Thân-thích & xa-thừa-luận hay anh-hùng &

          Thị-trấn & đô-thị-luận cùng quốc-độ &

          Nữ-luận đó cùng luận-hạng-trung,

              Thủy-bình-xứ-luận được dùng,

       Tiên-linh & sai-biệt-luận từng nói qua,

          Thế-giới và hải-thuyết-luận nữa

          Hữu-vô-hữu-luận dựa vào đây.

              Ở đây sau trước vị này

       Ý thức như vậy điều đây rõ ràng. 

 

          Này A-Nan ! Với những lời nói

          Thuộc vào loại khắc khổ, mọi thì

              Đưa đến nhất hướng yểm ly,

       Khai tâm, đoạn diệt, an vì ly tham,

          Thắng trí và tịnh thanh giác ngộ

          Hướng Niết-bàn là chỗ tối tôn,

              Như thiểu-dục-luận, và còn

       Tinh-cần & tri-túc-luận – đồng nêu ra

          Giới & định & tuệ & bất-chúng-hội-luận,

          Giải-thoát-luận, độc-cư-luận này,

              Giải-thoát-tri-kiến-luận đây…

 

       Nghĩ : ‘Ta nói các luận ngay như vầy’.

          Chính vị này ý thức rõ vậy.

 

          Còn nếu Tỷ Kheo ấy ở đây

              An trú với an trú này

       Mà tâm vị ấy hưóng ngay suy tầm

          Rồi nghĩ thầm : ‘Đối với các việc

          Suy tầm qua hạ liệt, phàm phu,

              Đê tiện, không thuộc phạm trù

       Bậc Thánh, không liên hệ từ mục tiêu,

          Không đến điều yểm ly, đoạn diệt,

          Không ly tham, không thiệt tịnh an,

              Không thắng trí, ngộ Niết-bàn

       Như dục-tầm, sân-tầm, đang hại-tầm…

          Không suy nghĩ, suy tầm như vậy

          Và vị ấy ý thức rõ ràng.      

 

              Còn điểm khác, này A-Nan ! 

       Năm dục-trưởng-dưỡng sẵn sàng là sao ? 

          Sắc do mắt trước sau nhận thức

          Khả hỷ, thực khả lạc, đáng yêu

              Liên hệ dục, hấp dẫn nhiều.

 

       Tiếng, hương, vị, xúc các điều kể đây 

          Nhân do tai, mũi, lưỡi. Còn xúc

          Là do thân nhận thức sớm chiều

              Khả hỷ, khả lạc, đáng yêu,

       Liên hệ dục, hấp dẫn nhiều người ta,

          Đó chính là năm dục-trưởng-dưỡng.

          Tỷ Kheo cần phải hướng từ đây

              Thường quán sát từ tâm vầy :

      ‘Tâm ta có khởi lên đầy nghĩ suy

          Tâm hành gì với Xứ tương tác

          Xứ này hay xứ khác như vầy

              Của năm dục-trưởng-dưỡng đây ?

       Trong khi quán sát, vị này tuệ tri :  

         ‘Tâm ta thì khởi lên dào dạt

          Tâm hành với xứ khác, xứ này

              Của năm dục-trưởng-dưỡng đây’.

 

       Sự kiện là vậy, vị đây nghĩ vầy :

          Dục, ái này khởi do năm dục

          Chưa một lúc nào ta diệt tan’.

              Vị ấy ý thức rõ ràng.

 

       Nếu Tỷ Kheo trong khi đang tinh cần

          Quán sát phần như vậy, suy nghĩ :

         ‘Trong tâm ta đình chỉ khởi ngay

              Tâm hành với xứ khác & này

       Của năm dục-trưởng-dưỡng đầy hiểm nguy’.

          Vị Tỷ Kheo tuệ tri tiếp tục :

         ‘Dục tham cùng năm dục, với ta

              Đã được đoạn diệt’. Vậy là

       Vị ấy đã ý thức ra rõ ràng.  

 

          Này A-Nan ! Có năm thủ-uẩn

          Tỷ Kheo cần tinh tấn diệt nhanh

              Khi tùy-quán sự diệt sanh

      ‘Đây sắc, sự tập khởi dành sắc đây,

          Đây là sự diệt ngay của sắc.

