Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

7. Có một sự thật - Quảng Minh

16/05/201313:35(Xem: 2476)
7. Có một sự thật - Quảng Minh


Tuyển tập

Phật Thành Đạo

Nhiều tác giả
--- o0o --- 

Phần I

Bản chất và con đường Giác Ngộ

--- o0o ---

CÓ MỘT SỰ THẬT

Quảng Minh

Khi thấy rõ vô ngã tính của các pháp thì tham ái và chấp thủ sẽ tan dần đến hủy diệt, khổ não sẽ tiêu đi, và giải thoát sẽ đến. Bấy giờ thực tại duyên sinh trở về chính nó. Nó là như thế, mãi mãi là như thế.

Có một sự thật mà chỉ sau khi Đức Thích-ca-mâu-ni (Sakyamuni) ngộ đạo thành Phật dưới cội bồ-đề mới được hiển bày cho thế gian này, đó là "sự thật về pháp duyên khởi."

Sự thật về pháp duyên khởi hay còn gọi là duyên sinh pháp mà theo đó mọi sự vật (pháp) đều giới hạn, tương đối, và phụ thuộc lẫn nhau. Đây là thuyết tương đối của Phật giáo. Nguyên tắc của lý thuyết này được tóm tắt trong một công thức gồm 4 hàng:

Cái này có thì cái kia có;
Cái này sinh thì cái kia sinh;
Cái này không có thì cái kia không có;?br> Cái này diệt thì cái kia diệt.

Theo nguyên tắc của lý duyên sinh về điều kiện tính, tương đối tính và tính tương quan, tương liên thì toàn thể sự sinh tồn và tiếp tục sinh tử của con người, cùng sự chấm dứt sinh tử được giải thích trong 12 nhân duyên sinh khởi: 1) vô minh duyên hành, 2) hành duyên thức, 3) thức duyên danh sắc, 4) danh sắc duyên lục nhập, 5) lục nhập duyên xúc, 6) xúc duyên thọ, 7) thọ duyên ái, 8) ái duyên thủ, 9) thủ duyên hữu, 10) hữu duyên sinh, 11) sinh duyên , 12) lão, tử, ưu bi, khổ não. Đây là quá trình theo đó sự sống đã phát sinh, tồn tại và tiếp diễn. Nếu ta đảo ngược quá trình, ta sẽ đi đến sự chấm dứt của sinh tử.

Trong mười hai chi phần nhân duyên thì ái và thủ là những nguyên nhân trực tiếp và rõ rệt nhất tạo nên toàn bộ khổ uẩn tập khởi. Khi tham ái và chấp thủ đoạn diệt, thì toàn bộ khổ uẩn đoạn diệt. Ái là ý niệm sai lầm về ngã phát sinh vì vô minh. Do con người ái sắc, ái thọ, ái tưởng, ái hành, ái thức, nên khi sắc, thọ, tưởng, hành, thức ấy bị biến đổi, bị hoại diệt mới sinh sầu, bi, khổ, ưu, não. Khổ đau chính là lòng khát ái. Đức Phật dạy: "Thế gian thiếu thốn, khát khao và bị nô lệ cho dục vọng." Ở đâu có dục vọng, có tham ái thì ở đó có chấp thủ. Do chấp thủ ngũ uẩn là mình, là tự ngã của mình nên con người cứ rơi vào bất hạnh khổ đau. Bát-nhã Tâm Kinhchép: "Thấy năm uẩn là Không (vô ngã) thì liền thoát ly hết mọi khổ ách" (Chiếu kiến ngũ uẩn giai không độ nhất thiết khổ ách). Năm uẩn là thân tâm (ngã) và thế giới của thân tâm chúng ta (pháp). Thấy năm uẩn vô ngã thì sẽ lìa xa mọi chấp thủ (ngã chấp và pháp chấp) mà đoạn tận khổ đau.

Quán sát lý duyên sinh tức là quán sát sự sinh diệt của các pháp theo định lý duyên sinh và duyên diệt của nó; thấy rõ rằng các pháp sinh và diệt liên tục trong tư thế tương quan tương duyên với nhau, không một pháp nào tự nó có mặt mà không liên hệ đến pháp khác và không một pháp nào diệt đi mà không kéo theo sự đoạn diệt của các pháp khác. Nói cách khác, mọi sự, khi được thấy và hiểu trong tương quan đích thực của nó, thì không phải là những thực thể độc lập mà hỗ tương lệ thuộc với mọi vật khác. Đức Phật so sánh vũ trụ như một cái lưới rộng lớn dệt bằng vô số hạt châu chiếu sáng (Phạm võng), mỗi hạt có vô số góc cạnh. Mỗi hạt châu phản chiếu vô số hạt khác trong lưới, và là một với những hạt khác.

