Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

01-Ðạo Phật

28/01/201109:41(Xem: 8942)
01-Ðạo Phật

BƯỚCÐẦU HỌC PHẬT
HòathượngThích Thanh Từ
PhậtLịch 2541-1998

ĐẠOPHẬT

I.-MỞÐỀ

Chúngsanhđang chìm đắm trong biển khổ sanh tử, dong thuyền racứu vớt họ là sự ra đời của đạo Phật. Ðêm tối vôminh che phủ tất cả chúng sanh, cầm đuốc sáng soi đườngcho họ là trách nhiệm của đạo Phật. Ðạo Phật đến vớichúng sanh trong một niềm khát vọng vô biên, một sự trôngchờ tột độ. Nhưng, con thuyền có giá trị cứu mạng khinào người sắp chết chìm biết bám lấy nó. Ngọn đuốclà một cứu tinh, khi nào những kẻ lạc đường trong đêmtối khao khát muốn ra. Con thuyền và ngọn đuốc sẽ vô bổ,nếu những kẻ sắp chết chìm và người lạc trong đêm tốichấp nhận cái gì mình đang chịu. Cũng thế, đạo Phật sẽvô ích với những chúng sanh chấp nhận sanh tử và an phậntrong vô minh. Vì thế, đạo Phật có mặt trên thế giới nàyđã hơn hai ngàn năm trăm năm, còn biết bao nhiêu người nhìnnó với cặp mắt xa lạ. Song những kẻ đã nếm được phápvị, thấy công đức của đạo Phật đối với mình vô vànkhông sao kể hết. Thật đúng với câu "Phật hóa hữu duyênnhân".

II.-ÐỊNH NGHĨA

Ðứngvề hành động, đạo Phật là con đường đưa người trởvề cố hương giác ngộ. Hoặc đạo Phật là phương phápgiúp người tiến tu đến giác ngộ. Ðứng về thực thể,đạo Phật là tánh giác sẵn có của tất cả chúng sanh.

Nhữngkẻ phiêu lưu ở tha phương viễn xứ ước mơ khao khát trởvề cố hương, đạo Phật là tấm bản đồ vẽ rõ con đườngtrở về cố hương, do bàn tay của người đồng cảnh ngộđã trở về đến tận quê nhà, đức Thích-ca Mâu-ni. Nếuý thức được cảnh khổ của người xa quê, một lòng quyếtchí trở về cố hương được người trao tay cho tấm bảnđồ, biết rõ con đường về quê thì còn sung sướng nàohơn. Không cam chìm sâu trong đêm tối vô minh, người cươngquyết tiến lên con đường giác ngộ, nắm vững những phươngtiện tiến tu, chắc chắn sớm chiều sẽ được mãn nguyện.

Ðứngtrên bờ biển thấy toàn biển đều là sóng, bởi cơn giómạnh, người ta ngơ ngác không biết làm sao tìm ra nước biển.Nếu đây là sóng thì nước biển ở đâu ? Những lượn sóngđuổi nhau lặn hụp hò hét ầm ì, mặt biển là những cáibiến động ấy sao? Người sáng suốt nghe thế, bảo họ rằng:"Chính sóng ấy tức là nước", "cái biến động kia chỉ làhiện tượng của mặt biển tĩnh lặng". Hãy ngay nơi sóng,chúng ta nhận ra nước, trên cái biến động biết đượcthể tịnh. Hiện tướng vô minh và tánh giác cũng thế.

Tấtcả những vọng tưởng điên đảo là hiện tướng vô minh,vọng tưởng lặng lẽ là tánh giác thanh tịnh.

Tuyhai tên hai tướng khác nhau, song không thể rời vô minh tìmđược tánh giác, như sóng với nước. Tánh giác là cái thểchẳng sanh chẳng diệt của mỗi con người chúng ta, hằngtàng ẩn trong con người vô thường sanh diệt này, như thểtĩnh lặng của mặt biển sẵn có trên tướng biến độngầm ì. Bởi chúng sanh sẵn có tánh giác mà quên, nên đứcThích-ca thương xót giáo hóa chỉ dạy cho thức tỉnh, đólà đạo Phật.