          Đây là thọ, chấp chặt thọ đây,

              Sự tập khởi của thọ này.

       Đây sự đoạn diệt thọ ngay chẳng chầy.

          Đây là tưởng & hành hay thức-uẩn

          Sự tập khởi các uẩn đêm ngày,

              Sự đoạn diệt các uẩn này…’

       Khi an trú, tùy-quán rày diệt sanh

          Của năm uẩn, nếu sanh ngã mạn

          Khởi vô hạn với năm uẩn đây,                 

              Ngã mạn được đoạn tận ngay,

       Sự kiện là như vậy. Này A-Nan !

          Tỷ Kheo tuệ tri rằng : ‘Phàm có

          Sự ngã mạn nào đó khởi ra

              Với năm thủ-uẩn nơi ta

       Ngã mạn đó đã được ta diệt rồi !’

          Vị ấy thời ý thức rất rõ.

 

          A-Nan ! Những pháp đó hiện tiền

              Thuần nhất, liên hệ Thiện hiền,

       Thuộc bậc Thánh, siêu thế, liền vượt qua

          Ngoài tầm của ác ma, ác quỷ.

          A-Nan-Đa ! Ông nghĩ thế nào ?

              Vì thấy lý do tại sao

       Một Thánh đệ tử mặc dầu trải qua

          Bị hất hủi, nghĩ là xứng đáng

          Để theo bậc viên mãn Đạo Sư ? ”.

 

        – “ Kính bạch Thế Tôn đại từ !

       Với chúng con, pháp Chân-như tịnh lành

          Nương dựa Thế Tôn làm căn bản,

          Muốn Thế Tôn làm lãnh đạo thôi !

              Nương tựa Thế Tôn mọi thời.

       Bạch Thế Tôn ! Thật tuyệt vời, lành thay !

          Nếu Thế Tôn điều này thuyết giảng

          Cho ý nghĩa viên mãn tịnh thanh,

              Sau khi nghe được pháp lành

       Các Tỷ Kheo sẽ phụng hành sâu xa ”.

 

    – “ A-Nan-Đa ! Thật không xứng đáng

          Khi đệ tử cứ bám sát vào 

              Theo một vị Đạo Sư nào

       Nếu vì nghe được trước sau tiến trình

          Giải thích về khế kinh & phúng tụng

          Vì sao ? Cũng trong thời gian dài

              Các pháp được các ông đây

       Nghe, đọc lớn tiếng, đêm ngày nghĩ suy

          Với ý, khéo mọi thì thấu hiểu

          Với chánh trí tiêu biểu như vầy.

              Nhưng mà A-Nan-Đa này !

       Đối với lời nói nào ngay thẳng mà

          Khắc khổ và khai tâm đưa tới

          Nhất hướng viễn ly với ly tham,

              Đoạn diệt, thắng trí, tịnh an

       Đưa đến giác ngộ, Niết-bàn chân như.

 

          Các luận như : thiểu-dục & tri-túc & 

          Độc-cư-luận, bất-chúng-hội này,

              Tinh-cần & giới & định & tuệ đây

       Giải-thoát & giải-thoát-tri-kiến đầy tinh hoa

          A-Nan-Đa ! Do nhân duyên ấy

          Những loại thuyết luận vậy chánh chân

              Đáng cho đệ tử Thanh-văn

       Dầu sao chăng nữa, cũng cần khư khư

          Theo Đạo Sư dầu bị hất hủi

          Sự phiền lụy cho vị Đạo Sư.

              Sự kiện đó, đáng suy tư

       Có sự phiền lụy đến từ nguyên nhân

          Do đệ tử gây phần phiền lụy

          Thời có sự phiền lụy đến nhanh

              Các vị Phạm-hạnh tu hành.

 

       Thế nào là phiền lụy dành Đạo Sư ? 

          A-Nan ! Có Đạo Sư chọn hẳn

          Một trú xứ xa vắng trong rừng,

              Gốc cây, sườn núi chập chùng,

       Bãi tha ma hoặc các từng núi cây

          Ngoài trời hay đống rơm, hang trống…

          Trong khi sống viễn ly như vầy

              Được các thí-chủ đoanh vây

       Bàn-môn, Gia-chủ và đầy thị-dân.

