Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

6. Sự đóng góp của Đông Nam Á trong việc duy trì ngôi đại tháp Bồ-Đề - Diệu Hương dịch

16/05/201317:20(Xem: 2246)
6. Sự đóng góp của Đông Nam Á trong việc duy trì ngôi đại tháp Bồ-Đề - Diệu Hương dịch


Tuyển tập

Phật Thành Đạo

Nhiều tác giả
--- o0o --- 

Phần IV

Bồ Đề Đạo Tràng lịch sử và chiêm bái

--- o0o ---

SỰ ĐÓNG GÓP CỦA ĐÔNG NAM Á TRONG VIỆC DUY TRÌ NGÔI ĐẠI THÁP BỒ-ĐỀ

Đại đức M. Wimalasara
Diệu Hương dịch

Sự đóng góp về nhân lực và tài lực của Phật giáo vùng Đông Nam Á ở Bồ-đề Đạo Tràng là do những cá nhân, những tổ chức đoàn thể với nhiều quan điểm khác nhau nhưng tất cả cùng chung một mục đích là bảo tồn đại tháp và xúc tiến việc chấn hưng Phật giáo.

Đại tháp Bồ-đề (Maha Bodhi Temple, tên hiện nay gọi là Buddha Gaya Temple) có lịch sử văn hóa và tôn giáo lâu đời. Đại tháp Bồ-đề này là nơi thờ phượng và chiêm bái của phật tử vùng Đông Nam Á đã nhận được sự bảo trợ của các triều đại trong quá khứ, không chỉ Ấn Độ mà còn có các quốc gia vùng Đông Nam Á tham gia trong việc bảo vệ, duy trì, trùng tu và nâng cấp đại tháp này.

Suốt thời kỳ đen tối của lịch sử Ấn Độ, từ thế kỷ XI đến XV, các vua quan Miến Điện và Tích Lan đã nỗ lực phục hồi ngôi đại tháp Bồ-đề.

Từ thế kỷ I đến thế kỷ II trước tây lịch, các nhà chiêm bái Tích Lan đã liên tiếp đến Bồ-đề Đạo Tràng, và đã cống hiến rất nhiều trong việc bảo quản và trùng tu đại tháp Bồ-đề này. Điều này được biết qua sự cúng dường của Buddharaksta, người cư ngụ ở Tamprapani (Tích Lan) đã được khắc ghi trên tường rào ở Bồ-đề Đạo Tràng và có niên đại trong khoảng thế kỷ I và II trước tây lịch.

Một bản khắc trên bia đá khác ở Bồ-đề Đạo Tràng có niên đại 588-89 đã ghi rằng Mahanama sống ở Amardvipa, thuộc hoàng gia Tích Lan (Lankadwipa) đã xây một ngôi chùa tại đây. Điều này được chứng thực bằng một bia đá khác được tìm thấy trong các bức tường của đại tháp đã sụp đổ, nằm ở phía bắc của đại tháp này.

Chư tăng Tích Lan Dharmadasa, Dharmagupta và Damshitrasena đã đến chiêm bái thánh tích này và đã được ghi nhận là những người đã có công đóng góp. Họ đã cúng dường hai tượng Phật tại Bồ-đề Đạo Tràng.

Vua Tích Lan Meghavarna (352-357) đã xây dựng một đại già-lam có sức chứa 1000 chư tăng và các nhà chiêm bái. Ký sự của Ngài Huyền Tráng (năm 635) ghi rằng khoảng 1000 tỳ-kheo theo truyền thống Thượng Toạ (Sthavira) đã cư ngụ tại đại già-lam này. Một bia khắc ở Bồ-đề Đạo Tràng cũng có ghi có một hậu duệ của vua Tích Lan tên là Sarmana Prakhyatakirti đã viếng thăm Bồ-đề Đạo Tràng và đảnh lễ Tam Bảo (Ratnatraya) để cầu nguyện hòa bình cho nhân loại. Bia ký này có niên đại khoảng thế kỷ thứ VI và VII.

