Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

90. Kinh Kannakatthala

19/05/202010:54(Xem: 9610)
90. Kinh Kannakatthala

TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO

TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRUNG BỘ KINH

( Majhima  Nikàya )


Tập III
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli

Chuyển thể Thơ :

Giới Lạc  MAI LẠC HỒNG  tự TUỆ NGHIÊM

 ( Huynh Trưởng Cấp Tấn  - GĐPTVN tại Hoa Kỳ )

Email : [email protected]


90. Kinh  KANNAKATTHALA 

( Kannakatthala sutta )

 

Như vậy, tôi nghe :

 

          Một thời, Đức Thế Tôn Giác Giả

          Đang du hóa tại Ú-Chun-Na  (1)

              Trú Kan-Ná-Kát-Tha-La  (2)

       Gần Lộc Uyển, cùng tịnh hòa Săng-Ga. (3)

 

          Vương quốc Kô-Sa-La cai trị

          Là Pa-Sê-Na-Đí Vương-gia

              Thân lâm đến U-Chun-Na

       Vì có công vụ cần qua nơi này.

          Ở tại đây, Vua liền ra lệnh

          Người hầu cận : “ Hãy đến ngay nơi

              Bậc Tôn quý nhất trên đời.  (4)

       Nhân danh ta, hãy tức thời khởi thân

          Đảnh lễ bậc Thiên Nhân Sư ấy,

          Cúi đầu lạy dưới chân Phật Đà,

              Hỏi thăm Ngài đã trải qua

       Có được ít bệnh cùng là khinh an ?

          Có mạnh khỏe, dễ dàng, lạc trú ?

          Thưa : ‘Quốc chủ nước Kô-Sa-La

              Là Ba-Tư-Nặc Vương-gia

       Nhờ con đảnh lễ Phật Đà thật sâu

          Thưa rằng : Sau điểm tâm ngự thiện

          Vua sẽ đến yết kiến Phật Đà ”.    

     _________________________

 

(1) : Ujunna .  (2) : Kannakatthala .  (3) : Sangha – phiên  âm là

      Tăng-Già.        (4) : Thế Tôn – Bhagava .

Trung Bộ (Tập 3) Kinh 90 : KANNAKATTHALA  *  MLH –  256

 

        – “ Tâu vâng ! Thần sẽ đi qua ”.

       Người ấy vâng đáp rồi ra đi liền.

 

          Ở cung riêng, nhưng khi biết chuyện

          Vua sẽ đến yết kiến Phật Đà,

              Sô-Ma và Sa-Ku-La            ( Soma & Sakula )

       Hai chị em đến gặp và thưa ra :

 

     – “ Tâu Đại Vương ! Thật là duyên phước !

          Thiếp biết được Đại Vương hôm nay

              Đến trú xứ Phật thăm Ngài,

       Xin cho chúng thiếp nơi đây gởi lời

          Thành kính đảnh lễ nơi chân Phật,

          Vấn an Phật giùm chúng thiếp đây ”.

 

              Sau điểm tâm, Vua đi ngay 

       Đến nơi, ông đảnh lễ Ngài, tự thân

          Cúi đầu lạy sát chân Đức Phật,

          Hỏi thăm Phật ít bệnh, khinh an ?

              Rồi một bên Phật ngồi sang

       Bạch Phật về việc hai nàng : Sô-Ma &

          Sa-Ku-La gởi lời đảnh lễ.

 

    – “ Thưa Đại Vương ! Không thể đến đây

              Tại sao hai chị em này

      Không nhờ người khác, nhờ ngài chuyện đây ?”.

 

    – “ Bạch Thế Tôn ! Cả hai nàng đó

          Được biết con sẽ có đến đây

              Để yết kiến, đảnh lễ Ngài,

       Nên cả hai đã đến ngay thiện-phòng

          Nhờ con chuyển tấm lòng cung kính

          Đến Thế Tôn, thanh tịnh Phật Đà ”.

 

         – “Đại Vương ! Nguyện phước hà sa

Trung Bộ (Tập 3) Kinh 90 : KANNAKATTHALA  *  MLH –  257

 

       Đến với Sô-Má cùng Sa-Ku-Là ”. 

