Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

12. Đức Phật nói gì về tiềm năng của con người - Thích Nữ Đồng Anh

16/05/201316:38(Xem: 2357)
12. Đức Phật nói gì về tiềm năng của con người - Thích Nữ Đồng Anh


Tuyển tập

Phật Thành Đạo

Nhiều tác giả
--- o0o --- 

Phần II

Tưởng niệm Phật Phật thành Đạo
và niên đại của Ngài

--- o0o ---

ĐỨC PHẬT NÓI GÌ VỀ TIỀM NĂNG CỦA CON NGƯỜI

Thích Nữ Đồng Anh

Khả năng tiềm tàng kỳ diệu chói sáng rực rỡ của mỗi chúng sanh, nay đã được Đức Phật, người đầu tiên trong lịch sử loài người, chứng minh và chỉ rõ. Đó là Phật tánh, là khả năng thành Phật hay nói đúng hơn là sự trở về với nguồn tâm tuệ giác, là sự nhận diện về “Bản lai diện mục” của chính mình.

Phải chăng trong quá trình tu chứng của Đức Phật, Đức Phật lịch sử của nhân loaị đã nói lên lòng tự tín rằng con người có một kho tàng vô tận tiềm ẩn; đó là khả năng nhận chân được sự vật (dharma), khả năng thẩm thấu nguyên nhân sinh diệt của các pháp để từ đó vượt qua được tất cả thú vui vật chất tạm bợ của cuộc đời. Cái mà dính vào nó thì vui ít khổ nhiều. Chính vì vậy mà Bồ-tát Tất-đạt-đa ngày đêm nỗ lực không hề chán nản với mục đích vì lòng từ bi đối với tất cả chúng sanh.

Suốt trong sáu năm khổ hạnh Ngài đã cho con người bài học về sự nhẫn nại, sự nỗ lực và tình thương của Ngài đôí với chúng sanh. Và khi từ bỏ hai cực đoan là lợi dưỡng và khổ hạnh, mà Ngài cho rằng không thích hợp và không mang lại lợi ích cho người tịnh hạnh. Ở đây nói lên sự sáng suốt của Ngài, có một sự quán sát tinh tường của Ngài. Vì vậy Ngài vẫn chấp nhận tất cả những gì thử thách đối với Ngài. Và Ngài ngày đêm nỗ lực và nỗ lực... Thật cảm động biết bao!

Và quả thật Ngài đã chứng minh được tiềm năng vĩ đại của con người. Ôi! trong lúc sao mai vừa mọc, và chắc chắn trời đất chuyển rung, nhạc trời trổi dậy, muôn hoa bừng nở đón mừng một vị Phật ra đời cứu độ tất cả chúng sanh đang chìm đắm trong biển mê.

Ngài đã dựng đứng lại những gì bị quăng bỏ, bị quên lãng. Đó là khả năng tiềm tàng trong mỗi chúng sanh cái có thể gọi là ”Phật tánh” hay khả năng trí giác thẩm thấu thật tánh của các pháp. Và chính vì lòng từ bi vô lượng đối với chúng sanh mà Ngài không dấu diếm điều gì trong sự kinh nghiệm tu tập của mình, sự thấy biết chân thật về các pháp của nhân sinh vũ trụ. Ngài mạnh dạn tuyên bố: “nguồn gốc thế gian và con đường dẫn đến sự chấm dứt thế gian đều nằm trong tấm thân một trượng nầy, cùng với tri giác và tư tưởng.”[1]Nghĩa là thế gian vốn là đau khổ. Do đó, chấm dứt hay tiêu diệt thế gian là chấm dứt khổ não tức là Niết-bàn vậy.

Rõ ràng Ngài đã xác chứng Niết-bàn có được trong kiếp sống nầy, trong cộc đời nầy, hạnh phúc chân thực ngay trong hiện tại nầy nếu con người thật sự muốn đạt được nó, với sự nỗ lực ngày đêm, và lấy Giới- Đinh -Tuệ làm nền tảng hay lấy Bát Chánh Đạo để diệt trừ tham sân si, đoạn tận ái dục, đi trên con đường Trung Đạo và hẳn nhiên vị ấy với lòng từ bi vô lượng trong chí ngyện cao cả đối với tất cả chúng sanh một cách bình đẳng.