Một bia đá Janibigha khác có khắc ghi một ngôi làng tên Kotthala, nơi có tòa Kim cang (Vajrasana), có một vị tăng Tích Lan tên Marigalaswamin đã cư trú tại đó. Bia này có niên đại 1179.

Một bia ký khác thuộc thế kỷ XII có ghi sự hiện diện liên tục của chư tăng Tích Lan ở Bồ-đề Đạo Tràng và Udaysri đã xây một tượng Phật tại đây.

Tháng 1/1891, Hòa thượng Anagarika Dhammapala, người Tích Lan đã đến viếng Bồ-đề Đạo Tràng. Ngài xót xa trước quang cảnh đổ nát của đại tháp và đã phát nguyện dâng trọn cuộ? đời mình để phục hồi lại di tích.

Vào tháng 5/1891 Hội Maha Bodhi của Ấn Độ được thành lập tại thủ đô Colombo, Tích Lan để nhằm mục đích trùng tu di tích Phật giáo. Hội nghị Phật giáo lần thứ nhất được tổ chức tại Bồ-đề Đạo Tràng vào tháng 10/1891 với sự tham dự của các nước như Tích Lan, Chittagong, Trung Hoa, Nhật Bản nhằm xúc tiến các hoạt động cao quý trong việc hồi phục lại thánh địa thiêng liêng nhất của Phật giáo là Bồ-đề Đạo Tràng – nơi Đức Phật thành đạo.

Trong thời gian gần đây, với truyền thống kính thờ và bảo tồn đại tháp Bồ-đề này, chính phủ và Phật tử Tích Lan đã cúng tặng một tấm trướng bằng vàng rất đẹp và trang nhã cho đại tháp, xây một hàng rào bảo vệ tòa Kim cang và cất 101 căn hộ cho người nghèo ở Bồ-đề Đạo Tràng. Điều này đã đánh dấu mốc lịch sử quan trọng trong mối quan hệ hữu nghị lâu đời giữa Tích Lan và Ấn Độ.

Vua Pagan của Miến Điện cũng được ghi nhận là người có công trong việc trùng tu đại tháp Bồ-đề. Điều này có thể được xác định qua tấm bia ký của Miến Điện vào thế kỷ XI, được phát hiện ở Bồ-đề Đạo Tràng. Như vậy, theo dòng thời gian các vua, quan, quý tộc, tu sĩ Miến Điện đã trùng tu và duy trì đại tháp. Raja-Sad-Meng, Raja-Senpya-Sokhentra-Mengi là những người bảo trợ cho tháp này.

Các nhà chiêm bái Trung Hoa như Pháp Hiển, Huyền Tráng, Nghĩa Tịnh trong nhật ký hành hương của mình đã mô tả một cách rất chi tiết về đại tháp Bồ-đề ở Bồ-đề Đạo Tràng và các hoạt động tôn giáo ở vùng này. Ngài Nghĩa Tịnh đã đề cập đến việc vua Tích Lan đã xây dựng đại tháp Bồ-đề và tăn-già-lam gần cây bồ đề.

Các bia ký bằng tiếng Trung Hoa đã ghi nhận Chi-I, Yen-Shu, I-Ching, I-Lin và Hiu-Wen đã xây dựng tháp ở Bồ-đề Đạo Tràng, xây một chánh điện và cúng một tấm y kim tuyến phủ trên tòa Kim cang và được ủy quyền để xây nhiều tháp xung quanh. Điều này chứng minh sự nhiệt tâm làm Phật sự của người Trung Hoa ở Bồ-đề Đạo Tràng. Bia ký của Chi-I có ghi chép sự kiện ngài cùng với những người hành hương khác đến đảnh lễ tòa Kim Cang. Hơn nữa trong suốt triều đại nhà Tống, vị tăng Yun-Shu đã ghi nhận:

"Họ đi cùng tôi đến đảnh lễ thánh tích của Phật, thầy I-Ching và I-Lin thì từ tu viện đến. Sau khi thuyết pháp ở phía đông thủ đô, mỗi người trong họ mang theo một tấm phướng Kasaya thêu kim tuyến để cúng ở chánh điện của đại tháp và ngồi hồi tưởng tại nơi đó."