           Quốc vương Kô-Sa-La kế tiếp

           Liền thuận dịp bạch với Phật Đà :

 

         – “ Bạch Thế Tôn ! Con nghe qua

       Rằng : ‘Sa-môn Gô-Ta-Ma nói là :

          Không một Sa-môn hay Phạm-chí

          Là bậc trí – toàn kiến, toàn tri

              Có thể tự cho là vì            

       Chứng được tri kiến diệu kỳ mãn viên.

          Điều như vậy dĩ nhiên không có’. 

          Bạch Phật ! Nếu như họ nói vầy

              Có phải là đúng lời Ngài,

       Họ không xuyên tạc, đúng ngay như vầy ?

          Họ giải thích pháp này đúng pháp ?

          Những ai nói đúng pháp, hợp thời

              Không ai có cơ hội rồi !

       Để mà chỉ trích những lời nói trên ? ”.

 

    – “ Thưa Đại Vương ! Nói lên như vậy  

          Lời nói ấy hư ngụy, tào lao.

              Khi bảo Ta nói như sau :

      ‘Không Phạm-chí, Sa-môn nào toàn tri

          Và toàn kiến, tức thì chứng đắc

          Tri kiến thật viên mãn, trải qua

              Điều ấy không thể xảy ra’.

       Họ nói không đúng lời Ta nói rồi !

          Và đồng thời xuyên tạc chủ ý

          Một cách rất hư ngụy, sai ngoa ”.

 

              Quốc vương nước Kô-Sa-La 

       Liền hỏi Vi-Đú-Đa-Phà Tướng quân :

 

   – “ Này Tướng quân ! Ai đem chuyện ấy   

Trung Bộ (Tập 3) Kinh 90 : KANNAKATTHALA  *  MLH –  258

 

          Vào nội cung, đồn bậy như vầy ? ”.

 

        – “ Tâu Phụ vương ! Chính vị này

       Sanh-Cha-Dá Bàn-môn đây phao truyền

          Dòng họ nguyên là A-Ka-Sá               ( Akasa )

          Ông ta đã nói lên như vầy ”.

 

              Vua Ba-Tư-Nặc gọi ngay

       Một người hầu cận đến đây, bảo là :

 

    – “ Hãy đến nhà Bàn-môn tên cả

          Là Sanh-Chá-Dá A-Ka-Sa,

              Rồi ngươi hãy nhân danh ta

        Truyền gọi ông ấy hãy qua gặp liền ”.

 

           Người ấy liền vâng theo vương lệnh

           Vội đi đến nhà Sanh-Cha-Da.          ( Sanjaya )  

 

              Quốc vương thưa với Phật Đà :

 – “ Bạch Phật ! Có thể xảy ra vấn đề

          Ngài nói về một chuyện khác hẳn,

          Người ta gán chuyện ấy khác đi.

              Bạch Ngài ! Liên hệ chuyện gì

       Mà Ngài xem đó mình duy nói thường ? ”.

 

    – “ Thưa Đại Vương ! Điều Ta tự biết  

          Đã nói ra chơn thiệt như sau :

             ‘Không Sa-môn, Bàn-môn nào

       Có thể cùng lúc biết mau hoàn toàn

          Đồng thời cũng hoàn toàn thấy rõ.

          Không thể có sự tình như trên ”.

 

        – “ Thế Tôn thuyết có nhân duyên,

       Thuyết liên hệ đến nhân duyên, nói là :

         ‘Không một Sa-môn, Bàn-môn nào đó

          Trong một lúc, biết rõ hoàn toàn

Trung Bộ (Tập 3) Kinh 90 : KANNAKATTHALA  *  MLH –  259

 

              Và cũng thấy rõ hoàn toàn.

       Sự tình như vậy không hằng xảy ra’.

          Bạch Phật-Đà ! Giai cấp nói tới :

          Sát-Đế-Lị cùng với Bàn-môn,

              Phệ Xá, Thủ Đà sinh tồn,

       Có gì sai biệt, vẫn còn khác nhau ? ”.

 

    – “ Thưa Đại Vương ! Hàng rào giai cấp

          Hai giai cấp : Sát-Lị & Bàn-môn

              Được xem tối thượng đáng tôn.

       Hai giai cấp thấp không tôn quý gì,

          Khi thấy họ, tức thì đứng dậy

          Chắp tay lại, ra sức làm ngay

              Công việc giai cấp trên sai ”.