          Được vây bởi thành phần như vậy

          Thời vị ấy khởi lên nhiễm tâm

              Rơi vào dục vọng đọa trầm

       Khởi lên tham ái, âm thầm trở lui

          Đời sống vui, sung túc, vị kỷ…

          Được gọi sự phiền lụy Đạo Sư.

 

              Vì phiền lụy của Đạo-sư

       Ác bất thiện pháp lừ lừ nhiểm nhanh,

          Dẫn đến sự tái sanh đáng sợ,

          Sẽ đưa đến quả khổ lâu dài

              Sanh, già, chết trong tương lai

       Các ác pháp tấn công ngay vị này

          Gọi điều đây Đạo-sư phiền lụy.

 

          Sao là sự phiền lụy của hàng

              Đệ tử vậy ?  Này A-Nan !

       Trường hợp đệ tử của hàng Đạo-sư

          Bắt chước vị Đạo-sư, đến hẳn

          Sống viễn ly, hoang vắng, chênh vênh

             (Như phần đã kể ở trên)

       Được các Gia-chũ tuổi tên, cùng là

          Bàn-môn và thị-dân quy tụ

          Thường vây quanh, tứ sự cúng dàng,

              Vị ấy nhiễm tâm sẵn sàng

       Khởi lên, dục vọng khởi toàn ái tham,   

          Bất thiện pháp ác làm tạp nhiễm

          Dẫn đến điểm khổ cảnh tái sanh

              Đáng sợ hãi, dẫn đến sanh,

       Già, chết. Các pháp chẳng lành tấn công

          Vào vị ấy. Hiểu thông tuần tự

          Phiền lụy của đệ tử như vầy.

 

              Thế nào ? A-Nan-Đa này !

       Là sự phiền lụy đến ngay các vì

          Tu Phạm-hạnh ? Hiện thì sư kiện

          Này A-Nan ! Phương tiện độ đời

              Như Lai xuất hiện ở đời

       Đại A-La-Hán, người trời quy y,

          Chánh Biến Tri, bậc Minh Hạnh Túc,

          Thế Gian Giải, Điều Ngự Trượng Phu,

              Vô Thượng Sĩ, Thiên Nhân Sư,

       Thế Tôn, Thiện Thệ, vô dư Phật Đà.

          Ngài lựa trú xứ xa hoang vắng

          Trong rừng thẳm, sườn núi, gốc đa,

              Hang động hay bãi tha ma,

       Ngoài trời, vườn trống hoặc là đống rơm.

 

          Khi Ngài sống chánh chơn như vậy,

          Sống viễn ly tự tại tâm hồn,

              Các Gia-chủ, Ba-la-môn,

       Dân thành thị, người nông thôn mọi thời

          Quy tụ nơi Ngài đang hành đạo,

          Vây quanh nghe thuyết giáo tịnh thanh.

              Tuy được số đông vây quanh

       Nhưng Ngài không khởi chẳng lành nhiễm tâm,

          Không khởi tâm dục vọng, tham ái

          Không lui lại đời sống thế gian     

             (Sung túc nhưng đầy bất an).

       Nhưng vị đệ tử của hàng Đạo-sư

          Bắt chước theo hạnh như Thầy vậy

          Lựa trú xứ ở bãi tha ma,

              Hoặc nơi hoang vắng, rừng xa,

       Sườn núi, hang động hay ra ngoài trời,

          Hoặc tại nơi đống rơm vắng vẻ…

          Được Gia-chủ quyền thế, Bàn-môn

              Dân ở thành thị, nông thôn,

       Vây quanh vị ấy kính tôn cúng dàng.

 

          Được các hàng thế gia trọng vọng,

          Khởi nhiễm tâm, dục vọng rơi vào

              Khởi lên tham ái dâng trào

       Trở lại đời sống dồi dào, bất an.

          Này A-Nan ! Là sự phiền lụy

          Của các vị tu Phạm-hạnh đây.

 

              Vì phiền lụy Phạm-hạnh này

       Ác bất thiện pháp dẫn ngay chẳng lành

          Bị tạp nhiễm, tái sanh đáng sợ

          Đến quả khổ, đến chết, sanh, già,

              Chính trong tương lai không xa

       Các ác pháp tấn công già vị đây.