Tóm lại, sự đóng góp về nhân lực và tài lực của Phật giáo vùng Đông Nam Á ở Bồ-đề Đạo Tràng là do những cá nhân, những tổ chức đoàn thể với nhiều quan điểm khác nhau nhưng tất cả cùng chung một mục đích là bảo tồn đại tháp và xúc tiến việc chấn hưng Phật giáo. Từ đó, những hoạt động xây dựng cũng như các Phật sự nhắm tới sự trau dồi các giá trị văn hóa và tôn giáo tại Ấn Độ và tất cả đã đang được sự ủng hộ chẳng những từ giới Phật giáo của vùng Đông Nam Á mà còn bắt đầu lan rộng đến các quốc gia châu Âu.

[Dịch từ nguyên tác tiếng Anh "Contribution of South East Asia to the Preservation of Maha Bodhi Temple" của Ven. M. Wimalasara, đăng trong Kỷ Yếu Buddha Vandana, Buddha Gaya Temple Management Committee, Buddha Gaya, 1981, p. 39].

--- o0o ---


Chân thành cảm ơn Đại Đức Nhật Từ đã gởi tặng phiên bản điện tử tuyển tập này.

--- o0o ---

Vi tính: Hải Hạnh - Giác Định

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/04/2013(Xem: 3439)
Một mùa Thành Đạo nữa lại về. Thành Đạo là tên gọi của sự kiện chứng ngộ Niết Bàn . Một lầ nữa, lòng chúng ta lại rộn lên niềm hân hoan chào đón ngày Đức Thế Tôn hoàn thành công phu tu tập của Ngài, công phu chuyển đổi vọng tâm để Niết Bàn hiển lộ.
29/03/2013(Xem: 3810)
Trong Việt Nam Phật Giáo sử luận, tập một, khi bàn về sự liên hệ giữa thiền và thi ca, giáo sư Nguyễn Lang viết: “Thi ca không có hình ảnh thì không còn thi ca nữa, cũng như đi vào lý luận siêu hình thì thiền không còn có thể là thiền nữa”
14/12/2012(Xem: 6911)
Bản-thể-của-Phật còn gọi là Như Lai Tạng, Phật Tính, Pháp Giới, Chân Như... (tiếng Phạn là Tathagatagarbha), là một khái niệm quan trọng của Đại Thừa Phật Giáo.
19/06/2012(Xem: 6532)
Những khi mà tâm hồn tôi bị hoang mang và dao động trước những thống khổ của con người do chính con người gây ra, những lúc đó tự nhiên những câu thơ của Bùi Giáng, những câu thơ mà một thời tôi đã từng say sưa đọc lại có dịp sống dậy trong tâm hồn buồn bã của tôi:
04/03/2012(Xem: 46227)
Một cuộc đời một vầng nhật nguyệt (tập 4), mục lục: Sắc đẹp hoa sen Chuyện hai mẹ con cùng lấy một chồng Cảm hóa cô dâu hư Bậc Chiến Thắng Bất Diệt - Bạn của ta, giờ ở đâu? Đặc tính của biển lớn Người đàn tín hộ trì tối thượng Một doanh gia thành đạt Đức hạnh nhẫn nhục của tỳ-khưu Punna (Phú-lâu-na) Một nghệ sĩ kỳ lạ Vị Thánh trong bụng cá Những câu hỏi vớ vẩn Rahula ngủ trong phòng vệ sinh Voi, lừa và đa đa Tấm gương học tập của Rahula Bài học của nai tơ Cô thị nữ lưng gù
02/01/2012(Xem: 2916)