 

 – “ Bạch Thiện Thệ ! Con hỏi ngay vấn đề

          Về tương lai, không về hiện tại.

          Xin hỏi lại : Sát-Lị, Bàn-môn,

              Phệ Xá, Thủ Đà… sinh tồn

       Có gì sai biệt, vẫn còn khác nhau ? ”.

 

     – “ Thưa Đại Vương ! Bàn vào việc ấy

          Tinh-cần-chi năm loại chánh chân.

              Thế nào là năm tinh cần ?

   *  Một vị Phích-Khú vững phần lòng tin :

          Rất vững tin giác ngộ của Phật :

          Ngài là bậc Ứng Cúng đại từ,

              Chánh Đẳng Giác, Thiên Nhân Sư,

       Thiện Thệ, Điều Ngự Trượng Phu, Phật Đà,

          Ngài cũng là bậc Thế Gian Giải,

          Vô Thượng Sĩ, bậc Đại Sa-Môn,

              Đấng Minh Hạnh Túc, Thế Tôn.

       Luôn tin tưởng Phật, Pháp môn hành đều.  

Trung Bộ (Tập 3) Kinh 90 : KANNAKATTHALA  *  MLH –  260

 

     *  Vị Tỷ Kheo ít bệnh, ít não,                          

          Sự tiêu hóa an hảo, điều hòa,

              Không lạnh quá, không nóng già,

       Hợp với tinh tấn, trải qua sớm chiều.

 

      *  Không gian ngoa, không điều xảo trá,

          Nêu rõ cả tự mình như chân

              Với bậc Đạo Sư, trí nhân,  

       Các đồng Phạm hạnh – mọi phần quang minh.

 

      *  Sống tự mình siêng năng, tinh tấn,

          Và diệt tận ác pháp các điều,    

              Thành tựu các thiện pháp nhiều,

       Kiên tâm trì chí, hướng chiều chân như.

 

      *  Với thiện pháp, không từ gánh nặng

          Có thù thắng trí tuệ tựu thành

              Về sự các pháp diệt sanh,

       Thể nhập của bậc Thánh nhân các ngài,

          Đưa đến ngay đoạn diệt khổ khốn.

 

          Đại Vương ! Bốn giai cấp vẫn còn :

              Sát-Đế-Lị, Bà-La-Môn,

       Thủ-Đà, Phệ-Xá… sinh tồn xưa nay,

          Nếu các giai cấp này thành tựu

          Tinh-cần-chi hiện hữu năm điều

              Sẽ đưa đến hạnh phúc nhiều,

       Lâu dài an lạc, triệt tiêu khổ sầu ”.

 

    – “ Bạch Thế Tôn ! Nói vào giai cấp 

          Đã đề cập, nếu họ tựu thành

              Năm tinh-cần-chi tốt lành

       Có gì sai biệt ngọn ngành khác nhau ? ”.

 

    – “ Thưa Đại Vương ! Bàn vào chi tiết

Trung Bộ (Tập 3) Kinh 90 : KANNAKATTHALA  *  MLH –  216

 

          Ta nói đến sai biệt tinh cần.

              Như những con voi, thành phần

       Đáng được điều phục, hoặc nhân ngựa, bò

          Là nguyên do đáng điều phục nữa.

 

          Hai con voi, hai ngựa, hai bò

              Được khéo điều phục, luyện cho.

       Lại có hai ngựa, hai bò, hai voi

          Là những đôi không được huấn luyện,

          Không diễn tiến điều phục chuyên sâu.

              Thưa Đại Vương ! Ngài nghĩ sao

       Trường hợp hai ngựa ? Thế nào bò, voi ?

          Khéo huấn luyện nhà nòi, điều phục,

          Có phải được điều phục hay chăng ?

             ‘Khả năng điều phục’ đạt phần ?

    ( Tức Đanh-Ta-Ká-Rá-Năng – từ này )

          Đạt được ngay ‘vị trí điều phục’ ?

        ( Nguyên ngữ tức Đanh-Tá-Phu-Mi )

 

       – “ Thưa vâng ! Bạch Chánh Biến Tri ! ”.