Chủyếu của đạo Phật là giác ngộ, nên được biểu trưngbằng phóng quang, ngọc minh châu, cây đuốc, ngọn đèn. Nóiđến đạo Phật là nói đến giác ngộ; mọi hình thức mêtín hiện có trong đạo Phật, do người sau ứng dụng sai lầm,chớ không phải thực chất của đạo Phật.

III.-LÝ THUYẾT

Phầnlý thuyết của đạo Phật rất phong phú, nói chung là Tam Tạnggiáo điển, gồm Tạng Kinh, Tạng Luật và Tạng Luận. TamTạng này hiện ấn hành có hai văn hệ: Pali Tạng, Hán Tạng.Pali Tạng thuộc Nam truyền Phật giáo, Hán Tạng thuộc Bắctruyền Phật giáo. Ở đây, chúng tôi nói về hệ thống HánTạng. Bộ Hán Tạng hiện do Nhật Bản và Ðài Loan ấn hànhgồm trên năm ngàn quyển. Thật là một kho tàng văn hóa dồidào, chính những người tu sĩ Phật giáo cũng chưa chắc đãđọc hết. Trong ba Tạng, quan trọng nhất là tạng Kinh, vìtạng Luận là giải thích lại tạng Kinh, còn tạng Luật nóirõ về nghi thức luật lệ của người tu. Trong tạng Kinh tổngquát chia làm ba phần : hệ thống A-hàm, hệ thống Bát-nhã,hệ thống Pháp Hoa, Niết-bàn, Hoa Nghiêm. Hệ thống A-hàm giảithích về triết lý vô thường, khổ, không, vô ngã. Hệ thốngBát-nhã giải thích tự tánh các pháp là Không, chỗ tánh Khôngấy là tướng chân thật. Hệ thống Pháp Hoa, Niết-bàn, HoaNghiêm giải thích chúng sanh sẵn có tánh giác gọi là Trítuệ Phật, Tri kiến Phật, Niết-bàn.

Tuynhiên, vì truyền bá lâu xa khó tránh khỏi những tư tưởngtập tục sai lầm chen lẫn trong chánh pháp. Chúng ta muốn phánđịnh chánh tà, trong kinh có dạy dùng Tứ pháp ấn, Tam phápấn, Ðệ nhất pháp ấn để ấn định đúng sai. Tứ phápấn là vô thường, khổ, không, vô ngã. Tất cả những kinhthuộc hệ thống A-hàm nói không ngoài bốn lý này, nếu nóikhác bốn lý này là tà thuyết. Tam pháp ấn là chư hạnh vôthường, chư pháp vô ngã, Niết-bàn tịch tịnh. Ðây là trùmcả Tiểu thừa lẫn Ðại thừa đều nằm gọn trong ấy. Ðệnhất pháp ấn là nhất tâm chân như. Phần này chỉ riênghệ thống Pháp Hoa..., không can hệ đến hai hệ thống kia.Nắm được cái căn bản này, chúng ta tạm biết cương yếuhọc Phật.

Phầnlý thuyết của đạo Phật khác hẳn với thuyết lý của nhữngtriết gia, học giả khác. Bởi vì họ dùng suy tư nghĩ tưởngbiện thuyết, còn đây do đức Phật sau khi giác ngộ thấylẽ thật như thế, tùy hoàn cảnh trường hợp đem ra chỉdạy cho người. Người khéo ứng dụng lời Phật dạy vàocuộc sống sẽ được kết quả tốt đẹp, hoàn toàn khônghọa hại. Cho nên, trong kinh nói "lời Phật nói trước, giữa,sau đều thiện".