 

          A-Nan này ! Đó là phiền lụy

          Của các vị tu Phạm hạnh đây !

              Sự phiền lụy các vị này

       Nhiều quả khổ não, như vầy là hơn

          Đối với Chơn Đạo Sư phiền lụy.

          Và phiền lụy của đệ tử vầy

              Có thể dẫn đọa lạc ngay.

 

       Do vậy, A-Nan-Đa này ! Với Ta 

          Hãy đối xử an hòa, thân hữu

          Không với tâm chống cự, nghịch thù,

              Như vậy sẽ được an nhu

       Hạnh phúc an lạc thiên thu vững vàng.

 

          Này A-Nan ! Sao là đệ tử

          Lại đối xử với Đạo-sư mình

              Với tâm thù nghịch, chống kình

       Không tâm thân hữu – bất bình ở đây ?

          A-Nan này ! Vị Đạo-sư đó

          Lòng từ mẫn sẵn có, thuyết minh

              Cho các đệ tử của mình,

       Mong cầu hạnh phúc, an bình đến cho

          Các đệ tử và do từ mẫn

          Đã thuyết dẫn : ‘Hạnh phúc là đây !

              An lạc cho các ông đây !’.

 

       Nhưng các hàng đệ tử này u mê

          Không chịu lóng tai nghe lời dạy,

          Các kẻ ấy hướng khác chú tâm

              Ngược lại, họ đi xa tầm

       Xa lời giảng dạy cao thâm của Thầy.

          A-Nan này ! Là các đệ tử

          Đã đối xử một cách vô minh

              Với vị Đạo-sư của mình

       Tâm thù nghịch, không thân tình tri ân. 

 

          Này A-Nan ! Sao là đệ tử

          Thường đối xử với Đạo-sư mình 

              Không tâm thù nghịch, chống kình

       Khi Đạo-sư giảng tận tình lắng nghe

          Lóng tai nghe, không xu hướng khác,

          Không xa lạc lời dạy của Thầy.    

              Do vậy, A-Nan-Đa này !                      

       Với Ta, hãy đối xử đầy thiện tâm

          Chớ với tâm thù nghịch, bất phục,

          Như vậy là hạnh phúc, duyên may,

              Là sự an lạc lâu dài

       Cho các đệ tử Ta dày dụng công.

 

          Ở đây Ta đã không sách tấn

          Như người thợ gốm vẫn hay dùng

              Với các đồ gốm chưa nung,

       Lời chỉ trích Ta thường dùng ở đây,

          Chỉ trích này đến chỉ trích khác,

          Lời tán thán này, khác dùng đây,

              Chính cái gì là lõi cây

       Sẽ đứng vững mãi, xưa nay còn hoài ”.

 

          Đức Thế Tôn như vầy thuyết giảng

          Pháp Đại Không viên mãn sâu xa

              Vị Tôn-giả A-Nan-Đa

       Hoan hỷ tín thọ Phật Đà kim ngôn ./-  

 

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật  ( 3 L )

 

*   *

 

( Chấm dứt Kinh số 122 :    ĐẠI  KHÔNG   –

MAHÀSUNNATA  Sutta )