Có thể nói Đức Phật là tấm gương chói sáng về sự nỗ lực của chính mình dành cho nhân loại và đặc biệt là cho những ai muốn đi trên con đường an ổn nhất, và thật có được hạnh phúc như mình mong muốn, chắc chắn nó không phải nhờ ở sự van xin cầu lụy ở người nào khác hơn ở sự tinh tấn nỗ lực của chính mình. Đức Phật luôn luôn nhắc nhở con người rằng: Hãy tự xem mình là hải đảo của chính mình. Hãy tự xem mình là nơi nương tựa của chính mình, không nên tìm nương tựa nơi ai khác.[2]Và Ngài luôn thiết tha căn dặn rằng: các ngươi hãy tự mình nỗ lực. Đấng Như Lai chỉ là Bậc Đạo Sư.[3]

Thật vậy cố gắng cá nhân là yếu tố cuối cùng để thành tựu mục tiêu. Sự thành tựu đạo quả giác ngộ vĩ đại của Đức Phật đã làm cho nhân loại bừng tỉnh sau đêm dài mộng mị, bỏ đi sự tự ti mặc cảm của chính mình và có thể nói đầy tự hào về sự có mặt của mình trong kiếp người với nhiều thuận duyên trong cuộc đời nầy. Nhất là được gặp Phật Pháp, được học hỏi về bài học “làm người” từ bậc vĩ nhân để lại. Ngôi nhà chánh pháp của Người không có một sự phân chia, kỳ thị về chủng tộc, màu da, về giai cấp cao thấp, giàu nghèo, sang hèn, nam nữ, già trẻ. Ngài đối với tất cả chúng sanh bằng một tình thương bình đẳng, Ngài muốn tất cả chúng sanh đều được sống trong tình thương vô bờ ấy và chỉ cho phương pháp để tự mình có thể vượt thoát khỏi mọi khổ đau và đến được mục tiêu tối thượng. Ngài dạy: “khi tự mình làm điều tội lỗi thì tự mình làm ô nhiễm; khi ta tránh điều tội lỗi thì lúc đó chỉ có ta gội rửa cho ta. Trong sạch hay nhiễm ô là tự nơi ta, không có ai có thể làm cho người khác trở nên trong sạch.” (Kinh Pháp Cú).[4]

Thật vậy, giáo pháp của Ngài rực rỡ, chói sáng vì nó hoàn toàn vượt ra tất cả sự nô lệ về tinh thần, hoàn toàn chỉ có tự do lựa chọn và quyết định đời mình theo ý chí mình. Với Ngài đẳng cấp cao thấp, sang hèn là do hành động của mỗi người, mỗi chúng sanh chịu trách nhiệm về hành động của chính mình chứ không có giai cấp nào làm nên được. Trong kinh Tăng Chi (Anguttara Nikaya), đại ý của lời Ngài khuyên bảo dân Kalama rất cảm động, sâu sắc và rất trí tuệ. Ngài khuyên không làm nô lệ dưới bất cứ hình thức nào, tất cả bằng sự quan sát, nhận xét của mình những gì nên làm, nên theo, những gì không nên làm, không nên theo và có lợi ích an vui cho mình, cho người hay không. Chứ không thể nào mù quáng tin theo vì bất cứ lý do nào khác.

Do vậy, trong sự thành lập giáo hội Tăng lữ của đức Phật, có lẽ không ai mà không thấy được sự khoan dung độ lượng của Ngài; Ngài tiếp nhận tất cả tầng lớp trong xã hội, trên từ bậc vua quan và thứ dân cùng đinh hạ tiện, cả tên cướp sát nhân như Angulimala cho đến hạng gái giang hồ như Ambapali cũng được Ngài cứu độ và dạy cho cách tự làm trong sạch chính mình, an lạc chính mình bằng chánh đạo.

Và đặc biệt, ở đây, có thể nói lòng từ bi của Đức Phật ưu tiên nâng đỡ cho hàng nữ giới, bởi Ngài nhận thấy nữ giới tay yếu, chân mềm . . . luôn cần được nhiều sự hỗ trợ. Đây là điều diễm phúc và đáng vui mừng nhất cho giới nữ, vì cũng như người nam, người nữ có khả năng chứng ngộ chân lý một cách bình đẳng.