IV.-THỰC HÀNH

?ngdụng phần lý thuyết trên vào cuộc sống hiện tại, sẽđược kết quả tùy theo khả năng phương pháp mình thựchành. Sự thực hành có chia nhiều thứ bậc: Ngũ thừa, Tamthừa, Nhất thừa. Chữ thừa ở đây ví dụ cỗ xe chở ngườiđi. Từ vị trí con người chở đến con người là Nhân thừa.Từ vị trí con người chở đến quả vị chư thiên gọi làThiên thừa. Từ vị trí con người chở đến quả vị Thanhvăn gọi là Thanh văn thừa. Từ vị trí con người chở đếnquả vị Duyên giác gọi là Duyên giác thừa. Từ vị trí conngười chở đến quả vị Bồ-tát gọi là Bồ-tát thừa.Ðó gọi là Ngũ thừa. Bỏ hai phần Nhân thừa và Thiên thừacòn lại ba thừa sau gọi là Tam thừa. Từ vị trí con ngườiphàm phu chở thẳng đến quả vị Phật gọi là Phật thừahay Nhất thừa.

Từvị trí con người đến vị trí con người mai hậu là, ứngdụng tu hành Tam qui ngũ giới và những nề nếp sống hiềnlành chân thật của con người. Từ vị trí con người đếnquả vị chư Thiên, ứng dụng pháp Thập Thiện vào đời sốngtu hành và thiền định từ Sơ thiền đến Tứ thiền. Từvị trí con người đến quả vị Thanh văn, ứng dụng phápTứ đế để tu hành. Từ vị trí con người đến quả vịDuyên giác ứng dụng pháp Thập nhị nhân duyên tu hành. Từvị trí con người đến quả vị Bồ-tát ứng dụng pháp Lụcđộ tu hành. Từ vị trí con người phàm phu thẳng đến quảvị Phật ứng dụng phương pháp "tức tâm là Phật" tu hành.Ví như chúng ta muốn đi đến vị trí nào, khi ra bến xe liềntìm xe đi về vị trí ấy leo lên, sẽ đưa chúng ta đi đếnđích như chỗ mong muốn. Ð?o Phật cũng thế, tùy theo sởthích của người mà lập nhiều pháp môn, ưng pháp môn nàoứng dụng tu hành đều kết quả đúng như sở nguyện. Ðólà phương tiện tùy cơ của đức Phật trên phương pháp giáohóa chúng sanh. Nếu nói thẳng bản hoài của Ngài, chỉ muốnchúng sanh thành Phật là mục tiêu duy nhất.

ÐaoPhật truyền sang Trung Quốc lại chia thành nhiều tông phái,mỗi tông phái y cứ trên những bộ Kinh hay Luận làm chủyếu cho sự tu hành. Nếu nói rộng có cả thảy mười tông,nói hẹp theo sự truyền bá hiện tại có bốn tông. Hiệnnay còn bốn tông đang lưu hành là Thiên Thai tông, Thiền tông,Mật tông, Tịnh độ tông. Phật giáo Việt Nam chịu ảnh hưởngPhật giáo Trung Quốc, sự lưu hành các tông phái cũng tươngtợ Trung Quốc.

V.-TRUYỀN BÁ

Ởđây nói truyền bá là đi thẳng vào phương pháp, không căncứ trên lịch sử. Những lời dạy của đức Phật đượcgọi là Kinh, bởi hai lý do: hợp lý và hợp cơ. Một chânlý dù cao siêu đến đâu, nếu không ứng dụng được vàocuộc đời, chân lý ấy trở thành không nền tảng, chỉ lơlửng trên không trung. Chân lý không áp dụng được cho ngườisẽ là vô ích. Truyền bá sự vô ích thật là làm một điềuvô nghĩa. Lời Phật dạy đúng chân lý gọi là hợp lý, songlời dạy ấy cũng phải hợp căn cơ trình độ của con ngườiđương thời thì họ ứng dụng mới được. Hợp lý hợpcơ là hai điều kiện không thể thiếu trên phương diện truyềnbá. Nếu chỉ dạy thích hợp sự ưa thích của người màkhông có chân lý sẽ đưa đến mê tín và tội lỗi. Mộttrọng trách của người truyền bá, phải nhận định sángsuốt, để không bị lỗi thời hay sai chân lý. Chính đâylà ý nghĩa "tùy duyên mà bất biến" của tinh thần Ðại thừa.Bất biến là hợp lý, tùy duyên là hợp cơ. Thật là mộthình ảnh linh động đi vào cuộc đời của chánh pháp. Ngườitruyền bá chánh pháp lúc nào cũng linh động mà không sai chânlý. Bởi cuộc đời là một dòng biến thiên, mỗi thời đềumỗi khác, chúng ta không thể mang hình thức cổ lỗ đi vàothời đại văn minh. Làm thế, chỉ chuốc sự chán chê củathiên hạ, không lợi gì cho mình, cho chánh pháp cả. Cũng khôngthể mang hình thức rất hợp thời trang, mà bỏ mất chânlý. Tùy duyên mà bất biến, quả là chân lý ngàn đời củangười đi ra giáo hóa.