Quán sát lý duyên sinh cũng có nghĩa là quán sát các pháp là vô thường, khổ, không và vô ngã. Đây là cái nhìn giác ngộ của chư Phật mở ra cho tất cả những ai mong muốn tìm thấy chính mình và tìm thấy sự thật ở trên cõi đời này đúng như sự thật. Đức Phật gọi các pháp là vô thường bởi tính chất của chúng là sinh diệt, biến dị, có rồi không. Các pháp sinh diệt, biến đổi gây đau khổ cho loài hữu tình, những chúng sinh còn tham ái và chấp thủ, nên gọi là khổ. Tất cả các pháp hữu vi đều do duyên sinh, không có thật sinh hay thật diệt, "vô tự tính" nên gọi là vô ngã. Với định thức duyên khởi, cái này có vì cái kia có, do đó không một pháp nào tự hữu, như vậy, pháp do duyên khởi nên gọi là "Không." Như vậy tất cả các pháp hữu vi, dù được nêu rõ dưới hình thức ngũ uẩn, thập nhị xứ, thập bát giới đều mang tính chất duyên sinh, vô thường, vô ngã. Đã là duyên sinh, vô thường, vô ngã rồi mà cứ lầm nhận là thường hằng, hữu ngã thì theo đó đau khổ sẽ phát sinh. Do đó, muốn giải thoát khổ đau thì phải từ bỏ mọi vọng tưởng về ngã và ngã sở (tôi và của tôi), phải nhìn các pháp theo nghĩa "biết và thấy thực tại như thế là như thế," nghĩa là các pháp vận hành như thế nào thì biết và thấy như thế ấy mà không cố gắng gán bất kỳ ngã tính nào lên chúng. Đây là cái nhìn khách quan, như thị của Phật giáo, một cái nhìn phi khổ đau, trung đạo, vô vi và thanh tịnh, như chính Đức Phật xác định quan điểm của Ngài: "Khi Như Lai thanh tịnh, Như Lai thấy thế giới thanh tịnh."

Duyên khởi nói lên thực tính của các pháp, thực tính ấy là "duyên sinh tính" hay "vô ngã tính," bởi vì "gọi là duyên sinh là các pháp được tác thành, hữu vi, biến hoại, tan rã, đoạn diệt, vô thường." Bài kệ mở đầu Trung Luậncủa Tổ Long Thọ cũng nói lên ý nghĩa ấy:

Bất sinh diệc bất diệt,
Bất thường diệc bất đoạn,
Bất nhất diệc bất dị,
Bất khứ diệc bất lai,
Năng thuyết thị nhân duyên,
Thiện diệt chư hý luận.

Thừa nhận thực tại là duyên khởi tức thừa nhận các pháp có "sinh diệt;" và cũng chính do duyên khởi mà các pháp "bất sinh bất diệt," nghĩa là Không. Như Trung Luận viết: "Vì Không cho nên Có" (dĩ hữu Không nghĩa cố, nhứt thiết pháp đắc thành). Ở đây không nên hiểu là vì có cái Không cho nên có cái Có, theo tính chất đối đãi của hiện hữu. Nên hiểu bản chất của hiện hữu là Không, là Duyên sinh vô tính. Đó là ý nghĩa Trung đạo của định thức duyên khởi.

Trong kinh Đại Duyêncủa Trường Bộ, khi tôn giả Ananda ca ngợi giáo lý duyên khởi thâm thúy, thì Đức Phật lại nhấn mạnh hơn: "Này Ananda, chính vì không giác ngộ, không thâm hiểu giáo lý duyên khởi, nên chúng sinh hiện tại rối loạn như một ổ kén, rối ren như một ống chỉ, giống như cỏ Munja và lau sậy Babaja, không thể nào ra khỏi khổ xứ, ác thú, đọa xứ, sinh tử." Không thể xem duyên khởi như là giáo lý được Đức Phật phương tiện thuyết để đối trị chấp ngã, cái nhân đau khổ. Thực sự khổ đau là do vô minh, không hiểu rõ tính duyên khởi, vô ngã của các pháp. Đoạn tận đau khổ đồng nghĩa với giác ngộ lý duyên sinh, vô ngã ấy.