 

 – “ Thưa Đại Vương ! Còn trong thì luyện cho     

          Hai con voi, hai bò, hai ngựa      

          Không được khéo luyện sửa tốt lành,

              Không khéo điều phục cho thành,

       Mà những con đó đạt nhanh về phần

          Là ‘khả năng điều phục’ hoàn mỹ

          Và ‘vị trí điều phục’ được không ? ”.

 

        – “ Thưa không, bạch đức Thế Tôn ! ”. 

 

 – “ Đại Vương ! Cũng vậy. Do lòng tin sâu,

          Do ít bệnh, không màu gian trá,

          Do tinh tấn… nên đã đạt thành.

Trung Bộ (Tập 3) Kinh 90 : KANNAKATTHALA  *  MLH –  262

 

              Không thể do bất tín sanh,

       Không do nhiều bệnh, gian manh đạt vầy.

          Sự tình này không thể nào có ! ”.

 

    – “ Bạch Phật ! Ngài thuyết có nhân duyên,

              Thuyết liên hệ đến nhân duyên.

       Từ xưa, bốn giai cấp riêng sinh tồn :

          Sát-Đế-Lị, Bàn-Môn hai giới,

          Phệ-Xá với Thủ-Đà nêu danh.

              Nếu các vị ấy tựu thành

       Năm tinh-cần-chi tịnh thanh hành trì

          Thì có thể có chi khác biệt ?

          Có thể có sai biệt nào không ? ”.

 

       – “ Thưa Đại Vương ! Ta nói không ! 

       Không có khác biệt gì trong vấn đề

          Khi thuộc về phương diện giải thoát.

          Đối với sự giải thoát an từ.

              Thưa Đại Vương ! Ví dụ như :

       Một người đem củi khô từ Sa-la

          Rồi nhen lửa, hiện ra ngọn lửa.

          Những người nữa đem củi xoài khô,

              Hoặc mang củi cây mít khô,

       U-Đum-Ba-Rá cây khô đến liền,       ( Udumbara )

          Nhen lửa lên, dĩ nhiên lửa đỏ.

 

          Thưa Đại Vương ! Điều đó thế nào ?

              Các loại củi khô khác nhau

       Có gì sai khác giữa màu sắc, hay

          Giữa lửa này với ngọn lửa khác

          Giữa ánh sáng có khác nhau không ? ”.

 

        – “ Thưa không, bạch đức Thế Tôn ! ”. 

 

– “ Thưa Đại Vương ! Cũng vậy. Trong việc này,

Trung Bộ (Tập 3) Kinh 90 : KANNAKATTHALA  *  MLH –  263

 

          Sức nóng vầy tạo do tinh tấn,

          Do tinh tấn nhen nhúm mà ra.

              Ở đây Ta nói rõ là

       Không có sai biệt xảy ra điều mà

          Giải thoát và giải thoát khác đó ”.

 

    – “ Ngài thuyết có & liên hệ nhân duyên 

              Có hay không có Chư Thiên ? ”.

 

 – “ Đại Vương ! Sao lại hỏi lên điều này ? ”.    

 

    – “ Bạch Thế Tôn ! Chẳng hay Thiên Chúng

          Có phải đúng sanh lại tại đây ?

              Hay không sinh lại tại đây ? ”.

 

 – “ Đại Vương ! Thiên Chúng nào đầy hại tâm 

          Sanh lại nhằm tại đây, duyên báo.

          Chư Thiên không có não-hại-tâm

              Thì không tại đây sanh nhằm ”.

 

       Nghe Phật nói vậy, Tướng quân gần tòa

          Là Vi-Đu-Đa-Pha hoàng tử     

        ( Tỳ-Lưu-Ly ) đang dự, thưa liền :

 

        – “ Bạch Thế Tôn ! Các Chư Thiên 

       Não-hại-tâm có, sinh liền tại đây    

          Có thể đánh đuổi hay trục xuất

          Chư Thiên thuộc không não-hại-tâm

              Và không tại đây sanh nhằm ? ”.

 

       A-Nan Tôn-giả đứng gần Như Lai  

          Liền nghĩ ngay : “ Vi-Đu-Đa-Phá

          Hàng vương giả con của Đại Vương

              Còn ta con đấng Pháp Vương,

       Đã đến lúc cả hai phưong như vầy   

          Là hàng các con, nay luận tới,

Trung Bộ (Tập 3) Kinh 90 : KANNAKATTHALA  *  MLH –  264

 

          Nên nói với Vi-Đú-Đa-Pha :

 

        – “ Này Tướng quân ! Xin hỏi qua

       Phạm vi về vấn đề đà bàn sâu.