Lạinữa, con người sống lúc nào cũng dung hòa giữa tình cảmvà lý trí. Tình cảm là quả tim, lý trí là khối óc. Quảtim và khối óc phải nhịp nhàng hòa điệu thì con ngườimới thanh thản an vui. Nghiêng một bên nào cũng làm mất thăngbằng, khiến con người dễ mất bình thường. Ðạo Phậtmuốn còn mãi trên nhân gian với con người, sự truyền bácũng phải làm thỏa mãn hai phần ấy. Ðể thỏa mãn phầnkhối óc, người truyền bá chánh pháp phải thường giảngdạy Kinh Luận cho Phật tử nghe. Thấm nhuần triết lý caosiêu của Phật giáo, người Phật tử mới khỏi nghi ngờkhi nghe một lý thuyết khác. Sự tu hành vững chãi, cũng nhờhiểu thấu giáo lý siêu thoát của Phật dạy. Giáo lý làngọn đuốc sáng đưa người ra khỏi rừng vô minh u tối.Có sẵn trong tay ngọn đuốc sáng, người Phật tử chắc chắnsẽ thoát khỏi rừng mê. Ðể thỏa mãn con tim, những hìnhthức nghi lễ tán tụng ở nhà chùa, giúp người Phật tửniềm tin được sung mãn. Những buổi lễ tại chùa đều cómang tính chất tín ngưỡng, phổ nhạc trong những lời tụngtán đều là đi thẳng vào tình cảm của con người. Tuy chưahiểu gì về Phật pháp, chỉ đến chùa tụng một thời kinh,người ta cũng thấy lòng được nhẹ nhàng lâng lâng. Hoặcnhững đêm khuya tĩnh mịch, những lời tụng tán thâm trầmhòa với tiếng khánh tiếng mõ nhịp nhàng, khiến người nghetâm hồn dường như bay bổng trên không trung. Tuy nhiên nhưthế, hai phần lý trí và tình cảm đều phải quân bình nhau,lệch một bên đều là khuyết điểm lớn. Nếu chỉ có lýtrí mà thiếu tình cảm trở thành khô khan. Nếu chỉ có tìnhcảm mà thiếu lý trí trở thành mê tín. Người truyền giáophải khéo léo quân bình hai điều này.

VI.-KẾT LUẬN

ÐạoPhật có mặt ở thế giới này đã trên hai mươi lăm thếkỷ, sự truyền bá này quả thật lâu dài. Sở dĩ đượcnhư thế, do Phật giáo là chân lý không lý thuyết nào bẻgãy nổi, người tu hành theo Phật giáo được kết quả lợiích thiết thực không nghi ngờ, phương pháp truyền bá củaPhật giáo rất linh động. Chúng ta hữu duyên hữu phướcmới được gội nhuần chánh pháp, đừng cô phụ phước duyêncủa mình, mỗi chúng ta phải nỗ lực tiến tu. Có thưởngthức được pháp vị rồi, chúng ta mới tùy duyên lợi íchkẻ sau. Làm thế nào cho ngọn đèn chánh pháp nối tiếp mãikhông tắt trên cõi thế gian này. Ðền ơn Phật tổ khônggì hơn cứu độ chúng sanh. Sự cứu độ thực tế nhất,phải ngay cõi đời này, với những người có mặt hiện nay,khiến họ chuyển mọi khổ đau trở thành an lạc. Phật giáokhông phải cái gì xa vời, không phải sự ước mơ viển vông,mà hiện tại thực tế. Nhận định như thế, mới có thểđem đạo Phật vào cuộc đời một cách hữu hiệu.