Đây là niềm khích lệ lớn, niềm tự hào lớn không dành cho bất cứ ai mà đây chính là tiềm năng vĩ đại của con người được chính con người phát hiện. Quả đúng thật như vậy, không ai có thể phủ nhận về sự chứng ngộ chân lý của Đức Phật lịch sử của nhân loại, đấng Sakyamuni. Chính sự chứng ngộ lịch sử đó là niềm tự hào lớn cho nhân loại và cho tất cả chúng sanh. Chỉ có hành động tạo tác sai khác của chính mình và sự nắm bắt sai lạc của chính mình để rồi đắm chìm trong biển mê, rồi quên cả lối về, không nhận ra mình là ai, như chàng cùng tử với hạt châu trong chéo áo mà phải lang thang dong ruỗi ngược xuôi !

Phải chăng cái khả năng tiềm tàng kỳ diệu chói sáng rực rỡ của mỗi chúng sanh nay đã được Đức Phật là người đầu tiên trong lịch sử loài người, chứng minh và chỉ rõ. Đó là Phật tánh, là khả năng thành Phật hay nói đúng hơn là sự trở về với nguồn tâm tuệ giác, là sự nhận diện về “Bản lai diện mục” của chính mình.

Do vậy mà Ngài hoàn toàn thoát ra khỏi bất cứ hình thức chấp thủ nào, Ngài thong dong tự tại trong thể tánh thường tịch chiếu. Đó là những gì mà Đức Phật nói về tiềm năng con người. Đây cũng chính là điều khiến cho nhân loại nghĩ về chính mình trong thế kỷ 21 nầy, để lợi ích lớn cho mình, người và chúng sanh.


[1]S. I. 62.

[2]D. II. 100.

[3]Kinh Pháp Cú, kệ 276.

[4]Kinh Pháp Cú, kệ 165.

--- o0o ---


Chân thành cảm ơn Đại Đức Nhật Từ đã gởi tặng phiên bản điện tử tuyển tập này.