          Tướng quân nghĩ thế nào liên hệ

          Lãnh thổ vua Pa-Sế-Na-Đi

              Xa rộng, thuộc vua trị vì

       Vua có thể đánh đuổi đi tức thì,

          Trục xuất vì Sa-môn, Phạm-chí

          Là một vị có đức tu hành,

              Hay không công đức tu hành,

       Có sống Phạm hạnh & không hành hạnh đây ? ”.

 

    – “ Thưa Tôn-giả ! Điều này có thể 

          Vua Pa-Sế-Na-Đí đuổi đi,

              Hay trục xuất họ tức thì ”.

 

 – “ Tướng quân ! Ngài sẽ nghĩ chi về điều

          Xa rộng ra, có nhiều lãnh thổ

          Là những chỗ không thuộc phạm vi

              Vua Ba-Tư-Nặc trị vì,

       Thì vua có thể đuổi đi các vì

          Sa-môn hay các vì Phạm-chí

          Có công đức hoàn mỹ tu trì

              Hay không công đức tu trì,

       Có thể trục xuất họ đi không nào ? ”.

 

    – “ Thưa Tôn-giả ! Nói vào điều đó

          Vua rất khó có thể đuổi đi

              Khỏi chỗ vua không trị vì ”.

 

 – “ Tướng quân có biết các vì Chư Thiên ?

          Có nghe nói cõi Thiên Đao Lợi ? ”.

 

    – “ Tôn-giả ! Có nghe tới Chư Thiên

Trung Bộ (Tập 3) Kinh 90 : KANNAKATTHALA  *  MLH –  265

 

              Cõ trời Tam Thập Tam Thiên.

       Phụ Vương cũng biết về Thiên cung này ”.

 

    – “ Này Tướng quân ! Ở đây ông nghĩ

          Vua Pa-Sê-Na-Đí có quyền

              Đánh đuổi, trục xuất Chư Thiên

       Cõi trời Đao Lợi khỏi Thiên cung này ? ”.

 

    – “ Thưa Tôn-giả ! Điều đây không thể !

          Vua Pa-Sê-Na-Đí là người,

              Không thể thấy các vị trời

       Làm sao trục xuất, đuổi dời Chư Thiên

          Tại cõi Thiên Ba Mươi Ba ấy ”.

 

    – “ Tướng quân ! Cũng như vậy, suy tầm

              Chư Thiên có não-hại-tâm

       Thì các vị sanh lại nhằm tại đây,

          Không thấy rày Chư Thiên an hảo

          Không có não-hại-tâm như vầy

              Mà không sanh lại tại đây,

       Làm sao tẩn xuất các ngài Chư Thiên

          Không hiện tiền có tâm não-hại

          Không sanh lại tại đây, trải qua ”.

 

              Vua Ba-Tư-Nặc nghe qua  

       Liền thưa Phật : “ Bạch Phật Đà Toàn Tri !

          Tỷ Kheo ấy là gì tên gọi ? ”.

 

    – “ Thưa Đại Vương ! Thường gọi A-Nan ”. 

 

        – “ Hoan hỷ thay ! Thật hân hoan !

       Vị Tôn-giả tên A-Nan-Đa này.

          Thuyết đủ đầy nhân duyên như thế   

          Thuyết liên hệ nhân duyên ở trong.

              Bạch Phật ! Có Phạm Thiên không ? ”.  

Trung Bộ (Tập 3) Kinh 90 : KANNAKATTHALA  *  MLH –  266

 

 – “ Đại Vương ! Sao hỏi có không việc vầy ? ”.

 

    – “ Bạch Thế Tôn ! Con đây hỏi lại :

          Phạm Thiên có sanh lại tại đây

              Hay không sanh lại tại đây ? ”.     

 

 – “ Đại Vương ! Phạm Thiên nào đầy hại tâm

          Phạm Thiên ấy liền tầm sanh tới,

          Còn đối với các vị Phạm Thiên

              Không não-hại tâm triền miên

       Thời không sanh lại hiện tiền tại đây ”.