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
18/01/2015(Xem: 5372)
Khi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thành đạo dưới cội bồ đề, thời gian đầu Ngài chần chờ không muốn truyền bá giáo pháp. Đến khi chư Thiên xuống đảnh lễ, cầu xin Ngài nên vì chúng sanh mà lập bày phương tiện giáo hóa. Lúc trước đọc sử tới đoạn này tôi hơi ngạc nhiên. Vì Đức Phật phát thệ nguyện lớn, thị hiện nơi đời để độ chúng sanh, sao bây giờ thành Phật rồi, Ngài không chịu đi truyền bá Chánh pháp, đợi năn nỉ mới chịu thuyết pháp.
15/01/2015(Xem: 12959)
Con xin thành kính đảnh lễ và tri ân: -Đức Đạt Lai Lạt Ma,và Hòa Thượng Lhakor cùng Thư Viện Tây Tạng đã hoan hỷ cho phép con được chuyển dịch nguyên tác “The Way to Freedom” từ Anh Ngữ sang Việt Ngữ.
05/01/2015(Xem: 18919)
Các soạn và dịch phẩm của cư sĩ Hạnh Cơ - Tịnh Kiên - Mười Vị Đệ Tử Lớn Của Phật (dịch từ tác phẩm Thập Đại Đệ Tử Truyện, nguyên tác Hoa văn của Tinh Vân pháp sư, nhà xuất bản Phật Quang, Đài-bắc, ấn hành năm 1984) Chùa Khánh Anh (Paris) in lần 1, năm 1994 Tu viện Trúc Lâm (Edmonton) in lần 2, năm 1999 (có thêm phần “Phụ Lục” do dịch giả biên soạn) Ban Phiên Dịch Pháp Tạng Phật Giáo Việt Nam (Nha-trang) in lần 3, năm 2004 Chùa Liên Hoa và Hội Cư Sĩ Phật Giáo Orange County (California) in lần 4, năm 2005 - Lược Giải Những Pháp Số Căn Bản Làng Cây Phong (Montreal) in lần 1, năm 1996 Ban Bảo Trợ Phiên Dịch Pháp Tạng Việt Nam (California) in lần 2 (có bổ túc và sửa chữa), 2008 - Giấc Mộng Đình Mai của Nguyễn Huy Hổ (tiểu luận) Làng Cây Phong (Montreal) in lần 1, năm 2001 - Bộ Giáo Khoa Phật Học (dịch từ bộ Phật Học Giáo Bản – sơ cấp, trung cấp, cao cấp – nguyên tác Hoa văn của Phương Luân cư sĩ, Linh Sơn Xuất Bản Xã, Đài-bắc, ấn hành năm 1996) * Giáo Khoa Phật Học
22/11/2014(Xem: 28110)
Có người khách mang đến cho tôi một gói quà. Bên trong là hai quyển sách: Đất nước Cực lạc, Ánh sáng và bóng tối. Tác giả: Liên Hoa Bảo Tịnh. Khoảng thời gian sau này, tôi có rất ít điều kiện để đọc thêm được những sách mới, nên không ngạc nhiên nhiều lắm với tác giả lạ. Dẫu sao, trong tình cảnh ấy mà được đọc những sách lạ, nhất là được gởi từ phương trời xa lạ, thì cũng thật là thú vị. Rồi càng đọc càng thú vị. Một phần vì có những kiến giải bất ngờ của tác giả, về những điểm giáo lý mà mình rất quen thuộc. Quen thuộc từ khi còn là một tiểu sa-di. Nhưng phần khác, thú vị hơn, khi biết rằng Liên Hoa Bảo Tịnh cũng là Đức Hạnh – đó là chú XUÂN KÝ, một thời ở Già-lam cùng với chú Sỹ.
20/10/2014(Xem: 33027)
Đa số Phật tử Việt Nam thường chỉ học hỏi Phật pháp qua truyền thống Trung Hoa; ít ai để ý đến sự sai biệt căn để giữa khởi nguyên của Phật giáo từ Ấn Độ và những khai triển của Trung Hoa. Người Ấn vốn có thái độ coi thường lịch sử; “bởi vì chư thiên yêu thương cái gì tăm tối”*, họ đẩy tất cả những gì xảy ra lui vào bóng tối mịt mù của thần thoại. Riêng Phật tử Ấn cổ thời, với lý tưởng cứu cánh là Niết Bàn, mọi biến cố lịch sử cũng không bận tâm cho lắm. Ngược lại, người Trung Hoa có thái độ lịch sử một cách xác thiết.