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
13/01/2018(Xem: 3936)
Đọc Thơ Tuyển của Cư sỹ Đào Văn Bình, Tình cờ chúng tôi có được tập sách Tổ Ấm Cuối Cùng, Thơ tuyển và Kịch bản, của cư sỹ Đào Văn Bình xuất bản năm 1987, gởi tặng cố Hòa thượng Thích Thiện Trì, chùa Kim Quang tại thủ phủ Sacramento, CA. Tập sách có hai phần: Phần 1 là Thơ tuyển mà tác giả cho biết là "Sáng tác ròng rã qua 9 năm lưu đày tù ngục và 1 năm phiêu linh qua các trại tỵ nạn". Phần 2 là Kịch bản Tổ Ấm Cuối Cùng (Sáng tác từ tại tỵ nạn Sungei Besi). Ở đây tôi chỉ viết cảm hứng của mình khi đọc vài bài thơ trong lúc bị tù đày của một cư sỹ lão thành luôn có tâm với đạo pháp và dân tộc.
12/01/2018(Xem: 4600)
Nhớ lại 3 năm trước, tôi đến Seattle vào một chiều Thu cuối tháng Mười. Vừa rời khỏi sân bay, cảm nhận đầu tiên của tôi đối với đô thị xa hoa có nhịp sống bận rộn này là cái se se lạnh của tiết trời đang độ giữa Thu. Trong tôi lúc đó vẫn còn nỗi bồn chồn lo lắng, tâm trạng của một người vừa xa quê, bước chân vào một đất nước xa lạ. Sự mát lạnh của khí trời như xoa dịu phần nào nỗi lo lắng trong tôi. Có lẽ đó là lý do vì sao tôi vẫn nhớ như in cảm xúc đầu tiên ấy, và dần dần, tôi nhận ra mình có cảm tình với mùa Thu ở Washington.
15/12/2017(Xem: 6277)
Hương Lúa Chùa Quê" Bản Tình Ca Quê Hương của nhị vị Hòa Thượng Thích Bảo Lạc và Thích Như Điển. Sau khi đọc tác phẩm “Hương Lúa Chùa Quê” chúng con không dám mong ước giới thiệu sự nghiệp văn học, văn hóa cả đạo lẫn đời của nhị vị Hòa Thượng. Vì công trình tạo dựng sự nghiệp của các bậc xuất sĩ không nằm trong “nguồn văn chương sáng tác”. Vì xuyên qua mấy chục năm hành đạo và giúp đời, nhị vị đã xây dựng nhiều cơ sở Phật giáo đồ sộ trên nhiều quốc độ khác nhau như: chùa Pháp Bảo tại nước Úc; chùa Viên Giác và Tu viện Viên Đức tại nước Đức. Nhị vị cũng đã mang ánh Đạo vàng đến khắp muôn nơi, soi sáng cho bước chân “người cùng tử” được trở về dưới mái nhà xưa, để thấy lại “bóng hình chân nguyên”; dẫn đường cho những người chưa thể “tự mình thắp đuốc lên mà đi” được tìm lại “bản lai diện mục”. Đó mới gọi là “sự nghiệp” của bậc xuât sĩ. Điều nầy đã có lịch sử ghi nhận từ mạch nguồn công đức biểu hiện và lưu truyền.
15/12/2017(Xem: 86891)
Trải hơn 25 thế kỷ, Chánh Pháp của Phật vẫn được tuyên dương và lưu truyền bởi hàng đệ tử xuất gia lẫn tại gia, đem lại giải thoát và giác ngộ cho những ai học hỏi và thực hành đúng đắn. Chánh Pháp ấy là thuốc hay, nhưng bệnh mà không uống thì chẳng phải là lỗi của thuốc. Trong kinh Di Giáo, đức Phật cũng ân cần huấn thị lần chót bằng những lời cảm động như sau: “Thể hiện lòng đại bi, Như Lai đã nói Chánh Pháp ích lợi một cách cứu cánh. Các thầy chỉ còn nỗ lực mà thực hành… Hãy tự cố gắng một cách thường trực, tinh tiến mà tu tập, đừng để đời mình trôi qua một cách vô ích, và sau này sẽ phải lo sợ hối hận.” Báo Chánh Pháp có mặt để góp phần giới thiệu đạo Phật đến với mọi người. Ước mong giáo pháp của Phật sẽ được lưu chuyển qua những trang báo nhỏ này, mỗi người sẽ tùy theo căn tánh và nhân duyên mà tiếp nhận hương vị.
15/12/2017(Xem: 136695)
Văn Hóa Phật Giáo, số 242, ngày 01-02-2016 (Xuân Bính Thân) Văn Hóa Phật Giáo, số 244, ngày 01-03-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 245, ngày 15-03-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 246, ngày 01-04-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 247, ngày 15-04-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 248, ngày 01-05-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 249, ngày 15-05-2016 (Phật Đản PL 2560) Văn Hóa Phật Giáo, số 250, ngày 01-06-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 251, ngày 15-06-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 