 

          Lúc ấy từ bên ngoài vào tới    

          Một vị quan tâu với vua là :

        – “ Tâu Đại Vương ! Sanh-Cha-Da  

       Bà-la-môn thuộc họ A-Ka-Sà

          Đã đến và xin vào yết kiến ”. 

 

          Khi tiếp kiến, vua hỏi vị này :

        – “ Này Bà-La-Môn ! Là ai

       Đã phổ biến câu chuyện này trong cung ? ”.

 

     – “ Tâu lạy đấng Cửu Trùng cao cả !

          Chính Vi-Đu-Đa-Phá (1) Tướng quân ”.

 

              Nhưng Tỳ-Lưu-Ly (1) Tướng quân   

       Lại đổ lỗi ấy về phần đối phương :

 

     – “ Tâu Phụ Vương ! Chính A-Ka-Sá 

          Tức là Sanh-Cha-Dá Bàn-môn

              Trong nội cung, đã phao đồn ”.

 

       Lúc ấy, thị vệ kính tôn thưa là :

    – “ Tâu Đại Vương ! Nay đà đến lúc

          Ngự long xa tiếp tục để đi ”.

     __________________________

 

( ) : Xem chú thích ở Kinh số 87 : Ái Sanh ( Piyajàtika ).

Trung Bộ (Tập 3) Kinh 90 : KANNAKATTHALA  *  MLH –  267

 

              Đức vua Pa-Sê-Na-Đi

       Bạch Phật : “ Bạch Chánh Biến Tri ! Vừa rồi

          Con tùy thời hỏi Ngài nghĩa lý

          Vấn đề nhất-thiết-trí minh quang,

              Thế Tôn trả lời rõ ràng

       Làm con thoải mái, vô vàn hân hoan,

          Được chúng con sẵn sàng chấp nhận.

          Ngài tường tận lại giải thích rành

              Bốn giai cấp sao tịnh thanh ?

       Tiếp theo con hỏi ngọn ngành Chư Thiên

          Rồi Phạm Thiên – Ngài đều giải đáp

          Rất thích hạp, khiến con hân hoan

              Thoải mái, chấp nhận dễ dàng,

       Vì con hoan hỷ, hoàn toàn giải nghi.

          Những điều gì chúng con đã hỏi

          Ngài liền nói tường tận, sâu xa.

 

              Bạch đức Thế Tôn Phật Đà !   

       Chúng con phận sự rất là đa đoan

          Nhiều công vụ còn dang dở cả,

          Xin từ giã Thế Tôn để đi ”.

 

        – “ Đại Vương hãy làm những gì 

       Mà ngài nghĩ phải thực thi, hợp thời ”.

 

          Vua tín thọ những lời Thiện Thệ

          Đứng dậy rồi đảnh lễ Như Lai

              Thân bên hữu hướng về Ngài,

       Đoạn vua rời khỏi nơi này ra đi ./-

 

        Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật  ( 3 L )

*  *  *

(  Chấm dứt  Kinh  số 90  :  KANNAKATTHALA   –

KANNAKATTHALA   Sutta  )