--- o0o ---

Vi tính: Hải Hạnh - Giác Định

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
29/03/2013(Xem: 3810)
Trong Việt Nam Phật Giáo sử luận, tập một, khi bàn về sự liên hệ giữa thiền và thi ca, giáo sư Nguyễn Lang viết: “Thi ca không có hình ảnh thì không còn thi ca nữa, cũng như đi vào lý luận siêu hình thì thiền không còn có thể là thiền nữa”
14/12/2012(Xem: 6902)
Bản-thể-của-Phật còn gọi là Như Lai Tạng, Phật Tính, Pháp Giới, Chân Như... (tiếng Phạn là Tathagatagarbha), là một khái niệm quan trọng của Đại Thừa Phật Giáo.
19/06/2012(Xem: 6532)
Những khi mà tâm hồn tôi bị hoang mang và dao động trước những thống khổ của con người do chính con người gây ra, những lúc đó tự nhiên những câu thơ của Bùi Giáng, những câu thơ mà một thời tôi đã từng say sưa đọc lại có dịp sống dậy trong tâm hồn buồn bã của tôi:
04/03/2012(Xem: 46190)
Một cuộc đời một vầng nhật nguyệt (tập 4), mục lục: Sắc đẹp hoa sen Chuyện hai mẹ con cùng lấy một chồng Cảm hóa cô dâu hư Bậc Chiến Thắng Bất Diệt - Bạn của ta, giờ ở đâu? Đặc tính của biển lớn Người đàn tín hộ trì tối thượng Một doanh gia thành đạt Đức hạnh nhẫn nhục của tỳ-khưu Punna (Phú-lâu-na) Một nghệ sĩ kỳ lạ Vị Thánh trong bụng cá Những câu hỏi vớ vẩn Rahula ngủ trong phòng vệ sinh Voi, lừa và đa đa Tấm gương học tập của Rahula Bài học của nai tơ Cô thị nữ lưng gù
02/01/2012(Xem: 2914)
Đức Thế Tôn thành đạo bằng con đường nào? Bằng con đường chí thiện, có nội dung đoạn trừ các lậu hoặc, để thành tựu Niết-bàn và giáo hóa chúng sanh. - Điểm Đến Chí Thiện Sau những ngày từ bỏ vương cung, cạo bỏ râu tóc, mặc áo hoại sắc, làm người xuất gia, Thế Tôn nói: “Mặc dù cha mẹ không bằng lòng, than khóc nước mắt đầy mặt, ta vẫn cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia từ bỏ gia đình, sống đời sống thoát ly gia đình. Ta xuất gia như vậy, kẻ đi tìm cái gì chí thiện, đi tìm con đường vô thượng tối thắng, hướng đến tịch tịnh”.[1]
25/12/2011(Xem: 3024)
“Bạch đức Thế Tôn! Xin Ngài hãy thuyết pháp! Bạch đức Thiện Thệ, xin Ngài hãy thuyết pháp! Có những chúng sanh ít nhiễm bụi đời sẽ bị nguy hại, nếu không được nghe Chánh pháp. Nếu những vị này được nghe Chánh pháp họ sẽ thông hiểu” Theo kinh Āriyapariyesana, sau khi đức Thế Tôn thành đạo, Ngài chiêm nghiệm và quán chiếu sâu vào pháp do Ngài mới chứng được, là sâu thẳm, là vi diệu, cao quý, siêu lý luận, chỉ có người trí mới thấu hiểu, còn phần nhiều chúng sanh thì đam mê ái dục, chạy theo ái dục, khómà thấy được pháp lý duyên khởi, khó mà thấy được định lý tất cả hành là tịch tịnh…
08/01/2011(Xem: 2638)
Bạn có nghĩ rằng ta là người vĩ đại và quan trọng? Dĩ nhiên, hầu hết chúng ta đều nghĩ thế, ít nhất ra là vào một thời điểm nào đó. Nhưng mà rất khó để ôm giữ cái cảm giác quan trọng đó nếu bạn chịu khó suy xét đến cái thế giới không gian huyền diệu mà con người lần đầu tiên vừa thăm dò đến. Ta hãy nhìn nó như thế này:
07/01/2011(Xem: 2457)
Chiều 28-12-2000, phi trường Quốc tế Indra Gandhi, New Delhi rộn rịp đầy bóng những tăng ni sinh Việt Nam với những bó hoa tươi nhiều màu trên tay, những đôi mắt long lanh ngời sáng, những nụ cười hoan hỷ luôn nở trên môi… tất cả đang rộn ràng, hớn hở, chờ đợi đón phái đoàn hành hương từ Việt Nam sang do HT. Thích Trí Quảng, Trưởng Ban Hoằng pháp Trung Ương GHPGVN, Trưởng Ban Trị Sự Thành Hội TPHCM, và Tổng Biên tập báo Giác Ngộ làm trưởng đòan.Tháp Đại Giác ghi dấu sự thành đạo của đức Phật
05/01/2011(Xem: 2807)
Ngược dòng thời gian hơn 25 thế kỷ, kể từ thời điểm trọng đại đánh dấu một chiến công lẫy lừng trong lịch sử nhân loại, một con người bình thường bằng đấu tranh nội tại đã tự mình vượt thoát khỏi mọi sự trói buộc của khổ đau sanh tử luân hồi. Một đại vĩ nhân xuất hiện. Những lời tuyên bố đầu tiên của Ngài mãi mãi về sau vẫn là một khúc ca khải hoàn, chấm dứt trường chinh chống bọn giặc Ma vương phiền não, đưa một con người từ phàm phu lên vị trí một Bậc Giác ngộ, Bậc Đạo Sư của trời người. Từ đó nhân gian tôn xưng Ngài là Đức Phật -- Bậc Giác ngộ tối thượng. Và như thế, hằng năm đến ngày mùng tám tháng chạp, mọi người con Phật trên khắp năm châu đều nô nức đón chào một sự kiện lịch sử: Đức Phật Thích Ca Thành Đạo. Hòa với niềm vui chung của muôn loài, hôm nay chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu về ý nghĩa Thành Đạo của Đức Bổn Sư.
05/01/2011(Xem: 3743)
Mỗi năm đến ngày mùng 8 tháng Chạp, giới Phật giáo Bắc tông cử hành lễ kỷ niệm Ngày Thành đạo của đức Phật Thích Ca nhưng theo truyền thống Phật giáo Nam tông, ngày đức Phật Đản sanh, Xuất gia, Thành đạo và Niết bàn đều là ngày trăng tròn tháng Tư âm lịch. Riêng đối với tôi, ngày tháng Thành đạo là ngày nào không quan trọng mà vấn đề chính chúng ta cần tìm hiểu về ý nghĩa của sự Thành đạo. Kỷ niệm đức Phật Thành đạo theo tinh thần kinh Hoa Nghiêm để cùng tiến bước trên con đường chánh pháp, xây dựng cuộc sống an lạc tốt đạo đẹp đời.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567