Nhờ quán sát lý duyên sinh đối với tất cả pháp mà Đức Phật đạt được giải thoát và giác ngộ. Thế nên Ngài dạy rằng: "Ai thấy duyên khởi là thấy pháp; ai thấy pháp là thấy Phật." Đức Phật xác nhận: "Pháp duyên khởi ấy, dù có Như Lai xuất hiện hay không xuất hiện, an trú là giới tánh ấy, pháp quyết định tánh ấy, y duyên tánh ấy. Như Lai hoàn toàn chứng ngộ, chứng đạt định lý ấy. Sau khi hoàn toàn chứng ngộ, chứng đạt, Như Lai tuyên bố, tuyên thuyết, khai triển, khai thị, phân biệt, minh hiển, minh thị."

Thực tại của cuộc đời trôi chảy như dòng sông và không dính dáng gì đến các tên gọi mà người ta gán đặt cho nó: "có gì trong một danh từ, hoa hồng hương ấy cho dù tên chi." Cuộc sống dù có tân kỳ đến đâu vẫn không thoát khỏi quy luật sanh, già, bịnh, chết. Đạo Phật ra đời không nhằm biến đổi quy luật này của cuộc đời nhưng nó mở mắt cho con người nhận diện sự thật duyên sinh, vô thường, vô ngã của cuộc đời. Đại đức Walpola Rahula đã viết trong quyển "What The Buddha Taught" : "Phật giáo không ru người vào trong thiên đường của người ngu, cũng không làm người hãi hùng thất vía với đủ mọi thứ sợ hãi tưởng tượng và đủ mọi tội lỗi. Nó chỉ nói cho bạn biết một cách chân xác và khách quan bạn là gì và thế giới chung quanh bạn là gì, và chỉ cho bạn con đường đưa đến tự do hoàn toàn, thanh bình, an tịnh và hạnh phúc." Đó là thông điệp hành động của Phật giáo, một thông điệp thực tiễn và sống động đã được Đức Phật chứng ngộ và tuyên thuyết với mục đích giải thoát cho con người và cuộc đời khỏi mọi chấp thủ khổ đau bằng cách nhìn vào thực tại với cái nhìn như thật duyên sinh và vô ngã:

Hãy nhìn như bọt nước
Hãy nhìn như cảnh huyễn.
Quán nhìn đời như vậy,
Thần chết không bắt gặp.

(Pháp Cú, kệ số 170)

Hiểu rõ lý duyên khởi thì đối với những được và thua, danh thơm và tiếng xấu, ca tụng và khiển trách, hạnh phúc và đau khổ người con Phật xem như "hoa đốm giữa hư không." Duyên khởi nói lên tính tương đối và tương quan của hiện tượng giới, bao gồm tính tương đối của nhận thức, cho nên từ nay người con Phật cần phải sống với trực tâm, thâm tâm và bồ đề tâm chứ không sống bằng vọng thức vốn bóp méo thực tại. Trong đời sống hành trì, người con Phật thể hiện sự hòa điệu giữa thân tu tập và tâm tu tập, giữa tu phước và tu tuệ, giữa tự lực và tha lực, giữa mình với tăng thân, gia đình, cộng đồng, giữa con người và xã hội, giữa tri và hành, giữa giới, định và tuệ, giữa đời và đạo. Thấu hiểu duyên sinh tính của vạn pháp thì người con Phật tự vui mừng rằng ngày nay có duyên thấy biết Phật pháp, quy y Tam Bảo, niệm được câu Phật, gặp được thầy hiền bạn tốt, xuất gia theo Phật, hẳn là có nguyên do xa xưa. "Tri pháp thường vô tánh, Phật chủng tùng duyên khởi" nên người con Phật có một niềm tin sâu xa (thâm tín) rằng tuệ giác vô thượng bồ đề của Phật chính là bản giác của tâm chúng ta; đem niềm tin này mà cầu sinh Cực lạc thì hợp với bản hoài của Đức Thế Tôn. Ý thức được rằng bản thân ta có tương quan mật thiết với mọi người mọi sự, thì ngay cả một ý nghĩ lời nói, hành động nhỏ nhất của ta cũng có những hậu quả khắp vũ trụ. Chúng ta chịu trách nhiệm về mọi điều ta làm, nghĩ và nói, cũng như tri ân mọi người mọi sự chung quanh ta. Thái độ tri ân mở ra trong ta một lòng bi mẫn lớn mà ta không ngờ mình cũng có, và do đó càng ngày tâm ta càng rộng rãi đối với mọi sự vật và hữu tình. Cố nhiên những trình bày trên đây chỉ là Chánh kiến, Chánh tư duy, điều quan trọng là mỗi người con Phật phải nỗ lực tự tu tập và tìm sự giải thoát cho chính mình, vì con người có năng lực giải thoát mình ra khỏi mọi ràng buộc, bằng trí tuệ và nỗ lực của riêng mình. Đức Phật dạy: "Các người nên làm công việc của mình, vì các đức Như Lai chỉ dạy con đường mà thôi."