***
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
13/01/2018(Xem: 3936)
Đọc Thơ Tuyển của Cư sỹ Đào Văn Bình, Tình cờ chúng tôi có được tập sách Tổ Ấm Cuối Cùng, Thơ tuyển và Kịch bản, của cư sỹ Đào Văn Bình xuất bản năm 1987, gởi tặng cố Hòa thượng Thích Thiện Trì, chùa Kim Quang tại thủ phủ Sacramento, CA. Tập sách có hai phần: Phần 1 là Thơ tuyển mà tác giả cho biết là "Sáng tác ròng rã qua 9 năm lưu đày tù ngục và 1 năm phiêu linh qua các trại tỵ nạn". Phần 2 là Kịch bản Tổ Ấm Cuối Cùng (Sáng tác từ tại tỵ nạn Sungei Besi). Ở đây tôi chỉ viết cảm hứng của mình khi đọc vài bài thơ trong lúc bị tù đày của một cư sỹ lão thành luôn có tâm với đạo pháp và dân tộc.
12/01/2018(Xem: 4600)
Nhớ lại 3 năm trước, tôi đến Seattle vào một chiều Thu cuối tháng Mười. Vừa rời khỏi sân bay, cảm nhận đầu tiên của tôi đối với đô thị xa hoa có nhịp sống bận rộn này là cái se se lạnh của tiết trời đang độ giữa Thu. Trong tôi lúc đó vẫn còn nỗi bồn chồn lo lắng, tâm trạng của một người vừa xa quê, bước chân vào một đất nước xa lạ. Sự mát lạnh của khí trời như xoa dịu phần nào nỗi lo lắng trong tôi. Có lẽ đó là lý do vì sao tôi vẫn nhớ như in cảm xúc đầu tiên ấy, và dần dần, tôi nhận ra mình có cảm tình với mùa Thu ở Washington.
15/12/2017(Xem: 6277)
Hương Lúa Chùa Quê" Bản Tình Ca Quê Hương của nhị vị Hòa Thượng Thích Bảo Lạc và Thích Như Điển. Sau khi đọc tác phẩm “Hương Lúa Chùa Quê” chúng con không dám mong ước giới thiệu sự nghiệp văn học, văn hóa cả đạo lẫn đời của nhị vị Hòa Thượng. Vì công trình tạo dựng sự nghiệp của các bậc xuất sĩ không nằm trong “nguồn văn chương sáng tác”. Vì xuyên qua mấy chục năm hành đạo và giúp đời, nhị vị đã xây dựng nhiều cơ sở Phật giáo đồ sộ trên nhiều quốc độ khác nhau như: chùa Pháp Bảo tại nước Úc; chùa Viên Giác và Tu viện Viên Đức tại nước Đức. Nhị vị cũng đã mang ánh Đạo vàng đến khắp muôn nơi, soi sáng cho bước chân “người cùng tử” được trở về dưới mái nhà xưa, để thấy lại “bóng hình chân nguyên”; dẫn đường cho những người chưa thể “tự mình thắp đuốc lên mà đi” được tìm lại “bản lai diện mục”. Đó mới gọi là “sự nghiệp” của bậc xuât sĩ. Điều nầy đã có lịch sử ghi nhận từ mạch nguồn công đức biểu hiện và lưu truyền.
15/12/2017(Xem: 86891)
Trải hơn 25 thế kỷ, Chánh Pháp của Phật vẫn được tuyên dương và lưu truyền bởi hàng đệ tử xuất gia lẫn tại gia, đem lại giải thoát và giác ngộ cho những ai học hỏi và thực hành đúng đắn. Chánh Pháp ấy là thuốc hay, nhưng bệnh mà không uống thì chẳng phải là lỗi của thuốc. Trong kinh Di Giáo, đức Phật cũng ân cần huấn thị lần chót bằng những lời cảm động như sau: “Thể hiện lòng đại bi, Như Lai đã nói Chánh Pháp ích lợi một cách cứu cánh. Các thầy chỉ còn nỗ lực mà thực hành… Hãy tự cố gắng một cách thường trực, tinh tiến mà tu tập, đừng để đời mình trôi qua một cách vô ích, và sau này sẽ phải lo sợ hối hận.” Báo Chánh Pháp có mặt để góp phần giới thiệu đạo Phật đến với mọi người. Ước mong giáo pháp của Phật sẽ được lưu chuyển qua những trang báo nhỏ này, mỗi người sẽ tùy theo căn tánh và nhân duyên mà tiếp nhận hương vị.
15/12/2017(Xem: 136695)
Văn Hóa Phật Giáo, số 242, ngày 01-02-2016 (Xuân Bính Thân) Văn Hóa Phật Giáo, số 244, ngày 01-03-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 245, ngày 15-03-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 246, ngày 01-04-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 247, ngày 15-04-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 248, ngày 01-05-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 249, ngày 15-05-2016 (Phật Đản PL 2560) Văn Hóa Phật Giáo, số 250, ngày 01-06-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 251, ngày 15-06-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 