252, ngày 01-07-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 253, ngày 15-07-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 254, ngày 01-08-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 255, ngày 15-08-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 256, ngày 01-09-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 257, ngày 15-09-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 258, ngày 01-10-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 259, ngày 15-10-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 260, ngày 01-11-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 261, ngày 15-11-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 262, ngày 01-12-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 263, ngày 15-12-2016
08/12/2017(Xem: 3985)
Đọc “Trúc Lâm Thiền Phái tại Huế” của Thích Tín Nghĩa, Nhân dịp Nguyên Giác và tôi ra mắt sách ở Chùa Bát Nhã, Nam California, Hòa Thượng Thích Tín Nghĩa- Viện Chủ Từ Đàm Hải Ngoại Irving, Texas không về dự được nhưng đã có thư cáo lỗi. Từ việc làm hết sức cẩn trọng và khéo léo đó, tôi sinh lòng cảm mến và làm quen với hòa thượng qua điện thư và được hòa thượng ưu ái tặng cho bốn cuốn sách của chính hòa thượng, bao gồm:
07/11/2017(Xem: 3694)
Nhà thấp nhất trong xóm. Mái tole. Cửa gỗ. Sàn gác gỗ sao. Nó khiêm tốn lọt thỏm giữa những ngôi nhà cao tầng khang trang, kiên cố với beton cốt thép, cửa sắt, cửa kính chịu lực... Diện tích gian dưới của căn nhà cấp 4 này chỉ 24 mét vuông, chia thành hai gian, bếp và nhà vệ sinh chiếm hết gần một nửa, còn lại chừa cho gian phòng khách chật chội với bàn ghế, divan, tủ sách, chỗ để hai chiếc xe máy... Vậy mà vào lúc sáng sớm, khi cơn bão Damrey dữ tợn bắt đầu đổ bộ vào đất liền, hung hăng sấn vào lòng thành phố biển Nha Trang, căn nhà khiêm tốn trong hẻm nhỏ này là nhà duy nhất mở cửa để đón nhận 15 người khách lỡ đường chui vào nương trú để tránh bão. Duy nhất. Vì mọi nhà xung quanh đều đã cửa đóng then cài kín bít từ đầu tối hôm trước.
05/11/2017(Xem: 24402)
Cách Đọc Tên và Phát Âm 23 Chữ Cái, Hiện nay tại Việt Nam cách gọi tên và cách phát âm 23 mẫu tự tiếng Việt vô cùng lộn xộn. Thí dụ: Trên chương trình Thời Sự Quốc Phòng, thiết vận xa M.113 có cô đọc: em mờ 113. Có cô đọc mờ 113. -Chữ N có nơi đọc: en nờ (âm nờ hơi nhẹ). Có nơi đọc nờ.
12/10/2017(Xem: 11448)
Viết về anh Bùi Giáng là một việc làm cần lòng can đảm. Thậm chí cần rất nhiều can đảm, có khi phải nói nôm na là liều mạng mới dám viết. Những người có thời gần gũi và thương mến anh ai cũng có lần cảm nhận điều đó. Anh thích người ta đọc sách anh, thưởng thức thơ văn anh, nghiền ngẫm tư tưởng của anh. Nhưng ngược lại anh hay nổi nóng nếu ai hiểu sai ý anh. Anh rất giận khi có ai viết sai một chữ, kể cả sai một dấu phẩy, những câu thơ của anh. Có rất nhiều khi anh cho đó là một sự xuyên tạc có hậu ý. Dù sao, anh và tôi đã từng sống chung gần ba năm trời ở Vạn Hạnh chả lẽ không có gì để nói, lâu nay tuy rất muốn viết nhưng tôi vẫn cố tránh, cho đến khi có người nhắc.
13/08/2017(Xem: 6594)
Cách đây ít lâu, một nhóm Phật tử tại Hà Nội sang Đài Loan đảnh lễ Pháp sư Tịnh Không, được ngài ban cho một bộ sách gồm 7 quyển, ân cần dặn dò nên tìm người dịch sang tiếng Việt để lưu hành rộng rãi. Bộ sách ấy có tên là Thánh học căn chi căn (聖學根之根), với ý nghĩa là những nền tảng căn bản nhất trong cái học được các bậc thánh nhân từ xưa truyền lại. Sách do cư sĩ Nhân Duyên Sinh tuyển soạn từ kinh sách của cả Nho giáo, Lão giáo và Phật giáo, nhằm mục đích hình thành một bộ sách giáo khoa thích hợp và bổ ích nhất cho các em ở độ tuổi thiếu niên, nhi đồng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]