Tóm lại Duyên khởi là giáo lý nền tảng nhất của Phật giáo. Dù duyên khởi được nhìn dưới quan điểm bộ phái nào, dù được trình bày dưới định thức tổng quát "Cái này có, cái kia có..." hay dưới mười hai chi phần nhân duyên, nó vẫn chuyên chở đầy đủ ý nghĩa thậm thâm nhất. Cho rằng duyên khởi là giáo lý thuộc Duyên giác thừa hay Tiểu thừa chỉ là một thiên chấp hay là một ngộ nhận đáng tiếc. Khi thấy rõ vô ngã tính của các pháp thì tham ái và chấp thủ sẽ tan dần đến hủy diệt, khổ não sẽ tiêu đi, và giải thoát sẽ đến. Bấy giờ thực tại Duyên sinh trở về chính nó. Nó là như thế, mãi mãi là như thế. Kinh Pháp Hoa gọi đây là "Thế gian tướng thường trụ," Trung luận gọi là "thật tướng," Bát nhã gọi là "Không," Hoa nghiêm, Niết-bàn gọi là "Diệu hữu," Thiền tông gọi là "Bản địa phong quang."

--- o0o ---


Chân thành cảm ơn Đại Đức Nhật Từ đã gởi tặng phiên bản điện tử tuyển tập này.