252, ngày 01-07-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 253, ngày 15-07-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 254, ngày 01-08-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 255, ngày 15-08-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 256, ngày 01-09-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 257, ngày 15-09-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 258, ngày 01-10-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 259, ngày 15-10-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 260, ngày 01-11-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 261, ngày 15-11-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 262, ngày 01-12-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 263, ngày 15-12-2016
08/12/2017(Xem: 3985)
Đọc “Trúc Lâm Thiền Phái tại Huế” của Thích Tín Nghĩa, Nhân dịp Nguyên Giác và tôi ra mắt sách ở Chùa Bát Nhã, Nam California, Hòa Thượng Thích Tín Nghĩa- Viện Chủ Từ Đàm Hải Ngoại Irving, Texas không về dự được nhưng đã có thư cáo lỗi. Từ việc làm hết sức cẩn trọng và khéo léo đó, tôi sinh lòng cảm mến và làm quen với hòa thượng qua điện thư và được hòa thượng ưu ái tặng cho bốn cuốn sách của chính hòa thượng, bao gồm:
07/11/2017(Xem: 3694)
Nhà thấp nhất trong xóm. Mái tole. Cửa gỗ. Sàn gác gỗ sao. Nó khiêm tốn lọt thỏm giữa những ngôi nhà cao tầng khang trang, kiên cố với beton cốt thép, cửa sắt, cửa kính chịu lực... Diện tích gian dưới của căn nhà cấp 4 này chỉ 24 mét vuông, chia thành hai gian, bếp và nhà vệ sinh chiếm hết gần một nửa, còn lại chừa cho gian phòng khách chật chội với bàn ghế, divan, tủ sách, chỗ để hai chiếc xe máy... Vậy mà vào lúc sáng sớm, khi cơn bão Damrey dữ tợn bắt đầu đổ bộ vào đất liền, hung hăng sấn vào lòng thành phố biển Nha Trang, căn nhà khiêm tốn trong hẻm nhỏ này là nhà duy nhất mở cửa để đón nhận 15 người khách lỡ đường chui vào nương trú để tránh bão. Duy nhất. Vì mọi nhà xung quanh đều đã cửa đóng then cài kín bít từ đầu tối hôm trước.
05/11/2017(Xem: 24402)
Cách Đọc Tên và Phát Âm 23 Chữ Cái, Hiện nay tại Việt Nam cách gọi tên và cách phát âm 23 mẫu tự tiếng Việt vô cùng lộn xộn. Thí dụ: Trên chương trình Thời Sự Quốc Phòng, thiết vận xa M.113 có cô đọc: em mờ 113. Có cô đọc mờ 113. -Chữ N có nơi đọc: en nờ (âm nờ hơi nhẹ). Có nơi đọc nờ.
12/10/2017(Xem: 11448)
Viết về anh Bùi Giáng là một việc làm cần lòng can đảm. Thậm chí cần rất nhiều can đảm, có khi phải nói nôm na là liều mạng mới dám viết. Những người có thời gần gũi và thương mến anh ai cũng có lần cảm nhận điều đó. Anh thích người ta đọc sách anh, thưởng thức thơ văn anh, nghiền ngẫm tư tưởng của anh. Nhưng ngược lại anh hay nổi nóng nếu ai hiểu sai ý anh. Anh rất giận khi có ai viết sai một chữ, kể cả sai một dấu phẩy, những câu thơ của anh. Có rất nhiều khi anh cho đó là một sự xuyên tạc có hậu ý. Dù sao, anh và tôi đã từng sống chung gần ba năm trời ở Vạn Hạnh chả lẽ không có gì để nói, lâu nay tuy rất muốn viết nhưng tôi vẫn cố tránh, cho đến khi có người nhắc.
13/08/2017(Xem: 6594)
Cách đây ít lâu, một nhóm Phật tử tại Hà Nội sang Đài Loan đảnh lễ Pháp sư Tịnh Không, được ngài ban cho một bộ sách gồm 7 quyển, ân cần dặn dò nên tìm người dịch sang tiếng Việt để lưu hành rộng rãi. Bộ sách ấy có tên là Thánh học căn chi căn (聖學根之根), với ý nghĩa là những nền tảng căn bản nhất trong cái học được các bậc thánh nhân từ xưa truyền lại. Sách do cư sĩ Nhân Duyên Sinh tuyển soạn từ kinh sách của cả Nho giáo, Lão giáo và Phật giáo, nhằm mục đích hình thành một bộ sách giáo khoa thích hợp và bổ ích nhất cho các em ở độ tuổi thiếu niên, nhi đồng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]