18/08/2014(Xem: 58366)
108 lời dạy của Đức Đạt-lai Lạt-ma được gom góp trong quyển sách tuy bé nhỏ này nhưng cũng đã phản ảnh được một phần nào tư tưởng của một con người rất lớn, một con người khác thường giữa thế giới nhiễu nhương ngày nay. Thật vậy tư tưởng của Ngài có thể biểu trưng cho toàn thể lòng từ bi và trí tuệ Phật Giáo trên một hành tinh mà con người dường như đã mất hết định hướng. Các sự xung đột không hề chấm dứt, con người bóc lột con người, giết hại muôn thú và tàn phá thiên nhiên. Phật giáo thường được coi như là một tín ngưỡng nhưng những lời khuyên của Đức Đạt-lai Lạt-ma trong quyển sách này vượt lên trên khuôn khổ hạn hẹp của một tôn giáo: - "Mỗi khi phải đề cập đến các vấn đề tâm linh thì không nhất thiết là tôi buộc phải nói đến các vấn đề liên quan đến tôn giáo (câu 87).
16/06/2014(Xem: 15849)
Tam quy và Ngũ giới là nền tảng xây dựng đạo đức nhân bản vững chắc trong tiến trình tu tập tiến đến Phật quả của người Phật tử. Bất cứ ai muốn trở thành một người Phật tử chơn chánh, điều kiện trước tiên là phải quy y Tam bảo và thọ trì năm giới cấm. Đây là cánh cửa khai thông đầu tiên để người Phật tử bước chân vào đạo Phật. Muốn thực tập con đường "Hiểu" và "Thương" cho có hiệu quả thiết thực, thiết nghĩ, ngoài con đường "Tam quy và Ngũ giới" ra, hẳn là không có con đường nào khác để chúng ta chọn lựa. Có hiểu và thương thì chúng ta mới có thể tiến đến xây dựng hạnh phúc cho bản thân, gia đình và xã hội. Là con người không ai lại không muốn đời mình luôn được an vui và hạnh phúc. Không ai muốn đời mình phải chịu nhiều đắng cay hệ lụy đau khổ bao giờ. Sự chọn lựa một lối đi cho thích hợp với đời sống tâm linh của mình thật hết sức quan trọng.
21/01/2014(Xem: 22182)
Đọc bản dịch Cảnh Đức Truyền Đăng Lục của anh Lý Việt Dũng, tôi không khỏi thán phục khi biết sức khỏe anh rất kém mà vẫn phấn đấu kiên trì để hoàn thành dịch phẩm khó khăn này một cách đầy đủ chứ không lược dịch như ý định ban đầu.
21/12/2013(Xem: 7076)
Đây là danh từ Phật học nên không thể tìm thấy trong những từ điển thông thường thuộc các ngành khoa học tự nhiên hay cũng không thể tìm thấy trong các từ điển thuộc về khoa học xã hội, Kinh tế , văn học, triết học, tôn giáo học… Trong tự điển tiếng Việt của Viện Khoa Học Xã Hội và Viện Ngôn Ngữ Học Việt Nam vẫn không tìm thấy từ nầy.
20/12/2013(Xem: 36403)
THIỀN, được định nghĩa, là sự tập-trung Tâm, chú ý vào một đối tượng mà không suy nghĩ về một vấn đề nào khác. Tôi chia THIỀN làm hai loại, Thiền giác ngộ (Meditation for Enlightenment) và Thiền sức khỏe (Meditation for Health). Tập sách nầy chỉ bàn về Thiền sức khỏe mà thôi.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]