Đức Thế Tôn thành đạo bằng con đường nào? Bằng con đường chí thiện, có nội dung đoạn trừ các lậu hoặc, để thành tựu Niết-bàn và giáo hóa chúng sanh. - Điểm Đến Chí Thiện Sau những ngày từ bỏ vương cung, cạo bỏ râu tóc, mặc áo hoại sắc, làm người xuất gia, Thế Tôn nói: “Mặc dù cha mẹ không bằng lòng, than khóc nước mắt đầy mặt, ta vẫn cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia từ bỏ gia đình, sống đời sống thoát ly gia đình. Ta xuất gia như vậy, kẻ đi tìm cái gì chí thiện, đi tìm con đường vô thượng tối thắng, hướng đến tịch tịnh”.[1]
25/12/2011(Xem: 3025)
“Bạch đức Thế Tôn! Xin Ngài hãy thuyết pháp! Bạch đức Thiện Thệ, xin Ngài hãy thuyết pháp! Có những chúng sanh ít nhiễm bụi đời sẽ bị nguy hại, nếu không được nghe Chánh pháp. Nếu những vị này được nghe Chánh pháp họ sẽ thông hiểu” Theo kinh Āriyapariyesana, sau khi đức Thế Tôn thành đạo, Ngài chiêm nghiệm và quán chiếu sâu vào pháp do Ngài mới chứng được, là sâu thẳm, là vi diệu, cao quý, siêu lý luận, chỉ có người trí mới thấu hiểu, còn phần nhiều chúng sanh thì đam mê ái dục, chạy theo ái dục, khómà thấy được pháp lý duyên khởi, khó mà thấy được định lý tất cả hành là tịch tịnh…
08/01/2011(Xem: 2638)
Bạn có nghĩ rằng ta là người vĩ đại và quan trọng? Dĩ nhiên, hầu hết chúng ta đều nghĩ thế, ít nhất ra là vào một thời điểm nào đó. Nhưng mà rất khó để ôm giữ cái cảm giác quan trọng đó nếu bạn chịu khó suy xét đến cái thế giới không gian huyền diệu mà con người lần đầu tiên vừa thăm dò đến. Ta hãy nhìn nó như thế này:
07/01/2011(Xem: 2458)
Chiều 28-12-2000, phi trường Quốc tế Indra Gandhi, New Delhi rộn rịp đầy bóng những tăng ni sinh Việt Nam với những bó hoa tươi nhiều màu trên tay, những đôi mắt long lanh ngời sáng, những nụ cười hoan hỷ luôn nở trên môi… tất cả đang rộn ràng, hớn hở, chờ đợi đón phái đoàn hành hương từ Việt Nam sang do HT. Thích Trí Quảng, Trưởng Ban Hoằng pháp Trung Ương GHPGVN, Trưởng Ban Trị Sự Thành Hội TPHCM, và Tổng Biên tập báo Giác Ngộ làm trưởng đòan.Tháp Đại Giác ghi dấu sự thành đạo của đức Phật
05/01/2011(Xem: 2808)
Ngược dòng thời gian hơn 25 thế kỷ, kể từ thời điểm trọng đại đánh dấu một chiến công lẫy lừng trong lịch sử nhân loại, một con người bình thường bằng đấu tranh nội tại đã tự mình vượt thoát khỏi mọi sự trói buộc của khổ đau sanh tử luân hồi. Một đại vĩ nhân xuất hiện. Những lời tuyên bố đầu tiên của Ngài mãi mãi về sau vẫn là một khúc ca khải hoàn, chấm dứt trường chinh chống bọn giặc Ma vương phiền não, đưa một con người từ phàm phu lên vị trí một Bậc Giác ngộ, Bậc Đạo Sư của trời người. Từ đó nhân gian tôn xưng Ngài là Đức Phật -- Bậc Giác ngộ tối thượng. Và như thế, hằng năm đến ngày mùng tám tháng chạp, mọi người con Phật trên khắp năm châu đều nô nức đón chào một sự kiện lịch sử: Đức Phật Thích Ca Thành Đạo. Hòa với niềm vui chung của muôn loài, hôm nay chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu về ý nghĩa Thành Đạo của Đức Bổn Sư.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567