--- o0o ---

Vi tính: Hải Hạnh - Giác Định

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
29/03/2013(Xem: 3810)
Trong Việt Nam Phật Giáo sử luận, tập một, khi bàn về sự liên hệ giữa thiền và thi ca, giáo sư Nguyễn Lang viết: “Thi ca không có hình ảnh thì không còn thi ca nữa, cũng như đi vào lý luận siêu hình thì thiền không còn có thể là thiền nữa”
14/12/2012(Xem: 6904)
Bản-thể-của-Phật còn gọi là Như Lai Tạng, Phật Tính, Pháp Giới, Chân Như... (tiếng Phạn là Tathagatagarbha), là một khái niệm quan trọng của Đại Thừa Phật Giáo.
19/06/2012(Xem: 6532)
Những khi mà tâm hồn tôi bị hoang mang và dao động trước những thống khổ của con người do chính con người gây ra, những lúc đó tự nhiên những câu thơ của Bùi Giáng, những câu thơ mà một thời tôi đã từng say sưa đọc lại có dịp sống dậy trong tâm hồn buồn bã của tôi:
04/03/2012(Xem: 46196)
Một cuộc đời một vầng nhật nguyệt (tập 4), mục lục: Sắc đẹp hoa sen Chuyện hai mẹ con cùng lấy một chồng Cảm hóa cô dâu hư Bậc Chiến Thắng Bất Diệt - Bạn của ta, giờ ở đâu? Đặc tính của biển lớn Người đàn tín hộ trì tối thượng Một doanh gia thành đạt Đức hạnh nhẫn nhục của tỳ-khưu Punna (Phú-lâu-na) Một nghệ sĩ kỳ lạ Vị Thánh trong bụng cá Những câu hỏi vớ vẩn Rahula ngủ trong phòng vệ sinh Voi, lừa và đa đa Tấm gương học tập của Rahula Bài học của nai tơ Cô thị nữ lưng gù
02/01/2012(Xem: 2914)
Đức Thế Tôn thành đạo bằng con đường nào? Bằng con đường chí thiện, có nội dung đoạn trừ các lậu hoặc, để thành tựu Niết-bàn và giáo hóa chúng sanh. - Điểm Đến Chí Thiện Sau những ngày từ bỏ vương cung, cạo bỏ râu tóc, mặc áo hoại sắc, làm người xuất gia, Thế Tôn nói: “Mặc dù cha mẹ không bằng lòng, than khóc nước mắt đầy mặt, ta vẫn cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia từ bỏ gia đình, sống đời sống thoát ly gia đình. Ta xuất gia như vậy, kẻ đi tìm cái gì chí thiện, đi tìm con đường vô thượng tối thắng, hướng đến tịch tịnh”.[1]
25/12/2011(Xem: 3024)
“Bạch đức Thế Tôn! Xin Ngài hãy thuyết pháp! Bạch đức Thiện Thệ, xin Ngài hãy thuyết pháp! Có những chúng sanh ít nhiễm bụi đời sẽ bị nguy hại, nếu không được nghe Chánh pháp. Nếu những vị này được nghe Chánh pháp họ sẽ thông hiểu” Theo kinh Āriyapariyesana, sau khi đức Thế Tôn thành đạo, Ngài chiêm nghiệm và quán chiếu sâu vào pháp do Ngài mới chứng được, là sâu thẳm, là vi diệu, cao quý, siêu lý luận, chỉ có người trí mới thấu hiểu, còn phần nhiều chúng sanh thì đam mê ái dục, chạy theo ái dục, khómà thấy được pháp lý duyên khởi, khó mà thấy được định lý tất cả hành là tịch tịnh…
08/01/2011(Xem: 2638)
Bạn có nghĩ rằng ta là người vĩ đại và quan trọng? Dĩ nhiên, hầu hết chúng ta đều nghĩ thế, ít nhất ra là vào một thời điểm nào đó. Nhưng mà rất khó để ôm giữ cái cảm giác quan trọng đó nếu bạn chịu khó suy xét đến cái thế giới không gian huyền diệu mà con người lần đầu tiên vừa thăm dò đến. Ta hãy nhìn nó như thế này:
07/01/2011(Xem: 2458)
Chiều 28-12-2000, phi trường Quốc tế Indra Gandhi, New Delhi rộn rịp đầy bóng những tăng ni sinh Việt Nam với những bó hoa tươi nhiều màu trên tay, những đôi mắt long lanh ngời sáng, những nụ cười hoan hỷ luôn nở trên môi… tất cả đang rộn ràng, hớn hở, chờ đợi đón phái đoàn hành hương từ Việt Nam sang do HT. Thích Trí Quảng, Trưởng Ban Hoằng pháp Trung Ương GHPGVN, Trưởng Ban Trị Sự Thành Hội TPHCM, và Tổng Biên tập báo Giác Ngộ làm trưởng đòan.Tháp Đại Giác ghi dấu sự thành đạo của đức Phật
05/01/2011(Xem: 2807)
Ngược dòng thời gian hơn 25 thế kỷ, kể từ thời điểm trọng đại đánh dấu một chiến công lẫy lừng trong lịch sử nhân loại, một con người bình thường bằng đấu tranh nội tại đã tự mình vượt thoát khỏi mọi sự trói buộc của khổ đau sanh tử luân hồi. Một đại vĩ nhân xuất hiện. Những lời tuyên bố đầu tiên của Ngài mãi mãi về sau vẫn là một khúc ca khải hoàn, chấm dứt trường chinh chống bọn giặc Ma vương phiền não, đưa một con người từ phàm phu lên vị trí một Bậc Giác ngộ, Bậc Đạo Sư của trời người. Từ đó nhân gian tôn xưng Ngài là Đức Phật -- Bậc Giác ngộ tối thượng. Và như thế, hằng năm đến ngày mùng tám tháng chạp, mọi người con Phật trên khắp năm châu đều nô nức đón chào một sự kiện lịch sử: Đức Phật Thích Ca Thành Đạo. Hòa với niềm vui chung của muôn loài, hôm nay chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu về ý nghĩa Thành Đạo của Đức Bổn Sư.
05/01/2011(Xem: 3743)
Mỗi năm đến ngày mùng 8 tháng Chạp, giới Phật giáo Bắc tông cử hành lễ kỷ niệm Ngày Thành đạo của đức Phật Thích Ca nhưng theo truyền thống Phật giáo Nam tông, ngày đức Phật Đản sanh, Xuất gia, Thành đạo và Niết bàn đều là ngày trăng tròn tháng Tư âm lịch. Riêng đối với tôi, ngày tháng Thành đạo là ngày nào không quan trọng mà vấn đề chính chúng ta cần tìm hiểu về ý nghĩa của sự Thành đạo. Kỷ niệm đức Phật Thành đạo theo tinh thần kinh Hoa Nghiêm để cùng tiến bước trên con đường chánh pháp, xây dựng cuộc sống an lạc tốt đạo đẹp đời.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567